NÉN HƯƠNG L̉NG CHO ANH
(Thương gửi hương hồn
Anh Trần Thương Bá)
Trong bài viết của ḿnh, chị Trần Thị Thu Tâm đă phân vân không biết nên nói về Trần Thương Bá như là một nhà thơ, hay một người anh. Và sau cùng, chị đă quyết định chọn phương án thứ hai. C̣n tôi, tôi cũng phân vân không biết nên viết về Trần Thương Bá như một người Thầy, một nhà thơ, hay là một kẻ tri âm. Lần này, tôi xin chọn phương án thứ ba – tôi muốn viết về Anh như một kẻ tri âm.
Cuối năm 1999 của thế kỷ trước, tôi đă in một tập “thơ” mang tên Gởi T́nh Yêu – Gởi Cuộc Đời. Để tạm gọi là “chia tay thế kỷ 20”. Tác giả “bao sân” từ A đến Z trên computer. Xong đưa đi in lụa 200 bản, chỉ dành tặng bạn bè và thân hữu.
Khi in xong, tôi gửi tặng Anh một bản. Đọc xong, Anh gọi điện cho tôi, bảo rằng Anh rất thích. Và nói: “Nghĩa c̣n bản nào không, gởi cho Thầy, để Thầy tặng bạn bè”. Tôi đă gửi cho Anh thêm hơn chục bản, và Anh đă đích thân đem đi tặng bạn của ḿnh.
Tôi xin Anh viết một đôi ḍng để in trong tập Tiếng Vọng Tri Âm... Một thời gian sau đó, Anh gởi cho tôi mấy ḍng cảm nhận:
Tôi không muốn đại ngôn khi nói về thơ Đỗ Tư Nghĩa. Tôi chỉ muốn nói một điều đơn giản: đọc anh, tôi thấy thích. Anh có nỗi đau riêng, tôi cũng vậy. Thơ anh gợi cho tôi nhiều câu hỏi phản tỉnh. Tôi nhớ hồi xưa chúng tôi dù là thầy tṛ, mà vẫn xem nhau như bạn. Nói chuyện với tôi, anh hay đặt những câu hỏi rất thú vị. Tôi trả lời cho anh và cho ḿnh, và luôn không thỏa măn, v́ câu trả lời chưa “tới”. Tôi nghĩ: sẽ chẳng bao giờ “tới” được. Bản chất sự vật là thế. Đă tới được th́ c̣n ǵ mà bàn nữa. Zarathustra không lên núi – Phật không rời điện ngọc, Jesus không t́m cách để được đóng đinh theo ư Chúa.
… Thơ Đỗ Tư Nghĩa không
thể nói là “ai cũng đọc
được”, “ai cũng cảm nhận
được”. Nó là một thứ
message có tính gởi gắm
– phát riêng một tần số.
Nói th́ ghê gớm quá,
nhưng không phải vậy.
Đơn giản như tôi đă nói:
Bắt đầu bằng thích hay
không. Thơ Đỗ Tư Nghĩa
có tính mặc tường, nên
người đọc trước tiên
tiếp xúc bằng trực giác.
Sau đó là một chuỗi lôi
cuốn, tuôn tràn – lẫn
lộn – chan ḥa – để cuối
cùng thấy “ta trong
người và người trong
ta”. V́ vậy mà t́m kiếm
thơ, hiểu thơ và cảm thơ
là một việc làm vô ích
khi tự ta không có chút
thơ nào. “On ne peut
trouver Póesie nulle
part quand on n’ en
porte pas en soi …” Trần Thương Bá Saigon. Tháng 12/1999 * * *
I
Anh nói: “Hồi xưa, chúng tôi tuy là thầy tṛ, nhưng vẫn xem nhau như bạn”. Đó chỉ là cách nói bao dung của Anh. Thực ra, Anh “đơn phương” xem tôi như bạn. Về phần ḿnh, tôi vẫn luôn nghĩ về Anh như một người Thầy, một nhà thơ, một nhà nghệ sĩ. Tâm hồn Anh rộng lớn, nên Anh không bị ràng buộc bởi quy ước của người đời. Nhưng vai tṛ của mỗi người trong xă hội, có khác ǵ những vai diễn trên sân khấu? – chẳng phải, người ta thường nói “sân khấu cuộc đời” đó sao? Khi Anh viết những ḍng trên đây, vào cuối năm 1999, th́ 35 năm đă trôi qua, kể từ thuở ấy (1964). Tôi nào biết, qua chừng ấy năm, Anh vẫn luôn xem tôi như bạn.
Tôi gặp Anh vào năm Đệ
tam C của trường trung
học Nguyễn Hoàng Quảng
Trị xưa. Anh đứng trên
bục giảng, c̣n tôi ngồi
ở dăy ghế học tṛ. Anh
c̣n trẻ lắm, khoảng 24 –
25 tuổi, c̣n tôi th́ mới
khoảng 17 tuổi. Cả hai
chúng tôi, tóc đều hăy
c̣n quá xanh. Ấn tượng
về Anh: môi đỏ, giọng
Huế ngọt ngào, dáng thư
sinh nho nhă. Ngay giờ
học đầu tiên, tôi đă cảm
nhận nơi Anh một phong
cách hết sức nghệ sĩ,
một tâm hồn rất thơ. Hồi
ấy tôi chưa biết Anh làm
thơ, chỉ mới cảm nhận
hồn thơ của Anh qua
những lời giảng.
Cũng không thể quên bài
Văn Tế Trương Quỳnh Như
của Phạm Thái – một
tráng sĩ mà với chàng,
th́ bao nhiêu khanh
tướng trong thiên hạ,
rót lại chưa đầy mắt mỹ
nhân. Đó là một bài ai
ca rất thống thiết. Lâu
quá, tôi chỉ c̣n nhớ mơ
hồ: Nương tử ơi! Chướng
căn ấy bởi v́ đâu…?
Về thơ tôi, anh viết,
Anh không muốn “đại
ngôn”, mà chỉ muốn nói
“một điều đơn giản”. Rồi
Anh nói: “Thơ Đỗ Tư
Nghĩa phát riêng một tần
số”. Tôi không dám nghĩ
như vậy. Nhưng tôi hiểu
Anh muốn nói ǵ. Là một
nhà thơ, hẳn Anh cảm
nhận được rằng, mỗi
người đều có một số điều
u uẩn, mà không phải “ai
cũng cảm nhận được” –
nếu không phải là kẻ
“cùng hội cùng thuyền”.
Có lẽ vậy. Không phải
riêng thơ Đỗ Tư Nghĩa,
mà chắc hẳn thơ của đa
số người, đều như vậy.
Mỗi tâm hồn đều có những
cánh cửa, nhưng nó đều
có những ch́a khóa
riêng. Cho nên, dĩ nhiên
không phải ai cũng vào
được thế giới của người
khác, nếu không có ch́a
khóa thích hợp. Tôi nghĩ
rằng, Anh đă t́m được
ch́a khóa để mở cánh cửa
tâm hồn tôi – có lẽ,
bằng cách thẩm nhập vào
nó, hay bằng cách nh́n
vào chính tâm hồn ḿnh.
Trong cả hai trường hợp,
đó là dấu hiệu của niềm
tri âm: Chan ḥa lẫn lộn
– ta trong người, và
người trong ta.
Anh nhắc đến những câu
hỏi mà xưa kia – cách
đây hơn 40 năm (1964
-2008) – tôi đă hỏi Anh,
mà Anh cho là “thú vị”.
Tôi không c̣n nhớ ḿnh
đă hỏi những câu hỏi ǵ.
Anh nói, Anh trả lời cho
tôi, mà cũng là cho
chính Anh. Như vậy, hẳn
đó phải là những câu hỏi
về cuộc đời, về ư nghĩa
cuộc đời, về lẽ tử sinh?
Phải chăng, v́ thế mà
Anh đă không thỏa măn
được với câu trả lời của
ḿnh? Anh nói rằng, nó
chưa “tới” – và sẽ không
bao giờ “tới” được. Rồi
Anh nhắc đến Jesus,
Nietszche, Zarathustra,
Đức Phật. Như vậy, đích
thị là thuở đó tôi đă
chạm tới những câu hỏi
mà chính Anh cũng đang
trăn trở đi t́m lời đáp.
Những câu hỏi của tôi thuở đó hóa ra cũng là của Anh, và có lẽ, cũng chính là những câu hỏi muôn đời của con người – từ thuở hồng hoang, từ khi con người choàng tỉnh dậy với một đốm lửa của tâm thức bừng cháy bên trong. Từ đó, chưa mấy ai trả lời được. Và cũng từ đó, con người hầu như vẫn cứ măi măi lang thang, chưa t́m thấy lối về?
***
Bây giờ, khi tôi viết
mấy ḍng này, th́ Anh đă
đi xa. Chẳng thể nào
biết được giờ này Anh
đang ở đâu. Những câu
hỏi ngày xưa, Anh đă trả
lời được chưa? Câu trả
lời đă “tới” hay chưa –
hay vẫn c̣n là một câu
hỏi vĩnh viễn không được
trả lời?
|