Bùi Bích
Hà
MỘT THỜI CỦA TUỔI MỘNG MƠ

Nhà văn Bùi Bích Hà
Chúng tôi có bốn
năm bên nhau dưới mái trường Đồng Khánh, Huế. Đời sống của những cô thiếu nữ ở
cái thành phố cổ kính, phong kiến, bé tí xíu ấy thập niên 50 thế kỷ trước chẳng
có ǵ nhiều để kể lại nếu không là những lá thư kết bạn bốn phương vớ vẩn chuyền
cho nhau đọc vào giờ ra chơi, trong tiếng cười rúc rích và những đuôi mắt lúng
liếng.
Tôi học cùng lớp với Túy Hồng, cùng ngồi ở những hàng ghế đầu, cùng ṿng tay
nghiêm chỉnh để lên bàn thành hàng thẳng tắp trong mỗi giờ học. Thân phụ Túy
Hồng là giáo sư Nguyễn Doăn Thám, dạy Pháp văn chúng tôi ở hai lớp đệ thất và đệ
ngũ. Thầy rất nghiêm nhưng điềm đạm, không bao giờ lớn tiếng rầy la chúng tôi và
không bao giờ phí phạm th́ giờ nói chuyện ngoài giáo tŕnh từ lúc bước vào lớp
cho đến lúc xách cặp bước ra. Tứ thời bát tiết, lúc nào Thầy cũng mặc bộ complet
bằng hàng đũi màu vàng nhạt, có chút cũ kỹ nhưng tươm tất. Thầy ít khi ngồi ở
bàn mà thường một tay trong túi quần, tay kia cầm viên phấn để khi cần th́ dừng
lại, viết lên bảng. Thầy đi qua đi lại, đi tới đi lui hết bề ngang lớp học, mắt
nh́n xuống đám học tṛ với dáng vẻ oai phong, tự tin và cả sự phấn khích tỏ lộ
rơ của một diễn viên trong vai tṛ đắc ư nhất. Trong khi chúng tôi có chút ganh
tỵ rất con nít, thấy Túy Hồng oai quá v́ có cha là giáo sư, xem ra chị lại rất
cấn cái, khó chịu trong hoàn cảnh ấy. Nhờ công ơn giáo dục rất kỹ của Thầy môn
Pháp văn, sau này lên đại học, tôi hănh diện được Giáo sư thỉnh giảng Camborde
đến từ Bỉ, có lần ưu ái hỏi: “Cô từ đâu tới?” sau nhiều bài làm được ông hết lời
khen tặng.
Bây giờ, trong hồi tưởng, mỗi khi nghĩ về Túy Hồng, tôi thấy bật ra trong trí
nhớ đôi môi cắn chỉ đỏ thắm, khô, nứt nẻ của chị (ngoài phố mùa đông, đôi môi
em là đốm lửa hồng, TCS) Mùa đông ở Huế rét ngọt những hôm trời mưa bụi hay
không mưa, mây nặng màu ch́ và không gian đông cứng như đá, chạm tay vào đâu
cũng giật bắn người như bị chạm điện. Dưới bầu trời ẩm sẫm và trong cái lạnh co
thắt ruột gan, nh́n tôi mặt tái mét, đôi môi thâm tím, chị th́ thào bảo tôi: “BH
bắt chước ḿnh đi, về nhà đứng trước gương, xé một cái bao nhang, thấm chút nước
bọt rồi bôi lên môi như ḿnh, đẹp cho coi!” Tôi bắt chước làm như chị dặn, cả
môi và mấy đầu ngón tay đỏ ong, ṭe loe phẩm nhuộm, vừa không hồng hào tự nhiên
như chị, vừa kệch cỡm khiến mẹ tôi tinh mắt nhận ra ngay: “Em bôi cái ǵ lên mặt
thế? Da trẻ con bôi tầm bậy hỏng đi đấy!” Thế nhưng rửa bớt, chút ánh hồng sót
lại có làm cho khuôn mặt tôi bớt xanh xao và sáng ra. Hôm đầu đi học với chút
thay đổi liều lĩnh ấy, tuy tôi đă cẩn thận lau hết phẩm điều của bao nhang đi
nhưng tôi không tự tin lắm, sợ bạn bè thấy tôi khác nên dọc đường cứ liếm môi
liên hồi và nhận ra vị đắng ngắt của thuốc nhuộm làm se đầu lưỡi, khiến tôi chợt
lo, thoáng nghĩ ra sao không hỏi chị cẩn thận, nhỡ ngộ độc th́ có chết không?
Đến trường, chị khuyến khích tôi: “BH cứ làm tiếp đi, sẽ quen mà. Sau này không
cần giấy nhang nữa, cứ cắn môi là đỏ thôi!” Chị cả quyết nhưng tôi sớm biết có
làm ǵ th́ cũng không giống chị được, nên thôi. Chị cười hoài, cả môi lẫn mắt,
tươi roi rói, không biết chị có thật vui không mà sao tôi nh́n đôi môi chị, cứ
cảm giác nó như một vết thương ṃng mọng, có thể bật máu ra bất cứ lúc nào và
thường xuyên làm chị đau lặng lẽ.
Túy Hồng có đôi mắt chim tṛn xoe, bốn mùa trong trẻo như mặt nước hồ long lanh
gợn, bồi hồi, sâu lắng, cuốn hút. Chị có mái tóc đen, dầy, xoắn xít quăn hai bên
đường ngôi rẽ giữa đổ xuống thái dương, khuôn mặt vuông, sống mũi trũng giữa hai
hàng lông mày và riềm mi đậm, làn môi cắn chỉ trễ nải trên chiếc cằm có hậu, làm
chị trông có cái man dại của một bông hoa lạ lẻ loi nở. Trong lớp, chị nói cười
láu táu, hai mắt chớp như nhánh hổ ngươi nhưng chị ít kết bạn. Giờ ra chơi, thay
v́ túm năm tụm ba, chị một ḿnh đi dọc cái hành lang dài mùa đông các bức mành
tre được cuốn lên, tḥ một bàn tay ra hứng những bụi mưa bay nghiêng hay những
giọt tranh lả tả. Ơn em dáng mỏng mưa vời (DTL) tôi nghiệm ra ở chị có
những nét đẹp thầm, kín đáo, đi qua muốn nh́n lại v́ như có điều ǵ bỏ sót.
Xong 4 năm trung học đệ nhất cấp, chúng tôi chia tay rồi lại thấp thoáng trông
thấy nhau ở sân trường Đại học Sư phạm Huế cuối thập niên 50, giờ giấc và phân
khoa chuyên môn khác biệt. Từ đó, tôi chỉ c̣n biết về chị qua tin tức giữa bằng
hữu cũ hoặc trên báo chí v́ chị nổi tiếng rất bất ngờ và nhanh chóng. Tôi biết
chị bỏ Huế vào Saigon, dạy Anh văn ở trường Mạc Đĩnh Chi. Tôi biết chị trở thành
tiểu thuyết gia nổi tiếng có tác phẩm đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc. Tôi biết
chị kết hôn với nhà văn Thanh Nam và sau cùng, khi Saigon thất thủ, tôi biết gia
đ́nh chị di tản kịp ngày 30/4.
Đầu năm 1986, tôi qua Mỹ. Vài năm sau, nhờ nhà thơ Trần Mộng Tú cùng chồng con
rời Cali dọn lên Washington State, tiểu bang Ngàn Xanh vùng Tây Bắc, nơi Túy
Hồng đang định cư, chúng tôi vui mừng nối lại nhịp cầu đứt đoạn.
Tôi bay lên thăm chị lần đầu tại căn nhà ở đường Othello, trung tâm Seattle. Lúc
đó, anh Thanh Nam đă mất được mấy năm. Ở lưng chừng cái cầu thang cuốn đưa xuống
chỗ lấy hành lư, tôi bồi hồi nhận ra bạn vẫn nhỏ nhắn trong chiếc áo len hồng,
đứng co ro, ngơ ngác, hai tay ôm chặt cái ví vào ngực y như những ngày Đồng
Khánh, chị ôm khư khư cái cặp sách cùng một kiểu. Tôi đến bên bạn, mừng tủi vỡ
̣a. Tôi ngồi vào xe cho chị lái, qua xa lộ, qua những chặng đường lưu thông yên
ả từ phi trường SeaTac về thành phố Seattle, về nhà chị. Bất th́nh ĺnh, cả tôi
và chị đều cùng lúc thấy một chiếc xe chạy ngược chiều, mũi xe hướng về chúng
tôi ở khoảng cách vừa đủ để có thể không húc nhau. Chị kêu khẽ như tiếng một con
chim bị trúng đạn ná: “Chết cha, ḿnh chạy ngược đường một chiều!” May mắn cho
tất cả là ngay bên tay phải tôi có con đường ngang nhỏ cho chị kịp rẽ vào để t́m
lối ra.
Chao ôi, bao nhiêu vật đổi sao dời, bao nhiêu thăng trầm đến mức, bạn tôi vẫn
hiền hậu, vẫn khờ khạo, vẫn nguyên vẹn một Túy Hồng mười ba, mười bảy, gồng ḿnh
khi bắt buộc nhưng trong ḷng chết nhát thế ư?
Nhà chị ở đường Othello, lạ thật, duyên nghiệp nào bỏ chị vào đây? Tôi chỉ đến
một lần này, chị đi về bao nhiêu năm, có bao giờ mường tượng ra các nhân vật
trong vở kịch Othello lẫy lừng của Shakespeare cách nay hơn bốn thế kỷ?
Những mâu thuẫn, những xung đột với kịch tính cao độ, sự đan kết giữa nét thơ
mộng và việc đời khủng khiếp, giữa cao thượng và tầm thường kêu gọi một cách
giải quyết t́nh lư ṿng vo, lẫn lộn, của các nhân vật trong Othello và
trong đời riêng của chị liệu có an ủi hay có làm chị khổ đau hơn? Phiên bản của
loài nguời trên ḍng thời gian vô tận có những đổi thay dễ thấy căn cứ vào dung
mạo, ngôn ngữ và y phục nhưng cấu trúc và vận hành của trái tim trong lồng ngực
con người là bất biến. Như Lai đi t́m chấm dứt luân hồi, chấm dứt khổ đau. Hơn
2000 năm qua, đời vẫn luân hồi, con người vẫn khổ đau không loại trừ những bước
chân hành giả theo Như Lai đi trong kinh kệ và trầm hương, trong ba vạn sáu ngàn
ngày như một giấc mê hoang.
Vài ngày ngắn ngủi bên nhau, chúng tôi không có thời giờ ôn lại quá khứ. Chúng
tôi nói chuyện hiện tại. Chị phàn nàn các con không vâng lời. Trước mắt tôi, cả
bốn cháu cao lớn dềnh dàng, sắp hàng ngang, lễ phép ṿng tay, cúi đầu chào khách
lạ: “Thưa D́.” Hỏi ra, chỉ là các cháu vào đại học, tự ư chọn con đường đi theo
sở thích riêng. Cháu gái đầu ḷng học ngành điều dưỡng 4 năm, đi học bằng xe
buưt, giấu trong cái túi nhỏ thỏi son, hộp phấn hồng và cây bút ch́ kẻ mắt. Đến
trường, cháu vào locker trang điểm. Tan lớp, trước khi về nhà, cháu lại vào
locker rửa mặt. Tôi thực sự ngạc nhiên thấy bạn tôi bắt các con ḿnh sống như
chị đă phải sống gần nửa thế kỷ trước ở cái thành phố Huế chật hẹp về địa dư, cổ
kính về văn hóa, từ đó chúng tôi sinh ra và lớn lên mang trong ḿnh nhiều cố
tật.
Trong căn nhà ở đường Othello, chị là h́nh ảnh người mẹ nghiêm khắc, nhiều tài
năng và bí ẩn như một mê cung. Chị nuôi con thú cưng là một chú khuyển lai gốc
sói, to lớn, chả biết bao nhiêu tuổi mà thả những sợi lông màu xám khắp nhà. Đón
tôi, chị phải bóp bụng bỏ ra $300 mỹ kim thuê một người Mễ đến dọn dẹp và giặt
thảm nhưng thuốc giặt thơm vẫn không đánh bạt được mùi lông chó phảng phất khắp
nơi, nhiều nhất trên sofa. Kỹ lưỡng vậy vẫn chưa đủ, chị đem con chó gửi ở nơi
nào khác để tôi không bị sợ hăi v́ theo lời chị, thỉnh thoảng nó vẫn hú giữa đêm
khuya. Để đăi tôi bữa cơm thanh đạm gia đ́nh, chị khui một hộp ham đổ thẳng vào
cái nồi đă bắc lên bếp. Chị cắt miếng một b́a tàu hũ trắng cho tiếp vào đấy cùng
với vài quả cà chua và chị giải thích đây là món tàu hũ om thịt. Nén chút ngậm
ngùi, tôi cười vui hỏi đùa bạn: “Lấy chồng Bắc Kỳ, quên hết món ăn Huế rồi hả?”
Chị không trả lời nhưng đôi đũa trong tay chị đảo lia lịa cái nồi đang sôi trên
bếp và món tàu hũ kho thịt, cà chua của chị giống như một đống vữa màu đỏ hồng.
Vừa rồi, có chị bạn văn chuyển cho tôi bài viết về Túy Hồng của bà Liễu Trương,
một ng̣i bút phê b́nh cự phách hiện sống ở Âu châu. Bài viết xuất hiện trên mạng
ngày 31/5/ 2017, có nhan đề “Viết Với Thân Xác Như Túy Hồng,” trong đó,
tác giả mổ xẻ cuốn Tôi Nh́n Tôi Trên Vách của chị, trích dẫn một đoạn Túy
Hồng làm tác giả kinh ngạc khi chị viết về sự thèm muốn các món ăn Huế của nhiều
nhân vật trong truyện, sự thèm muốn như một ám ảnh cực kỳ tha thiết, dai dẳng,
dung tục, pha trộn mùi nước mắm chanh ớt thật cay với mùi tỏi hăng nồng, bừng
bừng, xoáy vào gan ruột, mùi của da thịt động t́nh mập mờ tơ lụa. “Ăn một
bụng bánh khoái Gia Hội, ních bốn dĩa bánh bèo Tây Thượng, ăn ba đọi cơm hến, ăn
một mớ bánh nậm…” Người Huế cực đoan trong cảm xúc nên ngôn ngữ Huế, khi
cần, diễn tả được trạng thái cực điểm và ng̣i bút Túy Hồng sử dụng tinh xảo tố
chất này, biến chúng từ tầm thường đến tràn trề ma lực. Sâu bên dưới biểu hiện
nói trên, nhà phê b́nh Liễu Trương nh́n thấy t́nh yêu Huế nồng nàn, gắn bó của
Túy Hồng. Gợi nhắc Huế ở bất cứ điều nhỏ nhặt nào là khua thức rộn ràng những kỷ
niệm với Huế đă ḥa quyện vào máu thịt chị thành một thực thể bất khả chia ĺa.
Như đă có lần chị thở dài tâm sự với tôi: “Nghe tiếng một người đàn ông Huế giữa
phố phường là thấy lại một trời kỷ niệm. Không nghe được, ḿnh chết không nhắm
mắt” nên lúc cuối đời, chị đă rất dịu dàng ôm một người đàn ông Huế chỉ v́ chị
muốn nghe bên ḿnh cái “âm vọng” suốt đời mơ tưởng, vừa là hạnh phúc chói chang,
vừa là thương đau nhầy nhụa trong cả tâm hồn lẫn thể xác chị đang mỗi ngày tan
ră, “C̣n ǵ nữa đâu mà khóc với cười…”(PD)
Tôi lấy làm lạ ngay giữa downtown Seattle, ngôi nhà liêu xiêu của Túy Hồng ở
trên đầu con đường dốc lên, ngắn, lổn nhổn đá vụn và cỏ dại. Bên tay trái ngôi
nhà, là một căn pḥng nhỏ hoang phế, cửa sổ kiếng vỡ, bẩn, nghiêng vẹo, khiến
tôi không thể không liên tưởng đến cái không gian buồn bă của cuốn tiểu thuyết
Wuthering Height với Emily Bronte. Tôi ṭ ṃ nhưng không hỏi. Chị cũng
không nói. Về sau có nguời cho biết anh Thanh Nam đă nằm bệnh vài năm cuối đời
trong căn pḥng ấy. Tôi đoán chị yêu thích ngôi nhà và cảnh vật xung quanh nó v́
con ngơ lên xuống nhà chị giống hệt những con ngơ bên ven con đường tráng nhựa
men theo gịng sông An Cựu nơi chị ở Huế, chỉ thiếu mấy cây mít lá mướt như tắm
mỡ, mùa hè lũng liễng từ gốc đến ngọn những chùm quả xanh ḍn, căng mẩy, thiếu
cả quăng sông lúc trong lúc đục, năm năm tháng tháng miệt mài cuộn nỗi buồn ra
cửa Thuận An…
Suốt bốn năm bên nhau trong lớp, Túy Hồng là chiếc bóng mờ nhạt bên cạnh một bầy
con gái lau hau tuổi chị, tinh anh và tinh ranh hơn chị. Chúng xinh đẹp, học
giỏi, mỗi đứa một vẻ, tươi mát, quyến rũ. Qua năm đệ thất lạ nước lạ cái, lên đệ
lục, nhiều đứa làng nhàng mang thư t́nh Khải Định vào lớp cho bạn bè chia nhau
đọc, có đứa bảnh hơn: chàng du học tận Saigon, Hà Nội; có đứa như thần tiên, cổ
tích: chàng là thi sĩ, làm thơ hay nhất nước và ở xa tít tắp bên trời Tây; có
đứa duyên phận tội t́nh cột buộc vào đời trai thời loạn, mỗi lá thư là một hẹn
ḥ không biết có c̣n lần nữa hay không? Thế nhưng chúng sởn sơ hạnh phúc. Chúng
rạo rực chờ mong. Chúng nôn nao hy vọng. Chúng lo âu. Chúng khóc cười từng khi.
Chúng sống rực rỡ như mặt trời thức dậy mỗi sớm mai. Chúng lăng mạn thầm như khu
vườn khuya thao thức màu trăng xứ Huế. Túy Hồng th́ không. Túy Hồng như ngày
không nắng, không mưa. Túy Hồng như tập vở không nặn ra chữ. Túy Hồng như bấu
trời đứng gió. Túy Hồng khô cứng, lạnh lẽo, dáng đi như bức tường không đổ nền
vững, cứ chực nghiêng về phía trước. Chị một ḿnh, thui thủi. Chị một ḿnh, mặc
thế sự xung quanh. Chị đi học v́ ai cũng đi học. V́ không thể ở nhà mà có cơm mẹ
thổi nấu sẵn cho ăn, có quần áo mẹ may sẵn cho mặc. Chị đi học để chờ khôn lớn.
Thế nên khi chị đột nhiên nổi tiếng như cồn trên văn đàn cả nước, bạn bè cũ ngạc
nhiên v́ không có dấu hiệu sớm sủa nào ở chị báo trước điều này. Riêng tôi không
lạ, biết chị vốn không giống bất cứ đứa nào trong cả bọn chúng tôi ở Đệ nhất cấp
trường Đồng Khánh thập niên 1950. Chị không là một nhà văn được nh́n theo ước
lệ, đặt ra mẫu mực hàn lâm cho cả một thời đại. Chị lớn lên trong một gia đ́nh
có đông đàn bà hơn đàn ông và cảnh ngộ eo xèo, khốn khổ này khiến chị không muốn
đi con đường của họ. Chị tách ḿnh ra, tự do, thênh thênh một cơi. Chị là một
hiện tượng. Thâm trầm. Ẩn mật. Chị là một kho tàng chất chứa của cải lạ. Không
ai thấy. Không ai ngờ. Không ai có thể thẩm lậu. Cho tới khi chị mở cửa, đăi
đằng, mời mọc những thực đơn của riêng chị.
Không phải nhà văn lớn VP ở ṭa soạn Bách Khoa khi không mà vội vàng hạ cố viết
mấy gịng khen tặng chị kèm với chi phiếu $1,000 hậu hĩnh cho một bài viết đầu
tay như thế. Sau này, miệng lưỡi thiên hạ đă làm chị nao núng, nghi hoặc. Sau
này lề thói xă hội đă làm nhà văn ngượng ngùng, biện bạch cho đánh giá của ông,
thậm chí muốn chối bỏ. Cả chị, cả ông, không ai lầm lẫn chi cả. Một cách nào đó,
họ chờ nhau trong vô thức. Chị đến th́nh ĺnh, cất tiếng kêu man dại của con mèo
cái có đôi mắt tím than chạy thục mạng trên mấy cái mái nhà lợp ngói nung lửa
mặt trời mùa hè ở Huế. Ông đến đúng lúc, đúng cách, như một người đàn ông từng
trải, biết thèm muốn đàn bà, nghĩ đến chị với sự thèm muốn lộ liễu ấy ngay khi
chỉ mới đánh hơi mà chưa thấy chị, rất khác với những chàng trai Huế, vừa nhát
cáy, vừa tự phụ, yêu đương kiểu t́nh sách vở, kiểu lăng mạn vụn vặt tỉnh lẻ,
ngâm nga viết lá thư ba tháng không biết làm sao đưa, mới cầm tay nhau đă vội
vàng ước hẹn trăm năm, mộng thắm hiền ḥa như gạo thổi thành cơm. Chị không chú
ư đến họ nên suốt thời con gái dậy th́, chị không yêu ai. Chị không thèm ghé mắt
đọc chung mấy lá thư t́nh viển vông của lũ nhóc chúng tôi toàn gửi nhờ địa chỉ
nhà nhau qua bưu điện, Ư Uyên là Oanh Oanh, Mai Tâm là Cỏ Hồng, Bích Hảo là Thu
Giang..vv..kể những chuyện thần tiên ở măi tận đâu đâu: “Provence mùa xuân hoa
trắng nở kín trời làm anh nhớ em!” “Em ơi, Brest quanh năm sương mù chẳng thấy
quê nhà, chẳng thấy nơi em ở!” “Tết Hà Nội đi giữa hoa đào Nhật Tân h́nh dung ra
em với má môi hồng, ước ǵ anh là gió để được “thơm” em!”
Nhà phê b́nh Liễu Trương rất tinh tế để nhận biết Túy Hồng nặng t́nh yêu Huế lạ
thường. Sau này, khi khôn lớn đủ, tôi biết hơn ai hết, bạn tôi là một thu gom
toàn vẹn những đặc trưng của một xứ Huế cuồng nhiệt, kiên cường, nồng nàn, say
đắm, trong t́nh yêu, suy nghĩ, mơ ước và biểu lộ. Duyên trời đưa đẩy hay oan
khiên ghé qua vườn thúy để chị và ông đâm sầm vào nhau, vỡ ra từng mảnh. Ông có
vợ, có con. Ông thủy chung với vợ con nên nh́n thấy ở chị cơ hội tuyệt vời để
thử thách hay để bay bổng với trái tim tù ngục của ḿnh? Họ như những đồng cỏ
bạt ngàn khô cháy chờ lửa để rực rỡ hóa thân. Trong thế giới riêng chị, t́nh
yêu, nếu có một điều ǵ gọi tên như thế giữa loài người th́ đó là ngọn pháo bông
chỉ tỏa rạng một lần trong phút giây. Là ngôi sao lạ chỉ xẹt qua bầu trời một
lần rồi mất hút vào hư vô. C̣n lại có chăng chỉ là chút hồi quang tuyệt đẹp
trong tâm tưởng đă ước mơ đến ră rời của chính chị.
Sau đó, như mọi thứ đă chết và thối rữa, chị t́nh nguyện một ḿnh thu dọn, khâm
liệm tang tích tàn dư thật sâu, thật kỹ, rải trầm hương lên nghĩa trang và nếu
không thể tự hủy ḿnh như một cách chôn vùi tận cùng, chị sẽ chấp nhận cuộc sống
như đang chết của cha mẹ chị, của nhân loại quanh chị, đàn ông đàn bà lấy nhau
và sinh con đẻ cái, suốt đời gấu ó nhau, cam chịu ngày tháng qua trong những cái
lồng chật chội giam giữ họ.
“Tôi nh́n tôi trên vách,” một Túy Hồng dập đầu diện bích. Cô đơn cùng
cực. Khao khát cùng cực. Xác thân lầm bụi trần ai là lănh cung đầy ải chị.
Túy Hồng tâm sự: “Suốt nhiều năm, nửa khuya, trong ngôi nhà tịch mịch chỉ có mùi
trẻ con, hơi thở của chúng lẫn với mùi lông chó và thỉnh thoảng tiếng hú đêm
trăng của nó, ḿnh chui vào closet nói chuyện điện thoại đường xa với Thiền sư.”
Nguyên cớ cái vạ này cũng y như cái truyện ngắn đầu tay chị gởi cho Bách Khoa
năm nào, cho VP nh́n thấu tâm can chị. Chị gửi một bài chi đó cho tờ báo Phật
học và cái tâm Phật cứu rỗi chị những phút giây khắc khoải đă làm lay động trái
tim Thiền sư. Họ đến với nhau tự nhiên như nắng gió qua hiên nhà, như cơn mưa
đầu mùa làm mát những viên ngói khô nẻ. Họ nói đủ thứ chuyện, chung quy là phiền
năo của nhân gian, hệ lụy của nghiệp chướng, sạn đạo dưới gót bậc chân tu hay
hành giả khổ đau đi t́m niết bàn siêu thoát…” Chị kể: “Chuyện đời nói bao nhiêu
là đủ? Một hôm, Thiền sư báo tin Người sẽ về Seattle dự một Phật sự quan trọng
và muốn ḿnh đi đón Người ở phi trường.” Chị ngừng một giây, đôi mắt vẫn trong
sáng ngày nào chớp lia như nhánh hổ ngươi ngợp gió, hai má đỏ hồng. Chị nói
tiếp, giọng run rẩy: “BH biết không? Ḿnh không lái xa lộ được mà lại không muốn
lỡ cơ hội nên hứa bừa là sẽ đón Ngài theo hẹn. Ḿnh đọc báo t́m người dạy và học
cấp tốc trong ba ngày.” Chị lại ngừng, nén xúc động, rồi tiếp: “Tới hẹn, ḿnh
lái xe ra xa lộ, nói khẽ với ḷng có chết cũng đành.” (Nghe chị nói câu này, tôi
thực sự không biết chị có lấy từ ư thơ tương tự của thi sĩ Hồ Dzếnh hay không?
(…Giữa một giờ thiêng t́nh rất đẹp, Em ạ, yêu nhau chết cũng đành!)
Câu chuyện tiếp tục: “Ḿnh tới phi trường c̣n sớm nên t́m parking đậu xe. Xong
rồi t́m tới ga đến của hành khách và nép ḿnh chờ sau một vách ngăn mỏng. Đến
lúc này, ḿnh nhận ra có quá đông quư vị tăng lữ và Phật tử với biểu ngữ, cờ xí,
chắc hẳn đi đón Ngài. Sợ hăi, thất vọng, ḿnh lùi ra một khoảng khá xa cổng ra
của hành khách, biết rằng không có cơ hội nào được đón Ngài như ước hẹn.”
Im lặng. Nghẹn ngào.
“Sau cùng, ḿnh cũng thấy được Ngài oai nghiêm, phẩm cách, đi giữa lễ nghi, thậm
chí không cả một ánh mắt đi t́m trong đám đông vây quanh. Ḿnh tức cười nhủ
thầm: hóa ra mọi chuyện như một pho sách mở từng trang và từng chương ở cái trai
pḥng thanh tịnh trong ngôi đại tự nổi tiếng ấy và trong cái ngách tủ treo quần
áo ẩm hơi người ở nhà ḿnh, chẳng có chuyện nào thật cả. Xạo sự cho vui thôi!
Người đàn ông thông tuệ cũng ngổn ngang tâm sự trần gian muốn lánh ḿnh trong
những bài thơ đầy đạo vị, rót âm điệu vào ḷng ḿnh hằng đêm thanh vắng không hề
là vị cao tăng đang đi những bước chậm giữa đoàn người long trọng chắp tay đón
rước kia, ḿnh đă nằm mơ rồi!”
Cho nên, tôi tự hỏi liệu có bao nhiêu độc giả, bao nhiêu nhà phê b́nh văn học
đọc và phê phán tài sản văn chương khá đồ sộ và hung hăn của Túy Hồng mà có thể
nh́n ra, nói đúng về nhân thân chị, định nghĩa bằng cái t́nh yêu “trong một giờ
thiêng” chị cả đời t́m kiếm, đeo đẳng? Từ lọt ḷng đến khôn lớn, chị đă được cả
gịng họ, gia đ́nh, bằng hữu, quê hương, thành phố dạy dỗ, uốn nắn, mách bảo
phải sống như một người suốt đời chăm chỉ, miệt mài, trả những món nợ không vay:
học hành, lấy chồng, đẻ con, làm một cô giáo lương thiện…Tuổi đời qua như những
áng mây buồn, trả xong món nợ đầu tiên, chị bung ra viết như một cách thể hiện
ḿnh vô vọng và đầy thương cảm. Chị gào thét đền bù cho nỗi căm phẫn măi c̣n nín
lặng trong đáy ḷng chị. May thay, cách sống sót duy nhất Túy Hồng khám phá ra
và giữ được cho riêng ḿnh là một chọn lựa trong tự do tuyệt đối: T́nh Yêu.
Sinh thời, có lần nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng nói với tôi và nhiều bạn bè khác của
anh, câu này: “Ai đă đi qua Huế một lần sẽ không thể nào quên.” Túy Hồng không
chỉ đi qua Huế một lần, chị ăn gạo de An Cựu, uống nước sông Hương suốt phần đời
thơ ấu và thanh xuân của chị, mang ơn Huế, nặng t́nh với Huế v́ Huế với tất cả
tinh hoa và diễm lệ, của thiên nhiên, của lịch sử, của con người, dẫu khắc
nghiệt, đă cho chị một linh hồn, một thể phách mà chị rất bằng ḷng, rất hănh
diện được có. Không tầm thường, không nhàm chán, không tàn phai, Huế là t́nh yêu
măi đẹp, là người t́nh không có phiên bản trong trái tim chị cho đến tuổi già,
thể nhập khít khao trong từng ngơ ngách cảm xúc sâu thẳm và bí ẩn của chị, đồng
hóa vào chị không tách ĺa.
Nhạc sĩ Văn Cao nghĩ về Huế, nhớ về Huế như nhớ bồng lai, tiên cảnh. Túy Hồng là
chiếc bóng phơ phất bồng lai, tiên cảnh ấy, là
Thiên Thai! Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần…
Chị yêu Huế thủy chung. Chị yêu ḿnh thủy chung. Thủy chung của chị như bông hoa
say đắm sắc hương ḿnh, không chút buồn phiền, ảo năo. Thủy chung của chị là
thiên thu trong bàng hoàng một nhịp tim, trong quỵ ngă một bước chân không lần
lữa, là hào quang một đường dao vung lên tuyệt kỹ
“Một ánh dao bay ngàn thuở đẹp
Dù sai hay đúng cũng là hư.” (VHC)
Có thể nói Túy Hồng không thực sự yêu ai theo cách thế gian yêu nhau. Đàn ông
với chị chỉ là duyên cớ. Tôi nhớ đă đọc được đâu đó một câu của nhà thơ
Elizabeth Barrett Browning, rất thích hợp để mô tả bạn tôi: “I love you not
only for what you are, but for what I am when I am with you.” Yêu với Túy
Hồng là bỗng dưng, là hạnh phúc được thể hiện ḿnh tuyệt đối dù trong phút giây.
Tôi có giữ vài cái vỏ ốc thật đẹp, nhặt về từ nhiều băi biển tôi có dịp đi qua.
Những cái vỏ ốc trống trơn, óng ánh, với những đường vân mỹ thuật sóng đưa dạt
vào bờ, ong ong tiếng thở xa xôi của biển không bao giờ ngơi nghỉ. Tôi nh́n thấy
bạn tôi như con ốc lạc loài giữa đại dương mênh mông, một đời dập dềnh, nổi trôi
theo sóng nước ba đào, thân xác nhỏ nhoi gửi lại biển, chỉ c̣n cái vỏ là chứng
tích ngục tù giam giữ chị xin trả lại nhân gian.
Bùi Bích Hà
Quận Cam, tháng 8/2020
góp hương
art2all.net
|