nguyễn đăng mừng

 

VỀ QUÊ MÙA BĂO LỤT

 

 

                                                              Nguồn: PPS - Băo Số 9

 

Hằng năm con tôi vẫn mua vé giá rẻ cho ba mạ về quê. Không biết trùng hợp hay người ta đă lường trước là mùa này không ai thèm đi du lịch ở xứ sở năm nào cũng băo lụt nên bán vé c̣n rẻ hơn đi xe đ̣. Về Huế ở lại một ngày đêm. Trời quang mây tạnh. Cứ ngỡ trời c̣n thương vợ chồng ḿnh. Được một ngày rong chơi những con đường Huế. Mùa thu se lạnh. Sông Hương nước hơi đục nhưng cũng c̣n khá thơ mộng.

 

Tôi về Quảng Trị, v́ đi hai vợ chồng nên ngại ngủ lại nhà bà con bạn bè. Chúng tôi chọn một khách sạn trên  quốc lộ một. Một đêm mưa gió, bật TV thấy dự báo băo đă gần kề. Kiểu này không chừng chẳng đi đâu được.  Nằm lơ mơ nghe mưa nhớ ngày xưa, những ngày trai tráng lên rừng chặt cây về “Dựng lại người, dựng lại nhà”. Lạ. Mấy chục năm rồi, cả khi ở nhà kiên cố, đêm nghe mưa cũng thao thức sợ “dột”, sợ ngập. Mưa băo quê nhà cứ đeo đẳng, không phải ngoài trời mà trong ḷng, trong tim. Cứ cảm giác như là đêm nay băo sẽ về, nước sẽ dâng ngập nhà cửa. Không biết bạn bè ở nước ngoài có vậy không. Mưa Sài G̣n th́ lâu nhất cũng chỉ vài tiếng. Mưa quê ḿnh cứ ầm ào cả đêm, tưởng không bao giờ dứt.

 

Thiếp đi trong  ầm ào  mưa gió, trạng thái nửa thức nửa ngủ, những thước phim về mưa lụt ngày xưa lẩn khuất miên man. Xa. Gần. Nước và gió. Đói và rét. Có lúc lại thấy đi lạc vào rừng, bốn bề là nước. Chân tay cứng đơ không chạy được. Vợ đánh thức tôi dậy lúc nửa đêm, hỏi anh mơ thấy ǵ mà hét toáng lên thế. Tôi thẩn thờ xâu chuỗi những khúc chiêm bao đứt đoạn, câu chuyện nào cũng buồn. H́nh ảnh nào cũng ghê rợn. Tôi vẫn c̣n nghe loáng thoáng lơ mơ những  tiếng rú rợn óc, không biết lính của bên nào, đang chạy rượt nhau trong mưa gió. Ngoài cửa kính lờ mờ, dưới đèn đường vàng vọt, mưa như dội những mảng nước lớn xuống đường nhựa trắng xóa.  Nơi đây biết bao oan hồn lẫn khuất đâu đó, trong mưa, hút vào làng xóm. Tôi rùng ḿnh nghĩ về giấc chiêm bao, những tiếng rú kinh hồn cứ váng vất trong đầu, mặn chát trên môi. Tôi nhớ lại cái đêm toán đi rừng của chúng tôi bị lạc một đêm trong rừng vùng Trấm.

 

Chúng tôi một tổ tám người, thường được cắt cử lên vùng rừng non phía thượng nguồn sông Thạch Hăn để chặt những cây rừng về dựng lán trại. Mỗi ngày không biết bao nhiêu nhóm như thế, không biết bao nhiêu cây rừng non bị đốn hạ.  Người ta thường bảo là đi cội trên Trấm… Hồi nhỏ đă nghe ba kể về nỗi khổ cực của những thợ cội đi t́m cây quư. Hôm nay, những thanh niên chúng tôi lần đầu lên rừng làm thợ cội, gặp chi chặt nấy, để kịp dựng những cḥi tranh sau chiến tranh. Rừng non cứ thế lụi tàn. Dụng cụ đơn giản, chỉ có cây rựa và  và mo cơm độn sắn. Được nửa đường đói bụng đem cơm ra ăn nhỏ nhẻ vài muỗng, gọi là “đá nhẹ”. Dự trù khi nào đủ gỗ, ra tới b́a rừng sẽ “đá toàn bộ” (ăn hết). Nhiệm vụ khá nặng nề. Phải đem về được một cái “cột mệ” (cột lớn, đường kính trên 20 cm, dài 4,2 m) và bốn cột con. Cột lớn bốn người khiêng như kiểu đưa đám. Cột con một người vác.

 

Những chuyến đầu chưa quen khá vất vả, quen rồi lại vui.

 

Mùa thu năm đó mưa đến trễ. Sau rằm tháng tám trời vẫn trong vắt. Những đêm khiêng gỗ về muộn đi dưới trăng có đứa c̣n ngâm thơ nữa.

 

Hôm đó, như thường lệ chúng tôi đến b́a rừng khoảng mười giờ sáng. Chia thành hai tốp đi t́m cây. Rừng thoạt nh́n rất nhiều cây, nhưng kiếm ra một cây vừa kích cỡ và thẳng thường không dễ. To th́ không khiêng nổi, nhỏ th́ bị kỷ luật. Đến 2 giờ chiều mà chúng tôi chưa kiếm ra cây nào. Bụng đói nên rủ nhau “đá toàn bộ” (ăn hết phần cơm mang theo), đến đâu th́ đến. Tuổi đôi mươi hay liều kiểu chết người như thế.

 

Hạ cây xong, đang ngồi tán gẫu th́ sấm chớp đâu kéo đến ầm ào. Trời dội mưa như trút nước, gió từng trận rít lên, cây găy đổ răng rắc trên đầu. Chẳng có đứa nào mang theo áo mưa, ướt bê bết. Lạnh và bắt đầu run. Sợ. Không biết hướng nào mà ra khỏi rừng, đi đâu cũng bị vây với những con suối chảy xiết. Chúng tôi ngồi quay lại, khoác vai nhau im lặng. Mà cũng chẳng biết nói chuyện ǵ lúc này.  Cơn đói bắt đầu, đứa nào cũng run lẩy bẩy. Một đêm ngồi như thế với mưa gió, sáng ra mặt mày tái mét. Cả nhóm bàn tán, chỉ c̣n một cách liều. Anh C. có kinh nghiệm rừng rú đề nghị, ở đây thế nào cũng chết. Thà chết mà xác trôi về đồng bằng c̣n có người vớt. Vậy là cùng nhau  kiếm cây kết bè. Sáu đứa ôm bè trôi theo suối.  Có đứa xỉu gục đầu như xác chết, phải lấy dây cột vào bè. Chúng tôi “trôi” vài tiếng th́ đến sông Thạch Hăn.

 

Trôi trên suối nước xiết mà không sợ mấy, lúc ra giữa ḍng sông mênh mông mới thấy ḿnh nhỏ bé làm sao. Chúng tôi trôi đi như thế giữa mênh mông nước. Càng về gần biển càng lo. Tưởng tượng bè trôi ra biển th́… Tâm trạng lúc đó như những tử tù đi đến pháp trường.

 

Khoảng xế trưa may thay tấp vào một bụi tre La Ngà  ở một làng gần cửa Việt. Lên bờ, khập khiễng d́u nhau t́m nhà dân. Chúng tôi được một gia đ́nh cho tá túc, được ăn một bữa cháo cá  nhớ đời. 

 

Năm năm ở quê cũng vài lần tôi sém chết bởi băo lụt. Mạng sống của người dân quê ḿnh thật mong manh khi đối mặt với mưa lũ. Hồi năm bảy hai vào Nam bộ , thấy nhà cửa trong Nam sao cao ráo, lộng gió. Lại nghĩ sao quê ḿnh nhà nào cũng thấp tè. Sau 1975, về sống ở quê mới biết rằng kinh nghiệm luôn đối mặt với thiên tai nên nhà thấp cũng là một cách chống đỡ hữu hiệu với băo lụt. Vách, cột nh́ phổ thông ở quê ḿnh thường khoảng 2,5m, vào nhà thường tối om, nhưng chắc chắn. Gần đây phần nhiều nhà cửa đă được xây dựng kiên cố, an toàn hơn nhưng với băo lụt quê ḿnh cũng không lấy chi bảo đảm.

 

Tôi lớn lên ở vùng trũng Hải Lăng, nơi năm nào cũng bị  lụt. Làng tôi  nhà cửa phần nhiều là tranh tre, có khi lụt ngâm cả nửa tháng không thấy ai cứu trợ,  vậy mà thời đó  rất ít người chết v́ băo lụt, v́ đói. Lư giải chuyện này sao đây? Tôi nghĩ có nhiều yếu tố:

 

-   Về con người: Nông dân lâu đời đă thích nghi với thiên nhiên. Họ luôn dự trữ lương thực trên tra (Một kho lương thực thường nằm ở nơi cao nhất của căn nhà). Khoai khô, khoai luộc là lương khô không cần nấu nướng. Dù không có dự báo thời tiết chính xác như bây giờ, họ cũng biết được phần nào diễn biến của thời tiết qua kinh nghiêm nhân gian, qua ca dao tục ngữ về băo lụt. Mọi sự đă được sắp sẵn để đón lụt băo, và có thể sống chung với lụt hàng tuần, thậm chí hàng tháng. Chính bản lĩnh, sức chịu đựng dẻo dai cọng với kinh nghiệm đă cho người dân quê ḿnh tồn tại trước thiên nhiên khắc nghiệt hàng thế kỷ.

 

-   Về thiên nhiên: Tôi nhớ thời đó nước lên chậm hơn bây giờ nhiều. Mưa nguồn cả mấy ngày sau mới thấy nước bạc về. Hồi đó rừng đầu nguồn chưa bị tàn sát như bây giờ. Sông suối tự nhiên chảy tạo ra những quy luật nhất định. Chỗ nào nguy hiểm người dân đă biết để tránh. Một yếu tố nữa rất quan trọng đó là những thành tŕ của những lũy tre làng. Nhà nào xung quanh cũng được bao bọc những lũy tre kiên cố. Bờ sông rất nhiều những bụi tre La Ngà giữ đất không bị sạt lở. Những túp lều tranh thấp được tre che chắn lúc giông băo. Người ta không gọi là hàng tre, rừng tre mà gọi là lũy tre có lẽ cũng tự ư nghĩa này.

 

Về Huế ngày 28.9, để sáng 30 vào Sài G̣n như vé khứ hồi  đă mua. Chiều 29.9, nhà văn vơ sư Nguyễn Văn Dũng mời vợ chồng tôi ăn chay ở Liên Hoa. Trời mưa xối xả. Vợ chồng tôi và anh Dũng ngồi bàn kiểu Nhật,  nhâm nhi bia Hu Đa. Nói chuyện văn chương thời sự mà dạ cứ ngoài mưa gió. Khoảng 21 giờ vợ chồng tôi  xin kiếu để  về khách sạn kẻo chút nữa không về được th́ nguy.

 

Một đêm khó quên. Khách sạn trên đường Nguyễn Tri Phương chỉ có vợ chồng tôi và hai cặp Tây ba lô người Mỹ. Vợ chồng ḿnh th́ hoang mang, bồn chồn. Buồn và lo. C̣n hai cặp kia th́ chơi ghita suốt đêm. Họ hát dân ca, flamenco, cổ điển như không thèm để ư về mưa gió. Vậy mà ḿnh cứ trằn trọc về nước và gió, thao thức nghĩ về bao số phận dưới tàn phá của thiên nhiên, xưa và nay. Rồi vùi vào giấc ngủ muộn.

 

Buổi sáng mở cửa đă thấy một cặp Tây, chàng ở trần mặc quần sọt, nàng th́ mỏng mảnh quần lót áo ngực đứng nh́n mưa, và cười vô tư. Lại nghĩ, ở quê họ có băo lụt như ḿnh không nhỉ!

 

Điện thoại hàng không báo chuyến bay sẽ được dời qua ngày 1.10. Điện cúp. Đường Nguyễn Tri Phương không c̣n bóng người đi lại. Thỉnh thoảng có chiếc ghe ai đó lặng lẽ trôi dưới mưa. Nước đục ngầu, cảm tưởng như sánh lại đỏ quạch. Đến gần trưa mà chưa t́m được ǵ để ăn lót dạ. Thôi liều. Lội nước ngang bụng đi mấy trăm mét mới có quán tạp hóa. Mua được mấy hộp thịt, ḿ gói.

 

Thêm một ngày đêm tự cầm tù trên khách sạn. Sáng 30.9 chúng tôi quyết định dời qua khách sạn bên đường Đội Cung. Nước rút nhanh. Công nhân vệ sinh hối hả làm việc.  Những con đường vừa được tắm tươi mới trở lại.   Buổi sáng chúng tôi quyết định đi bộ qua thăm nhà chị Thái Kim Lan bên đường Bạch Đằng. Từ cầu Gia Hội chúng tôi phải đi ghe máy và “cập bến” ngay cửa nhà.   Chị Lan từ Đức về Huế đă mấy tháng, ở một ḿnh trong căn nhà cổ.   Chị cười bảo “Sướng chưa. Về quê mà lựa  mùa mưa gió như ri th́ đi chơi mô được. Thôi nấu cơm ăn với tôm chua chị làm ngon lắm”.  Mấy ngày  không có bữa cơm. Được ăn cơm nóng với tôm chua ngon chi lạ. 

 

Buổi chiều, chị Lan cùng mấy người bạn tranh thủ nước rút để dọn hành lang trước nhà. Dùng chổi khuấy nước cho trôi bùn đi.  Chị bảo ngày xưa mỗi lần lụt là vui lắm. Bạn bè trông cho có lụt để đi lội. Hồi đó nước không đục như chừ.  Nh́n con đường Bạch Đằng nhầy nhụa, bùn có chỗ ngang đầu gối. Một lượng lớn đất màu mỡ từ rừng đầu nguồn trôi về đây, trôi ra biển. Nước đỏ ngầu, cuồng bạo nhanh chóng mang đi bao tài nguyên, gieo bao thảm họa cho xứ sở miền trung nghèo nàn này. Con người đang trả giá với thiên nhiên.

 

Xế chiều trời ngớt mưa. Chúng tôi lội bùn ra tới cầu Gia Hội, đi xích lô vào thành nội.  Định ghé thăm nhà anh Nguyễn Tư Triệt mà đường c̣n ngập. Gọi điện thoại nghe ọ i è, có lẽ mấy ngày này bị cúp điện, máy hết pin.

 

Trước khi về lại khách sạn chúng tôi ghé thăm vợ chồng thầy Cao Hữu Điền. Thầy bảo lụt Quảng Trị đang lên nhanh. Tôi gọi điện thoại cho bạn bè ngoài quê, Lê Thị Dũng la ơi ới, bảo nước trong nhà đă ngang ngực rồi. Kiểu ni chắc dưới Triệu Phong Hải Lăng bị nặng lắm.

 

Chúng tôi về khách sạn chuẩn bị ngày mai vô sớm. Lại một đêm nóng ruột nghĩ về quê.

 

Chuyến bay đầu tiên của hăng Jestar sau băo lụt khởi hành lúc 8h. Nh́n qua đám hành khách phần đông là người nghèo qua cách ăn mặc của họ. Những người nghèo không có quyền chọn ngày đi ngày về. Số phận họ bị khuyên lại trong cái vé máy bay giá rẻ. 

 

Tôi ngồi cạnh một chị tuổi trung niên. Chị cứ nh́n ra cửa sổ máy bay mà khóc tức tưởi. Khi máy bay cất cánh tôi hỏi chị về hay đi. Chị bảo đi cũng như về, không biết gọi sao cho đúng. Chị đang làm công cho một người bà con trong Sài G̣n, mỗi năm được về quê một lần. Năm nay đứa cháu mua cho cái vé may bay giá rẻ, lần đầu được đi máy bay, những tưởng có một chuyến về thăm mạ thăm quê. Ai dè tới Huế th́ đường về Phú Vang ngập không đi được. Ở lại Huế mấy ngày, sáng ni phải vô cho kịp…máy bay.

 

Máy bay lên cao. Đầm phá như biển nước phía dưới, loáng thoáng lù mù trong mây, làng xóm  nhỏ dần, nhỏ dần. Chị ấy lại khóc, bảo có phải đó là làng tui không biết, tui thấy có cái đ́nh như đ́nh làng tui. Mạ tui đang c̣n ở đó. 

 

Nh́n xuống những tầng mây đen nghịt trời, xóm làng khuất hút dưới đó, có bao người trong chuyến bay này đang nh́n xuống quê ḿnh, mang theo bao niềm cay đắng quê nhà trong tâm tưởng.

 

Báo Sông Hương. Tháng 10/2009

Nguyễn Đặng Mừng

 

Siêu băo đang vờn ngoài Hoàng Sa. Lần này quê miềng có thoát được không.

 

******

 

Mắt Huyền Trân

Nguyễn Đặng Mừng

                                                               

Ra quê gặp lúc trời mưa băo

Cụng trán người xưa tiếng sấm rền

Nửa đêm giật ḿnh tưởng bom nổ

Quê hiền ếch nhái kêu buồn tênh

 

Xưa bom đạn xé chừ giông băo

Ngập ngụa đời nhau lổ mội* tràn

Mạ kêu trời ơi cơn mưa át

Cha ngâm ḿnh níu một tàn  nhang

 

Gân guốc mặt cha dây thừng cột

Nước mắt mạ khô chỗ em nằm

Dùng dằng ở đi mần răng được

Lăng mộ cha ông từ trăm năm

 

Chỗ eo ai cột quê ḿnh lại

Ngọc Vạn** – Phương Nam – băo xứ Tần

Đất bạc sự đời trôi ra biển

Hoàng Sa gió tạt mắt Huyền Trân.

 

 

*  Lỗ mội: Lỗ nước ngầm khó phát hiện và rất nguy hiểm v́ khó nhận ra. Quê ḿnh có câu: Nước chảy ào ào không bằng hao lỗ mội.

** Công nữ Ngọc Vạn: Công nữ Ngọc Vạn là con gái Chúa Săi Nguyễn Phúc Nguyên. Năm Canh Thân 1620, bà được gả cho vua Chân Lạp Chey Chetta II và cuộc hôn nhân này đă giúp Chúa Nguyễn mở rộng được lănh địa thêm về phía Nam.

 

 

*************************************

 

Art2all.net: H́nh ảnh lụt tháng 9/2009, trích từ PPS Băo Số 9 :

 

 

 

 

 

 

chân trần

art2all.net