TƯỞNG NIỆM CA SĨ QUỲNH GIAO

(1946 - 2014)

 

 

Quỳnh Giao Playlist ( Trần Năng Phùng)

Tưởng nhớ ca sĩ Quỳnh Giao ( Cỏ Thơm Magazine)

 

Email từ Phạm Anh Dũng:

Vừa nhận được tin buồn ca sĩ Quỳnh Giao vừa qua đời sáng hôm nay
Xin chia buồn cùng tang quyến
Mong linh hồn chị siêu thoát nhanh đến vùng viễn hằng
 

Kỷ niệm với chị Quỳnh Giao:
Quỳnh Giao ở Wikipedia:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Quỳnh_Giao_(ca_sĩ)

 

Nhớ Sài G̣n (nhạc và lời Phạm Anh Dũng) Quỳnh Giao hát "live", Vũ Tuấn Đức ḥa âm và dương cầm, năm 1993:
https://www.youtube.com/watch?v=c5zXKvMHn6A


Nhớ Sài G̣n (nhạc và lời Phạm Anh Dũng) Quỳnh Giao hát, Duy Cường ḥa âm

trích từ CD Đưa Người Về Phương Đông-T́nh Ca Phạm Anh Dũng:
http://www.nhaccuatui.com/bai-hat/nho-sai-gon-quynh-giao.fKJmWmZY9iAt.html

Phạm Anh Dũng
http://phamanhdung.wordpress.com/

 

~~o))((o~~

 

Hoàng Xuân Sơn

VIẾT RỜI Ở SAN JOSE

 

~~o))((o~~

 

Như Phương

HƯƠNG QUỲNH THEO GIÓ BAY

 

~~o))((o~~

 

Ra mắt sách Tạp Ghi Quỳnh Giao:

https://www.youtube.com/watch?v=sDA6PROQGhU

 

~~o))((o~~

 

NHƯ MỘT LỜI CHIA TAY - BÀI VIẾT SAU CÙNG CỦA CA SĨ QUỲNH GIAO .

Phạm Anh Dũng

 

Bài viết của chị Quỳnh Giao trước khi qua đời
Bài viết hay nhưng có một câu nên chữa:
"Trước đấy th́ chưa có và sau đó th́ không c̣n"
Nên đổi là:
"Trước đấy và sau đó th́ ít hơn"

Nhớ thoáng qua vài bản nhạc tiền chiến (đúng nghĩa "tiền chiến")
2 trong 3 bài của Đặng Thế Phong Giọt Mưa Thu & Đêm Thu
(Bài Con Thuyền Không Bến là bài thứ ba)
2 bài Thiên Thai của Văn Cao: Thiên Thai & Trương Chi
Cả 4 bài đều là tuyệt tác và cả 4 đều viết trước 1954

Bản thân tôi tuy có bản viết trước 1975
Nhưng thật viết nhạc nhiều sau 1990
Thành không dám bàn đến t́nh ca VN sau 1975
Là khoảng thời gian không tốt cho các người sáng tác nhạc
Nhất là người viết nhạc ở hải ngoại
V́ không có cơ hội phổ biến nhiều

PAD
Phạm Anh Dũng
http://phamanhdung.wordpress.com/

 

NHƯ MỘT LỜI CHIA TAY -

BÀI VIẾT SAU CÙNG CỦA CA SĨ QUỲNH GIAO .
 

" Quỳnh Giao cố gơ lại trí nhớ mà gửi độc giả bài này, với một kết luận là sự tri ân của một người đă nghe và hát: “Nền tân nhạc Việt Nam có nhiều tác phẩm nghệ thuật nhất, và đáng nhớ nhất v́ c̣n được hát ngày nay, là ở miền Nam, trong giai đoạn 1954-1975. Trước đấy th́ chưa có và sau đó th́ không c̣n...”


Tân nhạc Việt Nam sau di cư và trước di tản
Quỳnh Giao


Người Việt lăng mạn của chúng ta thường bị giằng xé với hai giấc mơ tương phản.
 

Sống tại vùng chật hẹp với giang hồ sông nước là sự cách trở, chúng ta mơ chân trời xa lạ “như lũ chim quyết tung trời mây”... Và dù có gặp “biển hồ mênh mông không nơi ngừng cánh tránh gió táp,” chúng ta vẫn “thề quyết ra đi từ đây.” Nhạc sĩ Lâm Tuyền ghi lại cho tiềm thức chung cái giấc mơ đó.
 

Thế rồi, khi đă toại ḷng với “bao năm qua ta sống giang hồ xa quê nhà, nơi xa xôi muôn ư phiêu lưu dâng cho đời,” th́ cũng chính tâm hồn lăng mạn ấy hát khúc ngày về. Giấc mơ hồi hương là phần tương phản của cái chí tung hoành đi t́m đất lạ.
 

Nếu đọc lại nhiều bài viết của Vũ Hoàng Chương th́ có thể mường tượng ra giấc mơ giang hồ đó. Nó trải rộng trong hồn thơ chứ vẫn thu hẹp vào khoảnh đất nhỏ xíu. Từ Nam Định đến Hà Nội đă là một phiêu lưu. Lên tới núi rừng Việt Bắc th́ đấy là cơi bạt ngàn!...
 

Quỳnh Giao nhắc lại Lâm Tuyền hay Vũ Hoàng Chương v́ nhớ tuổi ấu thơ thao thức của ḿnh khi sắp được đi Vũng Tầu! Lên tới Đà Lạt th́ đă tựa như vào Thiên Thai trong cổ tích....
 

Thế rồi một biến cố đă giập giấc mơ vào thực tại. Với nhiều người th́ đấy là cơn ác mộng.
 

Hiệp định Genève năm 1954 chia đất nước ra hai vùng giới tuyến làm nhiều người phải giang hồ thật! Phong trào di cư từ Bắc vào Nam là biến cố lớn lao nhất thế kỷ, cho đến ngày có cuộc di tản năm 1975 và sau đó.
 

Nền tân nhạc cải cách Việt Nam xuất phát đầu tiên từ trong Nam vào quăng 1938-1940. Rồi bùng phát và trưởng thành là ở ngoài Bắc trong thời kỳ 1945-1954. Đấy là giai đoạn hào hùng mà lăng mạn với rất nhiều ca khúc trữ t́nh. Rồi cuộc di cư 54 là một giao động lớn trong thế giới tân nhạc ấy.....
 

Chúng ta có những nhà soạn nhạc đă thành danh ở miền Bắc. Phần lớn trong số này cũng là nhạc công, là nhạc sĩ tŕnh diễn chuyên nghiệp với một hay nhiều nhạc cụ. Những người vào Nam từ trước chỉ là một thiểu số hiếm hoi. Sớm nhất th́ có Lê Thương từ năm 1941, trễ hơn chục năm th́ có Phạm Duy và Phạm Đ́nh Chương trong “gia đ́nh Thăng Long.”
 

Phong trào di cư từ 1954 mới xô đẩy đa số c̣n lại vào Nam và làm thay đổi không khí tân nhạc.
 

Các nhạc sĩ tên tuổi từ miền Bắc có Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Ngọc Bích, Hoàng Trọng và Vũ Thành. Những nhạc sĩ kế tiếp nổi danh như cồn ở trong Nam th́ có Đan Thọ, Nguyễn Hiền hay Nhật Bằng, Cung Tiến. Phải gơ chữ vân vân v́ nhiều lắm. Những người c̣n ở lại miền Bắc, như Văn Cao, Hoàng Giác, Hoàng Phú, Tô Vũ hay Đoàn Chuẩn, Nguyễn Văn Tư th́ hết viết... như cũ.
 

Nhớ lại chuyện 60 năm trước, chúng ta tự hỏi là lớp nhạc sĩ di cư đă sáng tác những ǵ sau đó?
 

Trong mọi cơn chấn động bàng hoàng, con người chúng ta chỉ là lũ trẻ thơ. Hăy nh́n bầy trẻ khi chúng hăi sợ, hoặc gặp điều phật ư mà khó hiểu. Có những đứa th́ hờn lẫy giẫy giụa, nhưng cũng có đứa lặng người không thể gào khóc. C̣n gào thét là c̣n tin rằng ai đó sẽ phải lo cho ḿnh, chứ nếu lặng người nín thinh th́ đấy là lúc đứa trẻ bần thần tuyệt vọng nhất. Sau cơn chấn động như 1954 hay 1975, chúng ta đều lặng người trong tê tái.
 

Nhưng các nhạc sĩ của chúng ta lại khác bầy trẻ. Họ không nín lặng mà khóc bằng nhạc. Cảm hứng viết nhạc hoài hương có sẵn trong tâm khảm đă từ biến cố 54 đưa tới nhiều ca khúc về cố hương. Không kể những bài đă có từ trước như “Ôi Quê Xưa” của Dương Thiệu Tước, “T́nh Hoài Hương” của Phạm Duy hay “Hướng Về Hà Nội” của Hoàng Dương, chúng ta nhớ lại “Khóc Biệt Kinh Kỳ” và “Bên Bờ Đại Dương” của Hoàng Trọng, “Xa Quê Hương” của Đan Thọ, “Bóng Quê Xưa” của Nhật Bằng và “T́m Về Bến Xưa” hay “Thanh B́nh Ca” của Nguyễn Hiền, v.v....
 

Đan Thọ và Nguyễn Hiền là hai nhạc sĩ có nhiều tác phẩm về nỗi hoài niệm quê hương đă mất kể từ thời 54.
 

Ngày nay, Đan Thọ vẫn c̣n và có lẽ không quên sự thổn thức của 60 năm trước.
 

Ngồi nhớ và nghe lại th́ sau biến cố Genève 54, các nhạc sĩ của chúng ta c̣n bị giằng xé theo một cách khác. Nhiều người vẫn tin vào một ngày trở về.
 

Giấc mơ hồi hương” của Vũ Thành là tác phẩm đẹp nhất của đề tài này. Ngoài lời một được gợi lên từ một bài thơ, lời hai của chính tác giả trong điệp khúc có âm điệu khải hoàn ca: “ngoài chân mây xa bừng lên muôn ánh hào quang” v́ đấy là lúc giấc mơ đă thành, là “cùng d́u nhau sát vai sống trong t́nh thương.”...
 

Người khác th́ khám phá và hát mừng sự bao la choáng ngợp của miền đất mới.
 

Vào Nam từ trước, Phạm Đ́nh Chương sớm ngợi ca miền Nam đôn hậu từ h́nh ảnh Cửu Long của trường ca Hội Trùng Dương. Rồi qua năm 1955, ông chấm nơi này là “Đất Lành” và hát về mối t́nh Nam-Bắc một nhà: “Em gái Bắc Ninh, anh trai Biên Ḥa. Em đất Thanh Nghệ, anh nhà Cà Mâu. Đồi nương thương sức cần lao, se duyên Nam Bắc ngọt ngào t́nh yêu”...
 

Cũng trong ḍng nhạc đó, trường ca “Con Đường Cái Quan” do Phạm Duy thai nghén từ năm 54 tại Paris và hoàn thành về sau ở trong Nam đă có những giai điệu “tốt tươi” nhất - chữ “tốt tươi” là của ông - là từ đoạn 16 trở về sau, khi chàng lữ khách mơ giấc hải hồ vào tới trong Nam!
 

Trong số nhạc sĩ di cư, Hoàng Trọng nổi danh từ đất Nam Định với nhiều ca khúc luyến nhớ. Sau khi vào Nam, từ “Mộng Ngày Hồi Hương” năm 1956, ông ḥa vào niềm vui mới qua bài “Đẹp Mùa Yên Vui” sáng tác năm 1958 với lời từ của Hồ Đ́nh Phương: “Miền Nam mưa nắng giao ḥa, Câu hát câu ḥ say trời quê đẹp như gấm hoa...”
 

Sự giằng xé dễ hiểu mà đáng thương của người viết nhạc diễn tả tâm t́nh day dứt của chúng ta giữa cái cũ đă mất và cái mới đă thành đời sống thật.
 

Ngồi hát lại trong tâm tưởng, “Con Đường Cái Quan” đă từ đoạn Cửu Long Giang mà ḥ “Về Miền Nam” và dẫn tới đoạn kết là “Đường Đi Đă Tới.” “Về Miền Nam” cũng là tên ca khúc của Trọng Khương. Chúng ta không đi nữa mà về. Thâm tâm hát mừng như vậy thật, chứ không v́ sự tuyên truyền của loại nhạc cổ động, mà dẫu ǵ th́ hai miền vẫn chung một đất nước.
 

Rồi thời gian và sự tự do của miền Nam hàn gắn tất cả và dẫn tân nhạc qua một thế giới khác lạ.
 

Sau khi đất nước chia đôi, trong số đông đảo các nhạc sĩ và ca sĩ di cư vào Nam có nhiều nhạc công cự phách. Nhạc khúc mới và cách tŕnh diễn tân kỳ thổi gió mới vào nhạc qua đài phát thanh, phần phụ diễn văn nghệ của phim chiếu bóng rồi đại nhạc hội và pḥng trà hay khiêu vũ trường...
 

Khác bộ môn văn chương là nơi mà lối viết của dân miền Nam làm phong thái chân phương của nhà văn miền Bắc trở thành sống động hơn, với những đối thoại rất gần với thực tế ngoài đời, bộ môn tân nhạc ở miền Nam lại tiếp nhận tính chất trang nhă nhiều khi cầu kỳ của ca nhạc sĩ di cư từ miền Bắc. Nghệ sĩ di cư như Dương Thiệu Tước, Vũ Thành, Hoàng Trọng, Anh Ngọc cùng các ban nhạc và lối ḥa âm đă thật sự làm tân nhạc miền Nam đổi khác. Từ đó, các nhạc sĩ trong Nam không c̣n viết như trước nữa, nhiều ca sĩ cũng tŕnh bày theo giọng Bắc.
 

Sau đấy c̣n có sự đóng góp của đông đảo thi sĩ di cư từ miền Bắc, và cả các nhà thơ ṭng quân nhập ngũ, khiến nghệ thuật phổ thơ vào nhạc c̣n đem lại một phong thái khác hẳn cái thời mà chúng ta gọi là “tiền chiến.”
 

Cũng từ đấy, người nghe khó phân biệt được sáng tác Y Vân, Nguyễn Văn Đông, Lê Dinh, Minh Kỳ hay Lam Phương với ca khúc của nhạc sĩ di cư đất Bắc. Nếu có khác th́ đấy là giữa thể loại ca khúc của thành phố thanh b́nh, có men rượu, khói thuốc và cả một chút Paris, với nhạc chân quê hay nhạc của người lính thời chiến.
 

Cho đến khi Nam Bắc thật sự là một nhà, và khi nền tân nhạc hết phân biệt hậu phương hay tiền tuyến th́ chúng ta gặp cuộc đổi đời thứ hai, biến cố 1975. Lần này cũng vẫn phong ba giông tố, nhưng không là một nơi chốn mới của quê hương mà là một sự giă biệt bi thảm hơn. Sang năm, chúng ta sẽ viết lại chuyện này....
 

Từ nhiều tháng nay, người viết ngồi dưỡng bệnh bằng nhạc, cho đến khi ṭa soạn Người Việt yêu cầu một bài đặc biệt về tân nhạc trong và sau biến cố 54.
 

Không v́ “yêu sách” của tờ báo mà v́ yêu nhạc, Quỳnh Giao cố gơ lại trí nhớ mà gửi độc giả bài này, với một kết luận là sự tri ân của một người đă nghe và hát:

 

“Nền tân nhạc Việt Nam có nhiều tác phẩm nghệ thuật nhất, và đáng nhớ nhất v́ c̣n được hát ngày nay, là ở miền Nam, trong giai đoạn 1954-1975. Trước đấy th́ chưa có và sau đó th́ không c̣n...”

 

Quỳnh Giao

 

 

art2all.net