uần vừa
qua, một
cuốn phim
Ðại Hàn ra
mắt khán giả
Paris, được
khen ngợi.
Báo Mỹ cũng
khen. Tên
của phim là
: Xuân Hạ
Thu Ðông ...
rồi Xuân
(1). Không
phải là
người sành
điện ảnh,
đọc tên phim
là tôi muốn
đi xem ngay
vì nên thơ
quá. Xuân hạ
thu đông thì
chẳng có gì
lạ, nhưng
xuân hạ thu
đông ... rồi
xuân thì cái
duyên đã
phát tiết ra
ngoài. Huống
hồ, ở trong
phim, xuân
rồi lại xuân
trên một
ngôi chùa
nhỏ ... trên
một ngôi
chùa nhỏ
chênh vênh
giữa núi
non.
Thơ và đẹp
là chuyện
của phim.
Bằng im lặng,
cảnh nói
thay người,
vì người
chẳng có gì
để nói.
Chẳng có gì
để nói giữa
ông thầy và
chú tiểu.
Chẳng có gì
để nói giữa
chú tiểu và
cô gái. Giữa
ba nhân vật
là một chiếc
thuyền, có
khi có người
chèo, có khi
không có
người chèo
vẫn trôi,
trôi từ bờ
bên này qua
bờ bên kia,
từ thế giới
bên ngoài
không hiện
diện qua thế
giới ngôi
chùa không
ai cần nói
với ai.
Chiếc thuyền
là nét động
duy nhất
giữa tĩnh
lặng mênh
mông, là
vùng vẫy
giữa lắng
đọng. Nói gì
? Có gì để
nói ? Nói gì
giữa chú
tiểu và cô
gái ? Chuyện
xảy ra là
chuyện tất
nhiên, bình
thường như
xuân hạ thu
đông, bốn
mùa trôi qua
trên mái
chùa.
Mới hôm qua,
mùa xuân,
chú tiểu hãy
còn là búp
măng, con ai
đem bỏ chùa
này, ngây
thơ đùa
nghịch với
cóc nhái,
rắn rít. Hôm
nay, khi cô
gái đến,
tuổi đời của
chú đã bắt
đầu vào hạ.
Ðất trời ấm
mùa hạ, cô
gái ấm mùa
hạ, chú cũng
vậy. Chuyện
gì xảy ra
tất phải xảy
ra, chú tiểu
hay ai cũng
vậy thôi,
đất đá cũng
biết, nói gì,
có gì để nói,
bình thường
như xuân hạ
thu đông,
bốn mùa trôi
qua.

Cô gái đến
chùa để ở
lại chữa
bệnh. Khi
đến, cô u
sầu. Dưới
mặt trời mùa
hạ, trời ấm,
người ấm, cô
rạng rỡ. Ông
sư nói: “Cô
lành bệnh
rồi đấy, về
nhà được rồi”.
Ông biết hết,
nhưng thản
nhiên, như
không, có gì
để nói? Cô
gái xuống
thuyền,
thuyền đưa
cô từ bờ bên
này của núi
non qua bờ
bên kia của
một thế giới
chẳng ai
biết. Ðó là
thế giới chú
tiểu sắp
bước vào,
bởi vì, sau
khi cô gái
đi, chú tiểu
cũng khăn
gói rời chùa,
làm con bướm
đuổi theo
mùi hương.
Trong khăn
gói, chú cẩn
thận nhét
thêm tượng
Phật. Nằm
trong gói,
chắc tượng
Phật nói
thầm : “chú
tiểu ơi,
chẳng sao
đâu, chú đi
như thế cũng
tốt như ở,
bình thường
thôi, xuân
hạ thu đông”.
Chùa hai
người, bây
giờ chỉ còn
một. Một ông
sư già và
một con mèo
con. Mặt
trời dịu lại,
mùa hạ cũng
ra đi. Mùa
thu dần đến,
núi non vàng
rực một màu.
Nhưng chẳng
mấy chốc,
chú tiểu trở
về. Chú về
với râu, với
tóc, với
tướng mạo
hiên ngang
của thanh
niên đô thị.
Và với con
dao ! Con
dao mà chú
đã thọc vào
cổ của người
yêu bây giờ
là người
phản. Chú
vào chùa,
giận dữ bốc
cháy người
chú. Trong
tay chú, con
dao như muốn
thọc vào cả
núi non.
Thản nhiên
như không,
ông sư càng
già càng ít
nói. Chỉ nói
: “ Chú khổ
thì người
khác cũng
khổ ”. Nghe
chừng như
chuyện khổ
cũng tất
nhiên, nói
gì, có gì để
nói, chỉ là
xuân hạ thu
đông.

Cũng tất
nhiên, cảnh
sát đến chùa
bắt kẻ sát
nhân. Cảnh
sát có súng.
Sát nhân có
dao. Dao ấy
hươi lên
trước súng.
Máu sẽ đổ
chăng ? Ðổ
trên sân
chùa ? Ðổ
trên lưng
ông già đang
lom khom nắn
nót viết chữ
trên sân ?
Ðâu có !
Không rời
bút, cũng
chẳng nhìn
lên, ông bảo
chàng thanh
niên buông
dao. Dao
buông xuống
thì dao hết
là dao. Dao
hết là dao
thì súng
cũng hết là
súng, cảnh
sát hết cảnh
sát, thanh
niên hết râu
tóc. Chỉ còn
chữ viết
trên sân.
Với con dao
đã buông,
ông bảo chú
thanh niên
tiếp tục
khắc chữ
trên nền sân,
khắc theo
chữ ông viết.
Chú khắc
suốt ngày và
suốt đêm.
Khắc rách da
tay, khắc
kiệt sức.
Khắc : sắc
bất dị không,
không bất dị
sắc, sắc tức
thị không,
không tức
thị sắc, thọ
tưởng hành
thức diệc
phục như thị...
Bài kinh Bát
nhã.
Sáng hôm sau,
cảnh sát dẫn
chú lên
thuyền qua
bên kia bờ.
Mọi chuyện
xảy ra như
chẳng có gì
để nói,
chẳng có gì
để nói nhiều,
tất nhiên
như thế. Trừ
bài Bát nhã.
.
Mùa thu trôi
qua, tuyết
mùa đông phủ
trắng núi
non. Một mùa
tuyết, hai
mùa tuyết,
chẳng biết
bao nhiêu
mùa tuyết
trôi qua,
chỉ biết ông
sư già đã
tịch. Giữa
băng giá phủ
kín mặt hồ,
bỗng một hôm,
giữa mùa
tuyết như
thế, một
người đàn
ông đứng
tuổi hiện ra,
đi từ bờ bên
kia qua bờ
bên này của
ngôi chùa bỏ
hoang. Cũng
một người ấy
thôi, mãn
giấc bướm,
mãn tù, mãn
cuộc đời,
quay về chùa
cũ. Cũng một
người ấy
thôi, nhưng
không phải
người ấy nữa.
Người ấy bây
giờ là sư.

Có sư, chùa
sống lại.
Tượng được
đặt trên bàn
thờ, bế lên
núi, ngự
trên chóp
đỉnh, tạc cả
vào băng.
Giữa băng
giá, sư mình
trần leo núi,
thách đố với
trời đất,
thách đố với
cả chính
mình. Sư
thắng. Sư đã
từ giã bờ
bên kia. Sẽ
không còn ai
biết sư là
ai nữa, kể
cả con
thuyền khi
hết băng giá
sẽ nối lại
hai bờ, kể
cả chính sư.
Nhưng từ giã
cuộc đời bên
kia đâu có
phải là diệt
nó. Trái lại,
phải sống
với nó. Mà
cuộc đời ở
bên kia cũng
chẳng để cho
sư quên sư
đâu. Nó nhắc
nhở hành
trình của sư
ở chính cái
chỗ bắt đầu
: ở tiếng
khóc khi bắt
đầu sự sống.
Cho nên,
giữa giá
băng như thế,
một buổi
sáng, chùa
chưa mở cửa,
bỗng vang
dội tiếng
khóc sơ sinh
trước sân.
Một thiếu
phụ, chẳng
biết ai, dấu
nước mắt,
đem con lên
bỏ chùa này,
giao cho
chùa giọt
máu chắc hẳn
là kết quả
của một hạnh
phúc không
bền hơn
sương tan
đầu cỏ.
Tiếng khóc!
Trẻ thơ! Câu
chuyện của
chính ông sư,
có lẽ của cả
mọi người,
sẽ lặng lẽ
diễn ra hàng
ngày trước
mắt ông. Câu
chuyện đó,
ông đã quá
biết rồi,
cho nên có
gì xảy ra
chắc ông đều
sẽ thản
nhiên, chẳng
nói một lời,
nói gì, có
gì để nói,
bình thường
như xuân hạ
thu đông
trôi qua
trên mái
chùa của ông.

Ðấy, băng
giá tan rồi,
mùa đông đã
trôi qua,
một mùa đông,
hai mùa đông
...Rồi mùa
xuân ! Trẻ
sơ sinh đã
thành chú
tiểu nhỏ,
ngây thơ đùa
nghịch với
cóc nhái,
rắn rít đang
bò ra khỏi
hang. Chỉ
chừng mươi
mùa xuân nữa
thôi là chú
tiểu sẽ vào
tuổi hạ. Coi
chừng, chú
sắp rút dao.
Sắp khắc
trên nền
gạch :“có
chẳng khác
không, không
chẳng khác
có...” Nói
gì nữa, có
gì để nói
?...

Ðáng lẽ
người kể
chuyện chấm
dứt ở đây.
Nhưng xem
phim mới lại
nhớ phim cũ.
Nhớ quá,
không cắt
hai phim ra
được, cho
nên phải
thêm. Cũng
tại bài kinh
Bát nhã,
năng trừ
nhất thiết
khổ chân
thật bất hư.
Dứt trừ hết
khổ ách,
chân thật
không hư.
Tại sao bài
kinh Bát nhã
có công năng
như vậy ?
Tại vì kinh
nhắc chữ
có
cho ai mê
muội về
không, nhắc
chữ không
cho ai mê
muội về
có.
Cứ thử mê
muội rồi
thấm Bát nhã.
“Xuân Hạ Thu
Ðông ... rồi
Xuân” được
sáng tác
giữa thời
đại mà dục
tính phơi
tràn trên
màn ảnh. Ái
dục là đề
tài của phim,
vấn nạn của
nhân vật.
Tôi không
biết đạo
diễn có lấy
hứng từ phim
cũ không,
nhưng tôi
liên tưởng
đến một phim
nổi tiếng
của Nhật,
Quái Ðàm (Kwaidan)
(2), chiếu
cách đây
trên 35 năm,
rút từ một
chuyện thiền,
chẳng có gì
giống phim
mới ngày
nay, trừ bài
Bát nhã.
Chuyện như
sau, tôi kể
theo trí nhớ.
Một chú tiểu
mù sống
trong một
ngôi chùa
vắng với một
ông sư già.
Chú chơi đàn
tỳ bà rất
hay, tiếng
đàn ai oán,
ai nghe cũng
rơi lụy. Một
buổi tối mùa
hè đầy sao,
chú tiểu
đang ngồi
trước sân tư
lự với sao
trên trời,
bỗng nghe
bước chân lạ
của ai đến
bên cạnh.
Tiếng áo
giáp khua.
Rồi giọng
một võ sĩ :
“Chú đừng sợ.
Nữ chúa của
ta nghe danh
cây tỳ bà
của chú nên
bí mật tới
đây cùng với
cả triều
đình của
ngài để mời
chú đến đàn
cho nghe
khúc nhạc kể
lại trận
thủy chiến
ngày xưa xảy
ra trong
vùng này. Ta
đưa chú đi”.
Chú tiểu
ngần ngại
quá, sợ kẻ
lạ, sợ đêm
khuya, thầy
quở, nhưng
võ sĩ nắm
tay chú kéo
đi. Chú được
dẫn đến
trước một
cung điện
nguy nga,
tráng lệ .
Cả một triều
đình bá quan
văn võ, quý
tộc, công
nương, lễ
phục oai vệ,
uy nghiêm,
ngồi lặng
yên chờ chú.
Trên ngai,
chủ trì một
nữ chúa,
trang phục
cực kỳ lộng
lẫy. Chú
tiểu so dây,
lựa khúc,
gảy bản đàn
nổi tiếng,
rồi cất
tiếng ca não
nùng kể lại
trận đánh.
Cả triều
đình thương
cảm, rơi lệ.
Gần sáng, võ
sĩ đưa chú
về lại chùa,
hẹn tối mai
sẽ trở lại,
sẽ đàn, sẽ
yến tiệc, sẽ
trả công, sẽ
gả người đẹp
cho chú,
nhưng cấm
chú tuyệt
đối không
được hé
miệng kể cho
ai nghe
chuyện này.
Tối hôm sau.
Lại tiếng
khua của áo
giáp. Lại võ
sĩ đến tìm.
Lại triều
đình oai vệ.
Lại đàn hát,
nỉ non, ai
oán. Trận
thủy chiến
hiện ra qua
bài hát,
giáo mác,
lửa đạn,
thây người,
máu chảy, cả
triều đình
thất trận
nhảy xuống
sông, nữ
chúa gieo
mình xuống
nước, tự vẫn
...
Ðêm hôm đó,
đêm hôm sau,
đêm sau nữa,
cứ đến đêm
là ông sư
già để ý
thấy chú
tiểu ôm đàn
ra khỏi chùa,
đến gần sáng
mới về. Ông
thầy lo quá,
thấy chú
tiểu tái
xanh, ngớ
ngẩn, xa
vắng; Chẳng
lẽ chú tới
nhà gái ?
“Này, tiểu,
nhỏ nào hớp
hồn chú vậy?”
Chú tiểu lắc
đầu, câm
miệng, khiến
thầy càng
nghi. Tối đó,
sư cho người
theo dò,
nhưng lạ quá,
tiểu đi như
lướt trên
đất, chẳng
đường sá gì
cả, vừa mới
theo bóng
chú đã lạc
đâu rồi, mất
hút. Quay về
lối cũ, bỗng
nghe thoảng
ra, từ nghĩa
trang gần
chùa, tiếng
tỳ bà. Vào
nghĩa địa
thì chú đấy,
đang ngồi
đàn một mình
trước mộ
hoang của
phe thất
trận thủy
chiến ngày
xưa. Mưa đẫm
ướt áo, chú
vẫn đàn say
mê . Gọi,
chú chẳng
nghe. Lay,
chú vẫn ngồi.
Vẫn đàn, như
không biết
gì khác.
Phải lôi chú,
kéo chú về
chùa.
Thế này thì
tiểu bị ma
bắt rồi - sư
nói. Thất
trận mấy
trăm năm,
oan hồn vẫn
chưa tan.
Vẫn triều
đình, vẫn bá
quan văn võ,
vẫn nghi vệ
oai phong,
vẫn lộng lẫy
nữ chúa. Vẫn
thủy chiến.
Dưới trời
sao. Trước
nấm đất
hoang. Ông
sư mài mực,
chấm bút,
bảo chú tiểu
cởi hết áo
quần, viết
trên toàn
thân kín mít
chữ, từ chỏm
đầu đến mút
chân. Chú
tiểu bây giờ
chỉ còn là
bài kinh
biết đi,
sắc
bất dị không,
không bất dị
sắc ... Sư
nói : “tối
nay nó lại
đến tìm chú
nữa đấy ; cứ
tĩnh tọa chú
Bát nhã”.

Tối, võ sĩ
lại đến,
nhưng chẳng
thấy chú
tiểu đâu cả,
chỉ thấy cây
tỳ bà vẫn
gác nơi vách.
Nhìn quanh
cây đàn,
trống không,
chẳng bóng
ai, nhưng ô
kìa, sao lại
có hai cái
tai vễnh lên
trước mắt,
đúng là tai
của chú tiểu.
Võ sĩ kéo
tai ; chú
tiểu nhịn
đau, chú Bát
nhã. Không
làm được gì
hơn, võ sĩ
rút gươm,
cắt tai,
mang đi. Sư
phụ ơi, sư
phụ ơi,
người đã
tuyệt vời
năng trừ
nhất thiết
khổ, chân
thật bất hư
kín mít toàn
thân, từ
chỏm đầu đến
mút chân,
chỉ quên
khuấy yết đế
trên hai tai
!
Không mắt,
không tai,
vô nhãn nhĩ
tỷ thiệt
thân ý, chú
tiểu bây giờ
chỉ còn là
cây đàn, tai
mắt chú là
cây tỳ bà,
cây tỳ bà là
tai mắt chú,
người và đàn
là một.
Trong chuyện
thiền mà
cuốn phim
lấy hứng,
chú tiểu trở
thành danh
cầm bậc nhất
thiên hạ.
Hai phim,
hai chuyện
chẳng giống
gì nhau, chỉ
cùng mượn
hứng từ bài
Bát nhã. Sự
đời ! Trăm
vạn chuyện
khác nhau
đến mấy, rốt
cuộc rồi
cũng một chữ
ấy mà thôi,
không ngộ
thì mê,
không mê thì
ngộ, nói gì,
có gì nữa để
nói ?
Cao Huy
Thuần
_______________
Chú của a2a
:
(1)
Printemps,
été, automne,
hiver... et
printemps (tên
Hàn ngữ là
Bom, yeorum,
gaeul,
gyeowool,
geurigo, bom,
2003), đạo
diễn : Kim
Ki-Duk
(2) Phim của
Masaki
Kobayashi,
Nhật Bản
(1964). Câu
chuyện tác
giả kể lại
là một trong
4 chuyện hợp
thành cuốn
phim
Kwaidan.