TỘI NGHIỆP
Chương tŕnh sinh hoạt chiều bao gồm pháp thoại, ăn trong chánh niệm, niệm Phật, ngủ. Sáng hôm sau, dậy lúc 3 giờ sáng, vệ sinh, thực tập thiền định, ăn sáng, thiền hành, ăn trưa, chiều nghe thầy trú tŕ thuyết pháp. Ra về.
Thấy t́nh thương của thầy có vẻ cảm hóa con chó, Bác Xuân, một đạo hữu chừng 70 tuổi ngồi cạnh tôi chép miệng : " Tội nghiệp."
Lúc ngồi
trong thiền đường, tôi có phần thắc mắc v́ sao Bác Xuân lại nói tội
nghiệp khi nh́n con chó cưng của Thầy nhưng không tiện hỏi. Ra ngoài sân,
ngồi dưới gốc cây, tôi hỏi Bác , Bác bồi hồi kể chuyện. Câu chuyện Bác
kể thật là một chuyện lạ. Một hôm, không biết ăn phải thức ăn ǵ mà cả hai con chó lăn quay ra, quằn quại, tiêu chảy. Mấy sư cô cho uống nước đậu xanh giă nát, rồi nước lá ổi, rồi đem tới thú y. Mọi cố gắng chữa trị đều không kết quả. Cả hai con chó đều chết. Nhà chùa thương tiếc hai chú chó nên tụng kinh cầu siêu và tẩm liệm trong hai cái quách đàng hoàng rồi đem chôn trong hai nấm mộ nhỏ sau lưng chùa. Trước khi tẩm liệm, mấy ni cô c̣n nhỏ tỏ ḷng thương yêu hai con chó bằng cách lấy son đỏ bôi dưới mấy ngón chân của hai chân sau. Câu chuyện tưởng chừng rơi vào quên lăng nếu không xảy ra chuyện hơn mười tháng sau đó. Một buổi sáng mùa đông năm 1972, sau thời công phu sáng, Sư bà nghe tiếng bé sơ sinh khóc trước cổng chùa. Buổi sáng tinh mơ, tiếng khóc nghe rơ mồn một. Sư bà sai sư cô quản tự ra xem th́ thấy một cái khăn lông quấn hai hài nhi song sinh có một miếng giấy viết nguệch ngoạc mấy chữ ghi ngày giờ sinh của hai bé. Động ḷng từ tâm "con ai đem bỏ chùa này, nam mô Di Phật con thầy, thầy nuôi", Sư bà bảo các đệ tử đem vô chùa nuôi nấng. Lạ một điều, khi tắm rửa cho hai bé, mấy sư cô thấy bên dưới hai bàn chân bé nào cũng có năm chấm đỏ như son tụm lại có dạng một bàn chân chó. Những đứa bé lớn lên được thương yêu và nuôi dạy chu đáo. Tánh cũng ngoan và học hành cũng được. Sau 75, đời sống khó khăn nhưng các cháu cũng đầy đủ và dần dần lớn lên thành hai thiếu nữ xinh xắn. Thế rồi, có hai người đàn ông bạn với nhau là thủy thủ tàu viễn dương đến thăm chùa, đem ḷng yêu thương hai cháu. Đám cưới tổ chức đơn giản mà thân mật tại chùa dưới sự chứng minh của Sư bà trú tŕ. Thương hai cháu như con, Sư bà cắt đất chùa cho hai cặp tân hôn che nhà để ở. Đất nước thời kỳ bao cấp khó khăn vô cùng. Thiếu đủ mọi thứ. Nhưng những thủy thủ tàu viễn dương lại giàu có lên nhanh nhờ nhập lậu hàng nhu yếu. Trên hai mảnh đất chùa cho, mọc lên hai căn nhà lầu khang trang với đầy đủ tiện nghi. Ai cũng mừng cho hai cháu có phước. Nhưng chuyện đời lại oái oăm. Ơn dưỡng dục, dựng vợ gả chồng, cho đất cho đai như thế mà các cháu không nghĩ chút ǵ đến chuyện đền ơn đáp nghĩa, cứ se sua nếp sống nhà giàu hưởng lạc, chẳng quan tâm hỏi han những người đă cho ḿnh cuộc sống tốt đẹp như ngày hôm nay. Thậm chí ở trong khuôn viên chùa mà chẳng đoái hoài chi chuyện tụng kinh niệm Phật, hương khói rằm mồng một mà cũng chẳng cúng dường. Khi hai cháu sinh em bé đầu ḷng th́ chưa thôi nôi, hai anh chàng thủy thủ viễn dương kia thay ḷng đổi dạ. Chúng theo người đàn bà khác thường xuyên về nhà đánh đập vợ. Chuyện gây tức tối đến nỗi cả hai phẫn chí là khi hai chàng thủy thủ dắt hai người t́nh mắt xanh mỏ đỏ về nhà gây sự. Tối hôm đó, cả hai chị em buồn quá rủ nhau cùng uống thuốc ngủ liều cao tự tử. Hai đứa con mồ côi mẹ của họ lại được chùa Diệu Pháp nhận nuôi".
|