Phạm Thị
Hoài
VĂN VÀ SỐ
Nghề văn và nghề tử vi có những tương ứng kỳ lạ. Mới vào th́ hăng hái
say mê như không thể dứt. Cái say của kẻ tin rằng số phận là thứ có thể
lĩnh hội, văn nghiệp là thứ có thể thủ đắc. Vậy hăy khao khát băng tới
đích, hăy tràn trề tham vọng, hăy ham muốn đạt được một cái ǵ.
Tất nhiên có một số đông trong văn giới bẩm sinh là những vị tuẫn nạn,
say mê của họ thuần là khổ hạnh v́ chữ nghĩa; một số đông nữa là những
bậc thánh đă rửa hết tục, ḷng sạch c̣n lại chỉ dành cho cái vĩnh cửu
của văn chương mà thôi; và một số đông khủng khiếp nữa là những văn nhân
luôn luôn thuộc về phe bại và đă giải hoà với số phận đen đủi của ḿnh
từ lâu, họ là tổng hoà thành công của những vị tuẫn nạn và những bậc
thánh. Nhưng số đông ấy đáng kính tới mức không có ǵ để bàn đến nữa. Ta
hăy xem cái say mê tầm thường, hạn hẹp, người ngợm hơn của thiểu số c̣n
lại, trong đó h́nh như có ḿnh, biến đổi theo thâm niên nghề nghiệp như
thế nào.
Ta vào nghề viết với ḷng khấp khởi, rằng văn chương là một pháo đài có
thể chinh phục. Chính ta chứ không phải gă hàng xóm có cái diễm phúc làm
một vị hoàng đế, một nguyên soái, một đại tướng, mèng th́ làm một tay
cắm cờ hay thổi kèn gơ trống, tệ nhất cũng làm chân xung phong. Chưa hẳn
hiếu danh, nhưng ta thành thực hiếu thắng. Dĩ nhiên không mấy ai ưa vỗ
ngực khoe ḿnh hiếu thắng. Nếu phải lư giải, ta sẽ t́m rất giỏi những
nguyên cớ phần lớn là cực sâu xa, cao thượng, phức tạp, quyết định cái
hành vi đơn giản, là viết. Những nguyên cớ đó nếu không thực có trong
bản thân ta cũng không hề ǵ, chúng là những thứ có thể vay dễ dàng ở
mọi nơi. Ai dùng cũng thế. Vậy là ta đă đầy nguyên cớ. Nhưng gă hàng xóm
cũng hoàn toàn có quyền đầy nguyên cớ như thế, ngoài ra gă cũng chăm đọc
văn lắm, cũng tu dưỡng tư duy nghệ thuật, cũng ôm ấp những lư tưởng,
cũng cho Truyện Kiều là bất hủ, cũng kính chữ như kính trời ... V́ sao gă
không viết? Chẳng phải ḷng tin vào thành quả, niềm hy vọng ở tài năng
ḿnh và ham muốn được kẻ khác thừa nhận, nếu không muốn nói thêm là cả
ḷng ham đua tài đọ sức, đă đẩy ta, chứ gă th́ không, qua cái cổng dẫn
vào làng văn đấy ư? Không ai lỡ sẩy chân sa vào rồi đành mắc kẹt ở đó.
Không ai, nhất là những kẻ một mực tuyên bố rằng ḿnh chỉ thuần túy rong
chơi trong nghệ thuật, và những kẻ than phiền rất khổ sở rằng ḿnh bất
đắc dĩ mà dụng văn, không ai bước vào đó mà không giắt sẵn trong những
khe ngách kín đáo nhất của tâm hồn ḿnh một chút hy vọng và khao khát
thành công. Không thành công th́ cũng thành nhân, nghe khiêm tốn lắm. Vậy
sao chẳng thành người ở chỗ khác? Nghệ thuật nào phải chỗ dễ thở nhất
trong nhân gian. Nhưng thành công trong văn chương c̣n lắm vẻ hơn thành
công trong cuộc đời. Sớm th́ ngay lập tức. Muộn th́ ba trăm năm sau. Một
lời khen của bạn vàng có khi đủ, một chỗ đứng trong lịch sử có khi chưa
thoả ḷng.... Tôi không muốn phải bàn về nỗi ngây ngất khi ta đuổi theo
một dấu phảy như cái đuôi tuyệt mỹ của con chồn tinh quái. Một cuộc săn
bền bỉ và hùng tráng. Dấu phảy ơi, hăy đợi đấy! Hoặc phải bàn về ḷng
hân hoan của kẻ đang nối mạch cuối cùng ở quả bom nghệ thuật sẽ nổ vào
rạng sáng ngày mai, khiến bầu trời văn chương quá tṛn c̣n thiêm thiếp
ngủ của chúng ta rạn nứt và méo theo chương tŕnh thẩm mỹ đầy sửng sốt
của h́nh bát giác.... Vậy chỉ xin bàn về cái triển vọng khiến ta hoa mắt
ở đầu đời văn:
rằng ta đă bước qua đúng cánh cửa phải bước, đă nhằm đúng hướng. Ta nhất
định làm nên một cái ǵ. C̣n lại chỉ là sức lao động và thời gian. Nói
cách khác, ta đă vững tin ở thành quả văn chương của ḿnh tới mức có thể
rộng răi tuyên bố về hai yếu tố không mấy quan trọng c̣n lại:
"nghệ thuật là một phần trăm tài năng cộng chín mươi chín phần trăm lao
động" và "thời gian sẽ phán xử". Thật là một sự rộng răi khinh suất và
tai hại, nhưng vào thời điểm này, đầy ḷng tin, ta c̣n hào phóng tuyên
bố vô số chân lư bất diệt hơn nhiều.
Người mới nhập môn tử vi cũng sốt sắng tin tưởng như vậy. Y xoè bàn tay
trái ra, thoăn thoắt dùng đầu ngón cái lướt trên mười hai ô viền bốn
ngón c̣n lại để an sao lập số. Chỉ cần xong ṿng Tử Vi và ṿng Thiên Phủ
là y đă h́nh dung ra đại cương của một số phận. Đă vẽ được chút tính
t́nh và diện mạo của đương số. Cứ đà này, đủ 110 v́ sao, th́ chân tơ kẽ
tóc của số ấy nằm trong tay y. Văn chương thông qua h́nh tượng nghệ thuật
mà miêu tả, tái hiện, b́nh luận và tân tạo cuộc sống th́ tử vi thông qua
h́nh tượng tinh tú mà miêu tả, tái hiện, b́nh luận và tân tạo cuộc đời.
Nhưng có khi chưa cần thông qua một h́nh tượng nào hết, mới lập xong lá
số lắm người đă thấy ḿnh là thày tử vi. Ở cái thuở toàn dân c̣n mải học
chữ to trên bảng, có lẽ những người chép được chữ nhỏ lên giấy đă nghiễm
nhiên thành văn sĩ.
Lập một lá số cần những công thức nhất định. Đôi khi người ta căi nhau
về cách an ṿng Tràng Sinh, bộ Ḱnh Đà và bộ Hoả Linh trong trường hợp
âm nam dương nữ. Với Lưu Hà, Khôi Việt, La Vơng và cả Tứ Hoá cũng không
hoàn toàn thống nhất. Bộ sao Giải phần lớn chỉ ghi nhận Giải Thần và
Thiên Giải. Thêm vào đó Địa Giải là tăng toàn lá số thành 111 v́ sao.
Nhưng Kim Thánh Thán chẳng b́nh rằng "Thuỷ Hử truyện tả nhất bách bát cá
nhân tính cách, chân thị nhất bách bát dạng", khiến ta truyền tụng về
Thi Nại Am dựng 108 nhân vật theo 108 tinh tú trong lá tử vi đó sao? Vậy
lượng sao trời quyết định số phận ta cũng co giăn lắm. 108, 110, 111,
hay thêm 9 vị sao lưu là thành 120? Song các môn đệ của tử vi biết rơ,
đường đến nghệ thuật lớn phải gian truân, những ḥn sỏi len vặt vào giày
chưa làm ai nản chí.
Chép chữ lên giấy nào có khác. 29 chữ cái trong tiếng Việt có luật của
chúng. Ta cũng căi nhau về việc cho CH, GH, GI, KH, NG, NH, PH, QU, TH
và TR quyền tự quyết, tiếng Việt vậy có thể giàu thêm 10 chữ cái. Thỉnh
thoảng ta giật ḿnh v́ gặp Z, như một ngôi sao lạc (Địa Giải chăng?), rất
có thể là chữ cái thứ 40. (Không có chữ ấy không có nhà thơ Hồ Dzếnh). Cách dùng I với Y măi không thống nhất nổi, các giải pháp xung quanh bộ
ĐGI-R, bộ C-K-QU, bộ X-S, thậm chí cả bộ CH-TR cũng đành để ngỏ, chưa kể
mấy loại quy tắc đánh dấu khác nhau, mấy quan điểm ngữ pháp, mấy quy
định viết hoa và dùng gạch nối, mấy phép phiên âm/không phiên âm tiếng
ngoại quốc.... Vô số biến thể của các phương ngữ làm nốt cái nhiệm vụ là
khiến ta từ bỏ mọi ư định t́m kiếm một quy tắc hợp lư. Tài trí xuất
chúng và đảm lược phi thường như cố Alexandre de Rhodes mà c̣n bị các
phương ngữ Việt thao túng, vậy nhă độ của ta là đầu hàng. Miền Bắc đương
nhiên biết vợ lẽ khác vợ lẻ, miền Nam cũng chắc rằng la ve chứ không la
de. Nhưng phải viết thầy hay thày, y chang hay y trang, xí xoá hay xúy
xoá, trần ś hay trần x́, giông băo hay dông băo, hổ lốn hay hẩu lốn,
vứt bỏ hay vất bỏ, cà rỡn hay cà giỡn hay cà trớn, layơn hay laydơn hay
dơn hay glaieul hay Gladiole hay gladiolus, rút cục, rốt cuộc, rút cuộc
hay rốt cục, của đáng tội hay quả đáng tội, riêng tư hay riêng tây, đằng
nào hay đàng nào, dấn thân hay dẫn thân, manh mối hay mành mối, trụ sở
uỷ ban hay trú sở uỷ ban, khuyến mại hay khuyến măi, lai căng hay lai
cẳn.... Tưởng ăn hoa hồng là phải, hoá ra ăn hoả hồng cũng là phải,
tưởng miệng c̣n hoi sữa, nhưng miệng c̣n hôi sữa và miệng c̣n hơi sữa
cũng xong. Rởm đúng rồi, nhưng dỏm cũng đúng lắm. Phải viết bất th́nh
ĺnh hay th́nh ĺnh, gây sức ép lên ai đó hay gây sức ép với ai đó,
trong giấy hay trên giấy... Tra tiếng Việt cần lắm mưu mẹo và cảnh giác
cao độ. Chẳng hạn cuốn Từ Điển Tiếng Việt của Trung Tâm Từ Điển Học do
Hoàng Phê chủ biên, in lần thứ sáu năm 1998, không ghi nhận những từ như
chuyển giao công nghệ, công ty trách nhiệm hữu hạn, vốn pháp định,
khuyến mại/măi, tiếp thị, Việt kiều, thuyền nhân, trại cải tạo, toàn trị,
quốc xă, đa đảng, kẻ sĩ, phân tâm học, tâm thức, thiện nguyện, chống
cộng, đĩa bay, đường cao tốc, kẹo cao su, karaôkê, thăm nuôi, đánh quả,
trúng mánh, ôsin, gái cave, cửu vạn, xe ôm, chợ đuổi, cơm bụi... Bù vào
đó, từ điển này chính thức cho tiếng Việt thêm bốn mục chữ cái là F, J,
W và Z. C̣n ai dùng cuốn Từ Điển Chính Tả Tiếng Việt của Nguyễn Trọng
Báu do nhà xuất bản Giáo Dục cho in năm 1997 lại không biết viết những
từ như à, ách, am, anh, ánh, áp, âu, ầu, ấu, bạch, bám, banh, bành, bánh,
bạnh.... cà, cá, cam, cám.... Ít nhất hàng trăm từ thông dụng đều vắng
mặt không xin phép như vậy. Lẽ nào trong tiếng Việt đă xảy ra một exodus,
một cuộc đào thoát? Bệnh vọng ngoại của tôi thường phát mạnh ở những chỗ
thật khó hiểu, chẳng hạn cứ khi nào bế tắc trong từ điển Việt của người
Việt tôi lại ṃ vào quyển Annamite-Francais của J.F.M. Génibrel. Năm nay
ta đă chê Britannica năm trước là cũ. Quyển Génibrel xuất bản cách đây
101 năm. Thày tử vi ta căi nhau có thể lôi sách Tàu ra dựa. Sách Tàu nhiều
như muối biển, bảo quyển này đúng, quyển kia sai, là quyền ở thàỵ Nhà
văn ta căi nhau không dựa vào đâu được, nhưng bảo chữ này đúng, chữ kia
sai, cũng là quyền ở ḿnh.
Vậy mà chưa ai non gan đến mức buông bút v́ phép chép chữ. Các nhà thơ
có thể nhổ vào phép tắc. Thơ hay là thơ nằm ngoài ngôn từ, mới bập bẹ
xếp vần ta đă nghe dạy thế. Vậy ngôn từ sai cả cũng không ảnh hưởng. Sai
tới mức không biết hiểu thế nào cho phải là có thể thành sấm truyền.
Tiểu thuyết hơi khác, hỏng vài trăm chữ cũng c̣n mấy chục vạn đáng đọc,
vả lại những tác phẩm vĩ đại thường không hoàn toàn. Truyện ngắn ở vào
thế bất lợi hơn cả, sai một li đi một dặm. Nhưng nhà văn Việt vốn ưa thử
thách, thường nhè việc khó nhất mà đảm đương. Như thày số hăng nghề gí
mắt vào lá số, trước hết là lá số của chính ḿnh, ta cũng nôn nóng chúi
mũi vào trang văn, trước hết là văn ḿnh. Hấp dẫn biết bao! Kỳ diệu biết
bao! Chẳng lá số nào giống lá số nào. Văn chương muôn nhà muôn cách. Vậy
số ta thế nào và văn cách ta thế nào?
Bất luận thế nào, đằng sau một lá số phải là một số phận sinh động, đằng
sau trang văn là cuộc đời thực, ta thuộc lắm cái nguyên tắc chán ngắt đó.
Giá nhanh chân hơn, được đầu thai vào thuở các văn nhân nước Việt nhiệt
đới c̣n được phép sáng tạo những mùa đông có cây tùng đội tuyết và tự do
so những mĩ nữ không thể có trong hiện thực với những loài hoa chưa ai
từng biết.... , giá được như vậy th́ thoải mái biết bao. Nhưng lịch sử
không thể quay ngược. Đă từ lâu, trước khi các nhà văn Việt Nam biết
phục tùng hiện thực trong những căn nhà gương do thuyết phản ánh của mĩ
học Mác-Lê thiết kế, ta đă dọn sẵn ḿnh để sống dưới quyền năng của hiện
thực. Nhưng nó có ǵ đáng sợ đâu. Dù ai mang cả bộ Hồng Lâu Mộng ra dạy
rằng văn chương cổ điển phương Đông từng theo sát cái bản lai diện mục
của cuộc đời như thế nào, dù ai lấy thêm bộ Đi T́m Thời Gian Đă Mất ra
doạ rằng hiện thực cũng ngồn ngộn trong văn chương hiện đại phương Tây,
dù ai khuân toàn tập Kim Dung ra chứng minh rằng bỏ qua những đoạn phi
thân độn thổ th́ mọi thứ trong đó đều như thật, đều theo phép tả chân cả,
và cuối cùng, dù ai đem ngàn trang Chiến Tranh và Hoà B́nh ra đ̣i cho
được một tác phẩm tầm cỡ tương tự xứng đáng với thực tế chiến tranh và
cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam, vâng, dù lẽ phải hiển nhiên đứng
về phe những kiệt tác như thế của văn chương nhân loại, tôi dám đoán
rằng ngày nay không một nhà văn nào vào nghề bằng cách nghĩ nhiều hơn
một phút về hiện thực. Ta bận tâm đến đủ mọi sự, trừ một sự đương nhiên:
đương nhiên văn chương xuất phát từ cuộc đời, dù đấy là một cuộc đời
nhạt nhẽo và bé tí. Chẳng lẽ c̣n một điểm xuất phát nào khác nữa? Ở tác
phẩm đầu tay, đời sống hay chí ít cái ta cho là đời sống lại thường có
vẻ thừa thăi tung toé trên giấy. Lắm người tiếc của trời, đúng hơn phải
gọi là của đời, nhặt những mảnh văi mà làm tiếp, cũng thành một tác phẩm
thứ hai.. Tôi hiểu ra rất chậm, rằng văn chương không đương nhiên có cái
bổn phận quái quỷ là xuất phát từ cuộc đời như vậy. Câu hỏi về hiện thực
không hẳn là vô cớ, nhất là khi những đ̣i hỏi của chủ nghĩa hiện thực
không hề là điều kiện nguyên uỷ của văn chương. Song vô nghĩa chủ yếu là
những câu trả lời. Đời sống và nghệ thuật biết những cách ràng buộc nhau
thông qua vô vàn tầng môi giới mù mịt, được một tầng minh bạch đă là
nhiều. Trăm giọt sữa rỏ từ vú đời xuống giấy mà giấy vẫn trơ màu giấy,
đến giọt nào giấy bỗng chuyển thành màu văn? Có thứ văn ngẫu nhiên từ đời
mà ra. Có thứ văn tuyệt nhiên cứ dầm chân tại chỗ trong đời. Có thứ văn
hiển nhiên cho đời với ḿnh là một. Có thứ văn siêu nhiên, hẳn xuất phát
từ siêu đời. Có thứ văn thuần túy từ văn mà ra. Lại có thứ văn rơ ràng
không sinh ra từ đâu cả.... Một mô h́nh giữ không nổi mà bỏ cũng không
nổi như mô h́nh Chân Thiện Mĩ rút cuộc cũng dùng được vào một việc:
để xác định ba vấn đề căn bản, một là cơ sở, điểm xuất phát của văn
chương; hai là mục đích, điểm đến; và ba là bản thân sự vận động của
nghệ thuật ở khoảng giữa. Ta đă thấy cơ sở của văn chương, đi liền với
cái Chân, chẳng có ǵ là đương nhiên và chắc chắn cả. Cái Thực và cái
Thật không đồng nhất đă đành, mà khi lấy Chân đối với Hư là lịch sử văn
học thành ngay một mớ ḅng bong. Các nhà lănh đạo nghệ thuật xưa nay
không gỡ rối. Họ chỉ chặt phăng tất cả những ǵ không nên lọt vào các đề
cương và tuyên ngôn luôn hết sức ngay ngắn gọn gàng của họ. Xung quanh
hai vấn đề c̣n lại, đi liền với Thiện và Mĩ, t́nh trạng không sáng sủa
ǵ hơn. Nhưng trước khi thày tử vi ngờ rằng số phận là nguyên mẫu của lá
số hay lá số mới thật là nguyên mẫu của số phận, trước khi thày hoảng
hốt thấy mỗi lúc một trùng điệp những yếu tố trung gian che mờ mọi tương
quan giữa một nhúm kư hiệu lập trên bàn tay trái hay trên màn h́nh máy
tính với một đời sống nào đó, trước khi thày chán nản quẳng túi càn khôn
với 108, 110, 111 hay 120 tinh đẩu vào một xó bụi, trước khi như vậy th́
khoa tử vi c̣n đầy vẫy gọi. Mấy ngàn câu tử vi phú và tử vi diễn ca chẳng
lẽ vô dụng cả sao? Bao nhiêu kinh nghiệm chung đúc, bao nhiêu chỉ dẫn và
nhắc nhở của những người đi trước, bao nhiêu công thức, bao nhiêu bí
quyết.... Tất cả đều hứa hẹn và khích lệ đừng bỏ cuộc.
Bao nhiêu phương châm và lời chỉ giáo ta cũng từng tuân thủ, để viết?
Bao nhiêu điều kiện và những phẩm chất ta đă buộc phải có, bao nhiêu lư
tưởng phải noi theo, bao nhiêu lư thuyết rồi lại bao nhiêu chủ trương,
đề cương, tuyên ngôn, phong trào, trường phái? Chắc không ai đếm nổi.
Những bí quyết thành công của cái nghề văn càng ngày càng khó thành đạt
này chắc chắn nhiều hơn của cả nghề luyện đan và thuật giả kim gộp lại.
Ta có thể bảo, v́ thế mà văn chương thỉnh thoảng đạt đến độ hoàn thiện
và bất tử, c̣n vàng ṛng chưa ai chế được, linh đan càng không. Vậy luyện
văn theo bí quyết nào?
Ta thử bắt đầu với một bí quyết có vẻ giống thứ thần dược ở chợ phiên:
mọi cuốn sách hướng dẫn viết truyện thành công ngay đều khuyên, hăy để
nhân vật chính ở ngôi thứ ba. Điều hết sức đơn giản ấy với các nhà văn
Việt lại có vẻ phức tạp không ngờ. Truyện Việt Nam dù nôm hay Tàu, văn
xuôi hay văn vần, từ thuở nào đều để mọi nhân vật ở ngôi thứ ba. Đến Hồ
Biểu Chánh, Khái Hưng, Nhất Linh.... cũng thường như vậy. Trừ Nguyễn Tuân,
đối với các nhà viết truyện Việt Nam thời 1930-1945, "thời đại cái Tôi"
theo lời Hoài Thanh, ngôi thứ nhất đảm nhiệm đầy đủ chức năng nhân vật
nghệ thuật vẫn là điều không thể, dù Hoàng Ngọc Phách từng đi trước một
chút với Tố Tâm, thực tế đă là giọng kể từ ngôi thứ nhất. Phạm Quỳnh
trong bài diễn thuyết về văn học nước Pháp tại Hội Trí Tri năm 1921 có
tha thiết lưu ư giới thưởng ngoạn Việt Nam đến Montaigne với bộ Cảo Luận
(Essais) chỉ thuần nói về ḿnh, kể chuyện ḿnh, lấy ḿnh làm đích. Thời
của Montaigne, hơn bốn trăm năm trước, là thời văn chương Việt c̣n ém
ḿnh kĩ lưỡng trong những cách khiếm danh và phiếm xưng. Có lẽ nhà văn
nước ta những năm 20 chê Montaigne là quá cũ, hoặc có lẽ ông chủ Nam
Phong đă gây đủ ác cảm trong những giới thức giả nhất định, Cảo Luận
không t́m được hồi âm. Tùy bút của Nguyễn Tuân chắc chắn có những người
cha tinh thần khác. Theo tiết lộ của Nam Cao trong "Đường Vô Nam"
(1946), đấy có thể là Paul Morand.
Trở lại với các ngôi nhân vật, độc giả Việt Nam cho đến nay vẫn hâm mộ
truyện tiền chiến, cũng do công lao của các nhân vật chính ở ngôi thứ ba
chăng? Vậy v́ lẽ ǵ mà nhà văn Việt sau này càng ngày càng xa rời cái bí
quyết thành công ấy? Trong văn học Việt đương đại, xu hướng dùng ngôi thứ
nhất đă áp đảo tới mức có thể thành một thông lệ. Tác giả mới hầu như
chỉ dùng ngôi Tôi. Tác giả lâu năm cũng chuyển ngôi từ lúc nào không rơ.
Có những tác giả chưa bao giờ dùng một ngôi nào khác Tôi. Cuộc Tôi hoá
tập thể này hẳn có bối cảnh phức tạp và trái khoáy, bản thân tôi đă bao
lần thử viết một cuốn truyện kiêng ngôi thứ nhất, lần nào cũng không
thành. Chẳng hạn tôi muốn theo cái mốt khả ái là nữ lưu viết truyện
trinh thám, chỉ v́ không chọn nổi một đại từ nhân xưng cho nhân vật nam
chính mà đành bó tay. Chàng chắc chắn là hỏng. Không phải văn chương tiền
chiến mà văn chương miền Nam trước 1975 đă thoả măn vĩnh viễn nhu cầu
dùng chàng-nàng trong văn học Việt Nam, cũng như nhu cầu về đồng chí đă
cạn kiệt sau văn chương hiện thực xă hội chủ nghĩa. Anh chăng? Tôi không
dám hứa với độc giả là nhân vật này đáng gọi là anh như vậy, anh theo
nghĩa cụ Trần Trọng Kim dạy trong Việt Nam Văn Phạm không được, anh theo
nghĩa anh Kim Đồng, anh Trỗi sau này càng không. Anh ta cũng không ổn,
độc giả sẽ lập tức nghi anh ta chính là thủ phạm. Hắn là đại từ ưa thích
của các nhà văn, song độc giả chẳng ưa:
không nghi ngờ ǵ nữa, hắn là thằng tội phạm! Các đại từ nhân xưng đă
phá án ngay từ đầu như vậy th́ tác giả c̣n việc ǵ mà làm? Nhân vật nữ
chính ở ngôi thứ ba lại càng rắc rối. Hăy h́nh dung, chị Dậu của Ngô Tất
Tố mà thành cô Dậu th́ sự thể ra làm sao! Nam Cao hẳn đă khổ nhiều về
niêm luật đại từ nhân xưng, giải pháp thứ nhất của ông là cho phắt cả
nam nữ ngôi thứ ba một cách gọi duy nhất:
y. Sinh trong Sống Ṃn cũng y, mà vợ y cũng y. Giải pháp thứ hai, nam là
hắn, gă, thằng, nữ đơn giản là thị. Chẳng lẽ thị Nở có thể là chị Nở, ả
Nở, cô Nở, nàng Nở? Những đại từ ấy dùng cho thế giới nhân vật của Nam
Cao, đám người khốn nạn mọi đàng, có vẻ đích đáng lắm. Song không dùng
được cho những trai tài gái sắc, Lan và Điệp, Loan và Dũng.... Lẽ nào
lại có một thị Kiều và một thị Vân dang tay dạo bước trên đồi thông Đà
Lạt, một thị Sứ trong Ḥn Đất, một thị Út Tịch? Tiếng Việt tuy dành ra
một giải pháp bất ngờ, lấy ngay khái niệm người để chỉ những nhân vật
đáng kính. Chỉ có điều từ khi người (viết thường) - chứ không phải ngài
- thành Người (viết hoa), cơ hội vốn đă nhỏ của đại từ này hạn chế hẳn ở
một vài nhân vật hưởng chế độ ưu tiên, cũng như khi bác thông thường
thành một Bác duy nhất. Những sáng kiến táo bạo như vậy không có nhiều
và đâu dễ áp dụng trong văn học. Phan Khôi từng đề nghị dùng va cho ngôi
thứ ba, song đến thế hệ tôi th́ chữ ấy đă xa xôi như nghỉ, chỉ mở Kiều
ra mới gặp. Giải pháp tiện hơn cả cho nhà văn Việt là thay đại từ chỉ
ngôi thứ ba bằng tên nhân vật. Tên nhân vật lặp đi lặp lại dày đặc:
"Người u già này ở nhà Dung đă lâu lắm, đă nuôi và săn sóc tất cả anh
chị Dung từ lúc bé. Nhưng, không biết v́ có phải thấy Dung ra đời trong
sự lănh đạm, mà u già đem bụng thương yêu Dung chăng." (Thạch Lam, "Hai
Lần Chết"); "Tết năm nay Trâm đẹp lắm, mà Trâm sung sướng quá v́ Trâm đă
mười sáu tuổị... " (Khái Hưng, "Ngày Xuân Lễ Chùa"); "Chị Thời mến Nhị,
khen Nhị hiền lành, ngoan ngoăn, để cho Nhị hoàn toàn tự do." (Mai Thảo,
"Những Tấm H́nh Của Chị Thời"); "Jean th́ chưa được chứng kiến cảnh
tượng đó bao giờ. Bố mẹ Jean có thể yêu nhau từ kiếp trước chứ đời Jean
th́ chỉ thấy bố mẹ chửi nhau." (Lê Đạt, "Con Báo Hoa Xứ Tuyết").... Những
tác giả vừa dẫn đều nổi tiếng với một văn cách riêng, song tôi có cảm
tưởng rằng, khi họ phải dùng đến cái giải pháp phổ thông nêu trên, họ
bỗng cùng nhau hoà vào một giọng. Tôi đành xin lỗi mà gọi giọng ấy là
giọng tuổi mơ. Thật khó mà bi tráng, từng trải, gân guốc, dũng mănh, bạo
liệt, dữ dội, cuồng nhiệt, sắc sảo, chua chát, cay đắng, riết róng, siêu
thoát, phóng túng, khinh bạc, ngạo nghễ.... , thật khó mà đi tới những
giới hạn cuối cùng của mọi cung bậc t́nh cảm bằng giọng tuổi mơ ấy. Chỉ
có thể lăng mạn nhỏ nhẹ, măi xanh tươi, măi ngọt ngào, thoang thoảng một
chút suy tư đầu đời, man mác những nỗi đau mới lớn.
Văn chương mỗi nước có lúc già lúc trẻ, ấy là lẽ tự nhiên. Văn học của xă
hội Việt Nam cổ truyền chưa bao giờ thực sự trẻ. Trong bốn tài năng xuất
chúng sinh ra từ đó:
Du, Hương, Khiêm, Quát, chỉ có Cao Bá Quát và Hồ Xuân Hương từ chối
giọng đạo mạo muôn thuở và cho phép ḿnh hưởng một chút bồng bột nhất
định của tuổi trẻ. Cao Bá Quát không kịp già. C̣n Hồ Xuân Hương, thật
may là ta không bao giờ biết rơ tuổi bà nữa. Tuổi không hề đóng một vai
tṛ nào trong gần một ngàn năm nước Việt có văn học viết. Lê Ngọc Hân
mới ngoài hai mươi, c̣n Phan Huy Ích đă ngoài bốn mươi khi Nguyễn Huệ
mất. Giọng một người vợ trẻ nhất định không giống giọng một ông nho ṇi
đă chín muồi, vậy mà không thể dựa vào tuổi để xác định bản quyền trong
vụ án Ai Tư Văn. Trần Tế Xương ở lúc giao thời rơ ràng có khuấy đảo cảnh
nghiêm trang nề nếp của một thời đại văn học đă xế chiều, song dù ṃn
mỏi cắp lều chơng đi thi và không thọ quá tứ tuần, ông tú ấy có thể là
một ông cụ non và một thày đồ gàn chứ không đời nào là cậu học tṛ tinh
nghịch. Văn học Việt Nam quả thật như thay da đổi thịt với Thơ Mới và
văn xuôi lăng mạn tiền chiến, song bất chấp mọi cái non nớt, ấu trĩ,
chông chênh, thời đại văn học ấy cũng không hoàn toàn trẻ. Sinh khí mới
mẻ của nó trước khi t́m được những cơ thể trẻ trung tương ứng đều ngụ
nơi những đại diện chín chắn của nền cựu học ở buổi hoàng hôn. Văn đàn
sôi nổi thuở Việt ngữ vừa mới lớn, thời hiện đại vừa mới chớm và thế kỷ
vừa bắt đầu ấy phần lớn vẫn giữ giọng mực thước, nghiêm nghị, thận trọng,
già cả, của những tiên sinh và phu nhân, những ông những bà những thày
chững chạc đến mức khiến ta quên rằng, nhiều vị trong số họ c̣n chưa đầy
tuổi lập thân theo quan niệm truyền thống. Rồi một lúc nào đó, hương
tuổi mơ cũng theo những cơn gió lăng mạn của thời đại mà sực dần vào
chốn lầu văn thâm nghiêm.Nhưng phải đợi đến cơn băo lăng mạn của Cách
mạng Mùa Thu, văn học Việt Nam mới thực sự cải lăo hoàn đồng. Như tiền
bối của nó không bao giờ trẻ dù có thể xuân sức, nó không bao giờ già dù
đă mệt mỏi, đă thôi chí thanh tân, đă hết lửa ḷng từ lâu. Thế kỷ đă tàn,
Cách mạng đă về hưu, Việt ngữ đă trưởng thành nhiều và thời hiện đại đă
đứng bóng, lẽ nào cái văn chương sinh ra từ đó măi ngây thơ, nhí nhảnh?
Măi tuổi mơ? Măi học tṛ? Măi vị thành niên? Mario Puzo khi đă thành danh
cũng kiên quyết mách các đồng nghiệp kém may rằng, hăy viết bằng ngôi
thứ ba. Bí quyết ấy có thể dùng với tiếng Anh chăng? Trong tiếng Việt
đương đại, ngôi thứ ba chỉ giỏi trói nhà văn vào những thứ t́nh bất đắc
dĩ. Như t́nh tuổi mơ.
Mọi kinh nghiệm đúc kết trong nghề văn thật ra đều có thể vô ích tương
tự, dẫn đầu là lời khuyên điên rồ, rằng hăy lắng nghe và chỉ nghe theo
tiếng nói tự đáy ḷng ḿnh. Có một chỗ xứng đáng để tin cậy quả nhiên là
may mắn hiếm có. Lại là chỗ gần nhất, ngay trong chính ḿnh, thật tiện
lợi biết bao. Vả lại khi dư luận cứ nhất định im ắng ghê rợn th́ tiếng
ḷng ḿnh càng vô cùng cần thiết! Bạn văn cũng sẽ đồng ư ngay với tôi
rằng, sau bao nhiêu nao núng và thất bại th́ cuộc phấn đấu của giống ṇi
nghệ sĩ chống lại tất cả những áp đặt từ bên ngoài đối với bản thân mỗi
cá nhân cuối cùng đă thành tựu. Mọi thế lực từng hoành hoành trên sự thui
chột thảm hại của cá tính sáng tạo đă lần lượt bị thanh toán. Ở đâu đó,
nơi những trật tự cố hữu nào đó vẫn sót lại, rất có thể c̣n những thi sĩ
phải gọt thơ cho tṛn, những tiểu thuyết gia phải đúc nhân vật cho vuông
vắn, những nhà phê b́nh phải mài luận lí cho nhẵn thín, và t́nh yêu văn
chương phải là thứ t́nh chân chính trong ṿng xếp đặt của những bậc
trưởng thượng.... Nhưng xu thế chung là sự toàn thắng của một thế giới
nghệ thuật tuyệt đối chủ quan. Chỉ c̣n tiếng ḷng của chính ḿnh. Thế
giới khách quan dường như cũng đă tận diệt. Ở thời buổi này, lấy bất kỳ
một chuẩn mực từng biết nào để định giá tác phẩm sẽ lố bịch biết mấy.
Đúng như vậy:
Đừng theo Kinh Thi, đừng dựa vào Kinh Thánh, đừng bói trong Kinh Dịch,
đừng nương Kinh Phật, đừng nghe Marx, đừng căn cứ vào nghị quyết của Ban
văn hoá và tư tưởng, đừng đặt cược vào chủ nghĩa tự do, đừng lấy Nguyễn
Du làm chuẩn, đừng trông vào truyền thống, đừng tin những ông trùm văn
chủng và nhân chủng của các đế quốc văn hoá, đừng làm nô lệ cho bon
gout, đừng học Trần Dần, đừng ngă vào ṿng tay hậu hiện đại, đừng t́m
lời đáp trong thiên nhiên, đừng v́ trách nhiệm với cộng đồng, đừng để
thẩm mĩ toàn cầu mua chuộc, đừng chạy theo khoa học, đừng quan tâm đến
các festivals, đừng để giải Nobel lung lạc, đừng chú ư đến các tập đoàn
xuất bản khổng lồ, đừng ghé thăm hội chợ sách Frankfurt, đừng gửi tác
phẩm mới in cho các nhà phê b́nh danh tiếng, đừng yên tâm khi được đăng
trong The New Yorker, đừng đọc Liber, tất nhiên là đừng theo dơi báo
Nhân Dân và báo Văn Nghệ, đừng hài ḷng khi ở hải ngoại được trong nước
xuất bản và ở trong nước được hải ngoại xuất bản, đừng thất vọng khi kẻ
thù bỗng dửng dưng, đừng yếu ḷng v́ thư độc giả, đừng sờn ḷng khi mọi
bản thảo gửi đi lại quay về.... Tôi từng dịch thư của R.M. Rilke gửi một
nhà thơ trẻ, trong đó có những ḍng như sau:
"Không ai có thể khuyên ông và giúp ông, không một ai. Chỉ có một cách
duy nhất mà thôi. Ông hăy đi vào chính ḿnh.... - và khi thơ bật lên từ
cuộc hướng nội, đắm ḿnh trong thế giới của riêng ḿnh đó, ông sẽ không
c̣n nghĩ đến việc hỏi ai rằng thơ ấy có được không. Ông cũng sẽ không
t́m cách bắt các tạp chí phải chú ư đến thơ ḿnh nữạ... " Song không xa
đoạn trích ấy là bao, Rilke lại viết:
"Ông đang trông cậy vào bên ngoài, mà đấy chính là điều không nên làm
trong lúc này." Không nên làm trong lúc này! Vậy lúc nào nên làm cái việc
trông cậy vào bên ngoài. Lúc nào th́ cái thế giới tuyệt đối chủ quan của
mỗi chúng ta lại cần đến một công cụ ít nhiều khách quan hơn? Lúc nào th́
tiếng nói tự đáy ḷng ta bỗng mất tăm, chẳng phải v́ sự Ồn ào bên ngoài
lấn át, mà đúng hơn v́ tự huỷ trong một không gian cách âm ngày càng thu
nhỏ? Lúc nào ta lại sẵn ḷng đánh đổi tất cả những thành quả đắt giá của
tự do sáng tạo lấy một chút câu thúc tự bên ngoài. Có cái coócxê nào bó
buộc và thít chặt như bộ nịt của luân lư và đạo đức? Cởi ra đă vất vả
lắm, xong lại thèm đeo ngay vào. Văn chương đại chúng ở phương Tây, giữa
cái thời đại được coi là không c̣n ǵ thiêng liêng và ràng buộc này,
thời đại của tự do và phá phách, chẳng do dự ǵ hết khi phải vượt qua
những giới hạn nào đó, càng quá càng tốt, miễn sao mê hoặc được ḷng
người. Nếu cần th́ nó dùng luôn những thành tựu của nghệ thuật tiền
phong, chẳng quản ǵ cấm kị. Nhưng rường cột của nó, nguyên tắc sống c̣n
của nó, bí quyết cốt lơi của nó lại là cái sơ đồ luân lư bất di bất dịch
về cái Thiện rồi sẽ thắng cái Ác. Thắng. Ở phút cuối cùng. (Tôn giáo
cũng chẳng cho cái Thiện thắng ngay từ đầu. Nghệ thuật theo gương ấy là
khôn ngoan lắm.) Hăy quẳng người đọc xuống biển, v́ hắn thích được ngụp
lặn trong kích động như vậy. Hăy lùa đến đó một đàn cá mập, một đội hải
tặc, một chiếc tàu ngầm khổng lồ của thằng cha mắc bệnh vĩ cuồng nguy
hiểm nhất thế giới, thêm một đám thuỷ quái bầy nhầy phát sinh từ một
trận thử bom Mỹ hay bom Nga... Chỉ có điều đừng quên cấp cho người đọc
chiếc phao thô sơ nhưng an toàn của cái Thiện để dùng vào phút chót. Khi
chăm chỉ nhấn mạnh đến lần thứ bao nhiêu không đếm nổi tính tất yếu ấy
của luân lư, khi thắt chặt hơn nữa chiếc coócxê đáng ghét ấy, các phát
ngôn viên của văn hoá Việt lấy văn chương bán chạy của phương Tây làm
mẫu chăng? Đông đảo độc giả Việt Nam đang chờ để được quẳng xuống biển
Đông, với mọi nguy hiểm tương tự và sẵn sàng để cái Thiện bao trọn gói
như vậy. Mọi điều kiện cho văn chương bán chạy ở Việt Nam cũng đă chín
muồi. Tiêu chuẩn của đám đông ngày nay đối với cá nhân nghệ sĩ có lẽ đă
thành thiên mệnh. Chữ Thiện đă đủ tầm vóc siêu thị. Nếu c̣n muốn theo
đuổi nó th́ quầy ướp lạnh với những gói luân lí hạng nhất đông cứng là
điểm đến của văn chương. Một người như Nguyễn Tuân thuở trẻ, sợ đến cả
cái ràng buộc của đồ dùng - khi nền văn minh đồ dùng c̣n chưa kịp đến,
sau một đám tang liền tính chuyện phơi dăi ḿnh ra một chỗ thoáng - khi
nền văn hoá hiếu lễ c̣n chưa kịp đi, người ngang trái khác thường ấy,
riêng một ḿnh một cơi, nhất nhất một tinh thần cá nhân thượng đẳng,
cũng là người suốt phần đời c̣n lại chỉ lo tẩy xoá vất vả chính cái cá
nhân đó. Đừng trông vào riêng ḿnh, và tốt nhất là đừng trông vào ḿnh,
lời khuyên ấy có lẽ thiết thực hơn chăng? Khoa tử vi cũng dạy ta sợ phép
biện chứng chẳng kém. Tử Vi đức hạnh đủ đầy ư? Tất nhiên như vậy. Nhưng
Đế toạ La Vơng hoàn vi phi nghĩa chi nhân, chớ tưởng đế tinh không lâm
bại địạ Nhật Nguyệt Sửu Mùi của ông mờ ám xấu xa, của bà muôn phần rực
rỡ quư hiển. Song Lộc bó nhau lại không bằng Song Hao chúng thuỷ triều
đông. Đắc Không, ngộ Không và kiến Không là ba số Không không chung nhau
điều ǵ.... Sau những bài học chưa đáng tuyệt vọng ǵ như thế, các môn
đệ tử vi may ra mới bắt đầu ngờ rằng ḿnh vừa mất mấy tháng trời để múc
một giọt nước giữa đại dương. Biết bao giờ đong đủ? Biết thế nào là đủ?
Không phải khoa tử vi chỉ ra quá nhiều cách mà một số phận có thể rơi
trúng. Trái lại th́ đúng hơn. Nhưng chính số lượng hạn chế của các mẫu
lí lịch trữ sẵn trong cái chương tŕnh đă h́nh thành gọi cho là từ đời
Tống của nó mới là đầu mối của mọi sự rắc rối. Mỗi cách buộc phải toả
thành nhiều cách nhánh. Đến lượt ḿnh, mỗi nhánh lại phải thâu tóm nhiều
nhánh con. Cứ như vậy, cho đến khi mỗi cách số là một bản đồ chằng chịt,
lan sang những bản đồ bên cạnh, đè lên, che mờ, cộng hưởng, triệt tiêu,
sinh sôi những nẻo mớị... Tinh đẩu trong tử vi v́ thế có vẻ thành viên
mafia, đều chính thức có chân trong một tổ chức nào đó, một bộ, một nhóm,
một gia đ́nh, song hành tung chồng chéo, hoạt động chân rết và liên hệ
đa phương của mỗi vị khiến thế giới ngầm ấy măi măi là trùng trùng bí ẩn.
Rút một dây động cả rừng. Nhưng dây nào đáng rút? Chẳng trách có thày
cuối cùng chỉ xem một cung Nô cho là đủ. Có thày chỉ luận thằng Phá Quân.
Có thày đặt mọi hy vọng ở Đào-Hồng. Có thày chỉ c̣n trông vào các sao
Hoá. Và rất nhiều thày đă mất ḷng tin từ lâu. Ḷng tin dường như cũng
như lợi nhuận ở thị trường chứng khoán. Có thể được, có thể mất. Nhưng
lấy lại th́ không thể.
Bản đồ văn học cũng chằng chịt như thế và nỗi sợ của nhà văn cũng dày
lên cùng với ḷng tin thưa dần. Chẳng trách có nhà cuối cùng chỉ cậy vào
cái gọi là Đẹp. Chữ Mĩ trở thành trại tị nạn cho những kẻ trốn chạy khỏi
ngơ cụt của vô cùng.
Vào nghề th́ văn học không thể thiếu ta. Bỏ nghề chẳng được, hoá ra
chính là ta không thể thiếu văn học.
Berlin ,
10-1999
|