|
Trường Ca Hàn Mặc Tử
Đoàn Xuân Kiên
Ave Maria
Trường ca Hàn Mặc Tử (TcHMT) là tác phẩm mới của Phạm Duy vừa ra mắt quần chúng vào những ngày cuối năm 93. Về h́nh thức th́ đây là một tổ hợp những bài thơ Hàn Mặc Tử do Phạm Duy phổ nhạc. Nhưng người nghe có thể h́nh dung được chủ đích của tác giả tổ khúc này không phải chỉ là phổ nhạc một số bài thơ lẻ của một nhà thơ; TcHMT có thể xem là một bản diễn giải bằng nhạc những hành tŕnh nghệ thuật của tâm hồn Hàn Mặc Tử (HMT).
Kể từ khi nhà thơ qua đời đến nay đă hơn 50 năm, không biết bao nhiêu sách và bài báo nỗ lực phân tích tâm sự nhà thơ bằng nhiều ngả. Nhiều người đă dựa vào căn bệnh hiểm nghèo của thi sĩ mà nói nhiều về tâm trạng điên loạn bất thường của HMT để dẫn đến sự nương náu tâm hồn trong ánh sáng tôn giáo; có người đă dùng con mắt của nhà phân tâm để diễn dịch tâm hồn HMT qua những biểu hiện phức tạp của một người chịu đựng những ẩn ức tâm lư triền miên từ lúc trẻ đến khi phát bệnh nan y.
Rất nhiều ngả đường đă dựng lên để mong tiếp cận tâm hồn người thơ quá cố. Có điều là nhiều ngả đường đă đi quanh co qua những điểm tựa bên ngoài tác phẩm của HMT. Rất ít oi những nỗ lực nghiên cứu vẽ lên được con đường sáng tạo nghệ thuật của HMT dựa trên chính những biến thiên tâm hồn nhà thơ thể hiện qua tác phẩm của chính ông. TcHMT là một nỗ lực hiếm hoi của một nghệ sĩ nhằm diễn giải hành tŕnh nghệ thuật của nhà thơ. Lại là một công tŕnh biểu hiện qua thế giới âm thanh. Cho nên ư nghĩa của TcHMT sẽ không chỉ là đóng góp vào kho tàng nhạc phẩm vốn đă đồ sộ của Phạm Duy thêm một tác phẩm thơ phổ nhạc nữa mà c̣n là ở sự đồng cảm của hai tâm hồn nghệ sĩ trước phận người không thiếu ǵ điêu linh, khổ nhục.
Hành Tŕnh Nghệ
Thuật
Trường ca Hàn Mặc Tử được bố cục làm ba phần mang tựa đề như sau:
PHẦN I . T̀NH QUÊ PHẦN II . TRĂNG SAO PHẦN III . AVE MARIA
Mỗi phần gồm có ba phân khúc nhạc được phổ từ một bài
thơ HMT, hoặc phổ từ sự tập hợp của một số trích đoạn thơ, có khi lại
chỉ là phổ nhạc một trích đoạn trong một bài thơ thôi. PHẦN I .- T̀NH QUÊ gồm ba phân khúc nhạc phổ từ ba bài thơ HMT làm từ những ngày c̣n trẻ. (Bài T̀NH QUÊ đă in trong tập thơ GÁI QUÊ - 1936).
Phân Khúc 1 là nhạc mở đầu bằng những âm thanh ngân nga trong nhịp điệu êm ả nhưng rất lăng mạn. Chất nhạc đă được kỹ thuật ḥa âm làm bật lên tính cách đặc trưng của nhạc chiều (sérénade) quen thuộc trong nhạc cổ điển Tây phương.
T̀NH QUÊ
Phân Khúc 2 là nhạc phổ toàn bài thơ ĐÂY THÔN VĨ GIạ. Nhạc gợi tả một không gian u tịch, vắng lặng như những buổi hoàng hôn nơi đồng quê những thuở thanh b́nh: tiếng côn trùng kêu vẳng, hoàng hôn uốn lượn xa vắng như tiếng phi lao ŕ rào trong gió, như tiếng gió th́ thầm lúc chiều tà. Không gian âm nhạc thật không c̣n ǵ trữ t́nh hơn. Tiếng hát Thái Hiền duyên dáng một vẻ đẹp mộc mạc, chất phác như h́nh tượng cô gái quê dịu dàng trong thơ HMT. Nhạc và ḥa âm trong phân khúc đă chuyển sang nét u uẩn, gợi tả những cảm giác bâng khuâng man mác mà ta vẫn gặp trong những ngâm khúc của văn học cổ điển. Không gian nghệ thuật trong phân khúc này cứ gợi tả những ấn tượng về Tỳ bà hành hay những bài thơ Đường của trường phái biên tái, hoặc giả những phân cảnh người t́nh nhân tha thẩn đi t́m hương cũ nơi vườn xưa quạnh vắng trong Kiều.
ĐÂY THÔN VĨ GIẠ
Từ nét buồn u ẩn mênh mang trong phân khúc hai, nhạc chuyển sang Phân Khúc 3. Phần nhạc dạo tạo ngay cảm tưởng về một sự thiêng liêng huyền nhiệm của không gian qua cảm nhận của nhà thơ. Tâm cảm của HMT trước vẻ Đẹp của ảnh trí Đà Lạt có lẽ cũng không khác ǵ tâm sự của nhân vật nghệ sĩ mà Vũ Khắc Khoan cũng có lần t́m cách diễn dịch bằng ngôn ngữ (1).
Nhạc đề của phân khúc là nỗi đắm say trong tiếng gọi ảo huyền của cái Đẹp mà nhà thơ đă cảm thán rằng phút thiêng liêng đă khởi đầu. Tiếng hát Tuấn Ngọc có tính cách say đắm mê hoặc cũng hoà theo nhạc réo rắt mà không kém phần huyền hoặc. Kĩ thuật thể hiện hoà âm gợi tả rất khéo cảm giác bâng khuâng của Kiều khi thấy Đạm Tiên in dấu giày trên ngấn rêu xanh. Đă thoáng hiện những băn khoăn, khắc khoải khi tiếng nhạc vút lên niềm u uẩn vang ngân rồi hiện rơ giọng rền như tiếng chuông gọi hồn vừa u uất rền rĩ như nỗi đơn côi của người nghệ sĩ. Sự cảm nhận tế vi của nhà thơ dễ chừng chỉ mới đến Phạm Duy mới thấy sự đồng cảm sâu sắc giữa hai tâm hồn nghệ sĩ như vậy.
ĐÀ LẠT TRĂNG MỜ
Phần Một vừa rồi đă khởi đầu từ hành âm êm ả
thanh thoát đến vẳng xa u uẩn, rồi chuyển sang sâu lắng ngẩn ngơ. Diễn
tiến âm nhạc gợi được h́nh ảnh con người đi trên hành tŕnh hồn nhiên
của tuổi nhỏ đến xôn xao t́nh trẻ, rồi đến tiếng gọi sâu lắng của nội
tâm đă biết băn khoăn thao thức trong sự t́m kiếm. Không gian âm nhạc là
không gian chiều tà đi vào đêm sâu, tính cách của nhạc cũng v́ thế mà êm
ả lăng đăng như sérénade và nocturne của nhạc cổ điển.
Diễn biến tâm t́nh như thế cũng khớp với cảm nhận của chính Phạm Duy khi
ông cho rằng nhạc ở đây đă diễn được thân phận của đất nước chúng ta đi
từ thời thanh b́nh sang cảnh trạng của sự bất trắc... (1)
PHẦN II .- TRĂNG SAO, gồm các phân khúc số 4, số 5 và số 6:
Phân Khúc 4 là đoạn tán thán về sự mầu nhiệm của ánh trăng. Tính cách của âm nhạc là tính cách thánh ca, nhưng đối tượng của lời tán thán không là h́nh tượng siêu nhiên mà chỉ là ánh trăng. Nhà thơ bị trăng mê hoặc và tắm đẫm ḿnh trong ánh trăng. Đấy là khởi điểm của những xúc cảm thơ trong THƠ ĐIÊN - ĐAU THƯƠNG, tập thơ HMT làm từ khi phát bệnh phong. Hành âm của phân khúc lần lượt đi qua bốn biến điệu: vầng trăng --> chơi với trăng --> trăng tự tử --> rượt trăng.
Có lẽ đây là lần đầu tâm trạng khúc mắc của HMT được thể hiện một cách cụ thể qua h́nh tượng gợi tả của âm nhạc. Nhạc vờn múa như trong cơn say trong một kết cấu đẹp: h́nh tượng âm nhạc tăng cường độ xúc cảm dần qua từng biến điệu, cho đến cuối biến điệu thứ tư. Tiếng hát Tuấn Ngọc vút lên cao như cơn thảng thốt của nhà thơ vừa tắt khi nhà thơ vừa ngất lịm trong cơn xuất thần. Nhạc đi những bước ma quái làm nổi bật xúc cảm của người nghệ sĩ trước nỗi cô đơn v́ cảm nhận vẻ Đẹp mê hồn mà nhân gian không thể hiểu được. Cường độ cảm xúc trong phân khúc này, về mặt bố cục, khá gần với đoạn Kiều tâm sự với em trước lúc từ giă gia đ́nh lên đường về Lâm Truy. Hoà âm của Duy Cường đầy tính tưởng tượng khi tận dụng khả năng gợi tả của tiếng sáo Mèo xa vắng ch́m lẩn như chiều sâu của thế giới nội tâm sừng sững thách đố cuộc đời chung quanh.
TRĂNG SAO RỚT RỤNG
HỒN LÀ AI
Nghệ thuật phát triển h́nh tượng âm nhạc trong phần 2 này là nghệ thuật ba lan; cảm xúc dâng lên từng đợt như sóng tràn. Không gian nghệ thuật là đêm tối mênh mang. Giai điệu và hoà âm đều đẫm vẻ ma quái. Nhạc đề rất nhất quán ở điểm thể hiện tâm trạng người nghệ sĩ. Anh ta cảm nhận tiếng gọi vô h́nh của cái Đẹp thể hiện ở ánh trăng. Vẻ đẹp mê hoặc của ánh trăng hay của nàng thơ hay của âm nhạc nào có khác chi những cơn say đắm xuất thần của HMT. Diễn đạt được tâm sự nghệ sĩ qua h́nh tượng âm nhạc là một thành công của Phạm Duy (mà cũng có phần không nhỏ của Duy Cường trong nghệ thuật hoà âm).
TRÚT LINH HỒN
PHẦN III .- AVE MARIA cũng gồm các phân khúc số 7, số 8 và số 9: Phân Khúc 7 là một lời xưng tụng đấng tinh truyền thánh vẹn. Nhạc bắt đầu bằng đoạn hợp xướng nghiêm trang, thánh thiện. Toát ra toàn thể phân khúc là vẻ đẹp thuần khiết của h́nh tượng người nữ trong nghệ thuật muôn đời. Nhà thơ cũng như người nhạc sĩ đều rung động nồng nàn trước vẻ Đẹp nguyên mẫu đó. Trong thế giới nguyên vẹn tinh tuyền chỉ c̣n sự yêu thương, sự yên nghỉ. Không c̣n những dằn xóc của những hệ lụy của cuộc đời dưới thế. Kĩ thuật đồng ca của nhạc cổ điển tây phương đă góp phần tăng tính cách thánh đường của phân khúc.
LẠY BÀ LÀ ĐỨC TINH TUYỀN
THÁNH VẸN
Người nghệ sĩ Phạm Duy hát về Mẹ bao lần rồi, vậy mà những âm thanh về người Mẹ trong phân khúc này vẫn quyến rũ, vẫn mới nguyên như vẻ đẹp gặp gỡ lần đầu, giai điệu láy lả lướt vẻ đẹp dân ca đă khép lại cảm xúc ḱ lạ về sự thanh thoát an nhiên trong ṿng tay yêu thương của sứ thần thiên chúa Gabriel. Nghệ thuật diễn tả trong phân khúc hai là nghệ thuật độc thoại khá quen trong đối thoại nội tâm của kịch: nhân vật th́ thầm những lời nói với chính ḿnh. Hành âm của nhạc ở phân khúc này cũng ch́m khuất kín nhiệm như ư thơ.
HỠI SỨ THẦN THIÊN CHÚA
GABRIEL
PHƯỢNG TR̀ ÔI PHƯỢNG TR̀
Trọn phần ba là bài thơ Ave Maria được phổ thành nhạc.
Không gian âm nhạc vẫn là nhạc nocturne nhưng tính cách đă thay
đổi hẳn qua mầu sắc ấm áp của ánh sáng. Nhạc đề là sự xưng tụng biểu
tượng của vẻ Đẹp thánh thiện thuần khiết được thể hiện qua h́nh tượng
Người Nữ nguyên mẫu: khi th́ là Đức Bà tinh truyền thánh vẹn, có lúc hoá
thân làm sứ thần Gabriel, rồi Phượng Tŕ (Âm thanh của tên gọi này sao
cứ làm ta liên tưởng đến h́nh ảnh toàn bích của người đẹp có đầy đủ Long
tŕ và Phượng các trong tử vi). Nghệ thuật thể hiện là nghệ thuật nhạc
nhà thờ, vừa đồng ca, vừa độc thoại. Bao trùm toàn thể phần ba này là vẻ
đẹp rực rỡ mà tâm hồn nghệ sĩ quay về nương náu trong sự b́nh yên của
hạnh phúc trong thế giới nguyên tuyền thanh khiết. Trường ca HMT đă thể hiện tài t́nh những diễn biến tâm t́nh của nhà thơ quá cố: từ chất thơ trong sáng buổi đầu, nhà thơ đă trải qua những cơn đau đớn quằn quại trước khi quay về yên nghỉ trong vẻ Đẹp mầu nhiệm thanh khiết của Phượng Tŕ là hiện thân của vẻ Đẹp nữ tinh truyền thánh vẹn. Đấy là hành tŕnh thơ HMT, mà cũng là hành âm của trường ca HMT của Phạm Duy.
Hành Tŕnh Thú Đau
Thương
Trong lời dẫn giải về tác phẩm TCHMT, Phạm Duy cho
biết rằng ông đă từng làm quen với thơ HMT từ thuở c̣n đi học. Ông cảm
được những nếp gấp tâm t́nh của nhà thơ này khi nêu ra những chủ đề
chính trong thơ HMT: t́nh yêu, t́nh dục, sự đau khổ, sự đau thương,
sự điên dại, cái chết, Đạo, Thượng Đế, Thiên Chúa... (3) Bảng liệt
kê vừa kể thật ra chưa nói đủ hết mối đồng cảm sâu sắc của ông đối với
nhà thơ quá cố. Phải nghe chính tác phẩm mới có thể nhận ra được rằng
TcHMT là bản vẽ sâu sắc bản đồ tâm hồn thơ HMT. Bố cục của TCHMT thể hiện khá rơ về những biến chuyển trong tâm sự thơ HMT từ tập thơ đầu (GÁI QUÊ) đến giai đoạn THƠ ĐIÊN - ĐAU THƯƠNG, và cuối cùng là thời kỳ sáng tác XUÂN NHƯ Ư trở về sau. Ba giai đoạn chính trong hành tŕnh sáng tạo thơ HMT với những nội dung khác nhau, phản chiếu tâm hồn người thơ một cách sinh động và độc đáo.
Có thể phác lại nét chính của con đường thơ HMT được phác họa qua trường ca của Phạm Duy như sau: 1) thời thanh xuân lăng mạn đẹp ngời (T̀NH QUÊ) --> 2) thời điên loạn, đau đớn v́ thể nghiệm nỗi đau thương của thân phận (TRĂNG SAO) --> 3) thời t́m lại được yên ổn tâm hồn trong thế giới của cái Đẹp vĩnh hằng (AVE MARIA). Cứ thế, nhạc đề phát triển từng đợt ba phân khúc như những lớp sóng xô cao thấp khác nhau. Con đường thơ của HMT thể hiện khá sinh động tâm hồn người nghệ sĩ giữa đời.
Con tim yêu thương bao la của người nghệ sĩ rung lên
những nhịp điệu t́nh ca muôn vẻ của thơ t́nh. Không biết có ai phân tích
hết những dáng vẻ của t́nh yêu trong thơ HMT hay chưa, nhưng Phạm Duy đă
thể hiện khá đẹp những nét lớn của t́nh yêu trong thơ HMT: sự dâng hiến
trọn t́nh, sự e ấp trộn lẫn với nỗi rạo rực, nỗi đắm say trước vẻ Đẹp
hiện thân của t́nh yêu. Có thể nhận ra những dáng vẻ t́nh yêu đó trong
thơ HMT khi thưởng thức phần một TcHMT. Con tim yêu thương của người
nghệ sĩ phả vào cuộc đời xă hội bằng những mối t́nh người tặng cho những
người yêu dấu chung quanh. T́nh yêu ấy đọng lại trong TCHMT là t́nh yêu
ông dành cho đất nước quê hương là nơi bóng h́nh những người ông thương
mến, là t́nh yêu ông dâng tặng vẻ Đẹp nguyên trinh qua h́nh tượng Phượng
Tŕ/sứ thần Gabriel/Đức Bà. Thế nhưng người nghệ sĩ có trái tim vô số mà anh ta không chỉ dành tặng cho những người yêu dấu trong đời. Trong đáy sâu thẳm của con tim, người nghệ sĩ luôn cảm thấy có một lời th́ thầm vượt lên khởi b́nh diện nhân gian. Ở đây cần nhắc lại một bài viết của HMT thường vẫn bị các nhà nghiên cứu bỏ quên khi muốn t́m hiểu về tâm sự thơ ông. Trong bài viết về Quan niệm thơ, HMT cho thơ là tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ, ước ao trở lại trời, là nơi đă sống ngàn kiếp vô thỉ, vô chung, với những hạnh phúc bất tuyệt.
Nói cách khác, thi sĩ đă sống cô độc đời ḿnh giữa
cuộc thế lao xao, và làm thơ là để t́m người tri kỷ. Làm thơ là một sự
ham muốn vô biên của những nguồn khoái lạc trong trắng của một cơi trời
cách biệt (4) . Người nghệ sĩ thoáng nghe ra những tiếng nói mầu nhiệm
vượt lên khởi chiều kích trần thế. Sự nhạy cảm tột cùng dẫn đưa con
đường sáng tạo của người nghệ sĩ qua những cơn loạn lạc với thú đau
thương. Đó có thể là nỗi ngậm ngùi về những hoang phế quạnh hiu của
những thành quách cũ (Vũ Đ́nh Liên, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương), đó
cũng có thể là những lời độc thoại triền miên của người t́nh trẻ bên đời
hiu quạnh (Trịnh Công Sơn), của người t́nh già nghe tiếng gọi ngh́n thu
(Phạm Duy). Thế th́ tại sao không có một HMT điên mê trong nỗi đau đớn của thân phận vui buồn của nhân gian mà ông tự cho ḿnh là một đại biểu? (Ư nghĩa của trường thơ Loạn mà HMT và các bạn ông dựng lên dường như chưa được t́m hiểu, nhưng chúng tôi cho rằng sự nổi loạn của thế hệ nhà thơ trẻ Qui Nhơn lúc bấy giờ là dấu chỉ của một khao khát về một sự quân b́nh mới). Nỗi đau về phận người khổ nhục có khiến thơ ông đẫm máu lệ, vang vang nỗi đau hận pha lẫn với hoan lạc trong t́nh yêu thánh hóa.
Thơ điên của HMT phản ánh nỗi bi phẫn về phận người khốn khó, mà sự đau khổ của đời này th́ muôn h́nh vạn trạng, người nghệ sĩ đau nỗi đau nhân thế và mang thập giá thay cho chúng ta, có phải đâu chỉ là người ca nhân làm mơ cho những mối t́nh đôi lứa như người đời vẫn nghĩ. Một nhân vật của Dostoievsky đă bảo rằng: cả trái đất, từ vỏ vào trong ruột, đều ướt đẫm nước mắt con người. Thế nên khi người nghệ sĩ hát về nỗi đau đớn của kiếp nhân sinh hoặc giả cảm nhận được tiếng hát ngh́n thu nơi đầu non th́ chẳng phải là lúc người nghệ sĩ đă xa cách đại quần chúng, trừ phi đại quần chúng muốn giam hăm nghệ sĩ như giam những tên tù trong vũng lầy nghệ thuật nô dịch.
Gần đây khi nhận định về một số tác phẩm mới của Phạm
Duy, có người nghĩ là ông đă dần tách khởi vị trí của người nhạc sĩ của
đại chúng, hiểu theo nghĩa là ông không c̣n hát về những vui buồn của
nhân thế gần gũi: hát về quê hương dân tộc, về những mối t́nh rất riêng
tư trong không gian sống của những thị dân. Nếu nghĩ rằng Phạm Duy nay
đang lui dần về sáng tác những tác phẩm để riêng cho ông bởi v́ không có
bóng dáng những h́nh ảnh quen thuộc trong các ca khúc bao lâu nay th́
cũng xin lưu ư là đă từ những ngày xa xưa, khi c̣n trẻ Phạm Duy cũng đă
từng có những bài hát mang chủ đề hướng nội. Người thanh niên ấy đă từng
nghe ra tiếng gọi huyền nhiệm từ sâu thẳm của nội tâm. Tiếng đời nào
phải chỉ có tiếng t́nh yêu mà c̣n có tiếng gọi của thinh không (Lữ
Hành), cảm nhận về những biên giới cắt chia con người trong những
không gian tâm tưởng khác nhau (Bên Cầu Biên Giới)...
Cho nên Phạm Duy vẫn chỉ là một thôi dù là Phạm Duy
của T́nh Ca, của Cỏ Hồng, của Pháp Thân, của
Ngục Ca, của Bài Hát Ngh́n Thu, của thiền khúc Hát Trên
Đường Về, hay của Trăng Sao Rớt Rụng. Có thế mới có thể có
mối đồng cảm giữa hai người nghệ sĩ với những thân phận riêng tư rất
khác nhau nhưng cũng rung những cung bậc tâm hồn trước những hoan lạc
cùng những khổ nhục của kiếp người. Nghệ thuật, nói cho cùng, chỉ là
những tiếng kêu bất b́nh của người nghệ sĩ trước những hệ lụy của cuộc
đời. Đôi mắt người nghệ sĩ là đôi mắt nh́n sâu thẳm vào phận người. Một
thời vàng son của đào nguyên đă vĩnh viễn xa rồi ư, đời ta chỉ c̣n là
một chuỗi những ngày nơi trần gian khổ lụy (Văn Cao), hát như chưa biết
buồn phiền chi dù đường về quê nhà đă xa, nơi thành cổ rêu mốc của đời
ta vẫn đi về một cơi quạnh hiu và hai vầng nhật nguyệt trĩu hai vai (Trịnh
Công Sơn).
TcHMT là tiếng hát của người nghệ sĩ về những ràng
buộc của cuộc đời, là sự thăng hoa giữa những khổ đau và hạnh phúc của
phận người thành âm nhạc và thơ. Ba phần của trường ca là ba dáng vẻ của
cuộc đời được phả vào nghệ thuật, trong đó có t́nh yêu sôi nổi mà e ấp
của một thời hoa niên lăng mạn, có những khổ nhục của một đời lận đận v́
những dằn xóc khác nhau.
Trước nỗi khổ mang chất bi kịch của đời người, người
ta có thể phản ứng một cách khác nhau: có người an nhiên lặng lẽ đi về
một cơi quạnh hiu và chấp nhận hạnh phúc trong niềm tuyệt vọng (Trịnh
Công Sơn), có người không nguôi hoài tưởng một thiên thai không bao giờ
trở lại (Văn Cao), có người lại dấn ḿnh sống rất hiện sinh với chính
những vinh nhục của đời và bật lên những tiếng tâm t́nh trước mọi cảnh
huống. HMT và Phạm Duy đồng cảm với nhau ở điểm này. TcHMT là tác phẩm
nghệ thuật thăng hoa những đau thương khổ nạn của đời người.
Hành tŕnh nghệ thuật của HMT bắt đầu từ những hoa
mộng thời trẻ hồn nhiên đến những đau khổ điên loạn v́ những nhục nhằn,
và khép lại với t́nh yêu thanh khiết trong thế giới vĩnh hằng trong suốt
một vẻ Đẹp tinh tuyền. Nhạc Đề phát triển nhất quán với chủ ư HMT khi
nhà thơ biểu tượng Maria bằng những tiếng gọi khác nhau: Đức Bà tinh
truyền thánh vẹn, sứ thần thiên chúa Gabriel, Phượng Tŕ. Ngôn từ ở đây
chỉ là những chiếc bè giả tạm để chuyên chở một cảm nhận về một thế giới
vĩnh cửu của Mỹ thể.
HMT về yên nghỉ trong tôn giáo hay nghệ thuật? Vô
thức về người nghệ sĩ trong Phạm Duy đă nghiêng về xu hướng thứ hai khi
ông đă không phổ nhạc bài Ave Maria theo cách nh́n của ông lúc
ông phổ thơ Phạm Thiên Thư trước đây: vẻ đẹp quyến rũ trong thơ Phạm
Thiên Thư là sự nguyên trinh thánh thiện, là vẻ đẹp trong thế giới nghệ
thuật trong đó không gian và thời gian như không c̣n tuổi trong cơi
tuyệt đối vô cùng. Phạm Duy đă chẳng nói là những bài ông phổ thơ Phạm
Thiên Thư là những bài hát thanh cao nhất của thời đại đấy ư (4) ? Hát
lên tiếng hát xưng tụng một thiên thần là cách thế của người nghệ sĩ
xưng tụng cái Đẹp. Mỹ thể là điểm đi tới và cũng là điểm quay về của
Nghệ thuật. Phạm Duy tâm sự rằng nguyên ủy của ư định sáng tác TcHMT là: ông muốn tiếp tục nói tới chuyện hóa giải nỗi oan khiên to lớn của cuộc đời Việt Nam sau nửa thế kỷ chiến tranh và hận thù bằng con đường đi vào Đạo để siêu hóa mọi sự (6). Hiểu như thế th́ HMT cũng là một biểu tượng của thân phận VN, và những biến chuyển tâm t́nh của HMT là điển h́nh cho bi kịch trong đời người VN chúng ta trong một thời oan khổ dài dằng dặc. Âu cũng là một cao vọng đáng trọng của người nhạc sĩ già. Nỗi trăn trở của Phạm Duy về đất nước gần đây được tô đậm nét qua một trường ca gây nhiều xúc động (BẦY CHIM BỎ XỨ - 1990). Ta cũng bắt gặp trong một trang viết, ông cũng đă có lần trăn trở về thân phận nhục nhằn của người trí thức VN chứ chẳng phải không (7). Nhưng cứ như sự phát triển của chính nhạc đề của TcHMT th́ ư nghĩa của tác phẩm đă tự nó có sức nặng của một tác phẩm nghệ thuật phản ánh rất đậm những cảm xúc về phận người biểu hiện qua thân phận một nghệ sĩ. Phạm Duy có nhớ không những lời ông viết về chính ḿnh khi ông sáng tác TcMHT: đối với tôi chỉ có ba điều quan trọng: t́nh yêu, sự đau khổ và cái chết (8)? Tôi muốn thêm: hận thù, hạnh phúc và vĩnh cửu.
Một Tác Phẩm Thơ Phổ
Nhạc Lớn
Trong kho tác phẩm đồ sộ của Phạm Duy, thơ phổ nhạc
có một vai tṛ rất đáng kể. Phải nhận rằng nhạc của ông đă làm bất tử
một số những bài thơ, và ngược lại thơ đă gợi hứng cho ông viết những
giai điệu mượt mà quyến rũ nhiều thế hệ người nghe. TCHMT là công tŕnh
thơ phổ nhạc rất khác với những bài trước đây thường chỉ là những đoản
khúc hoàn chỉnh riêng rẽ, dù có đặt chúng vào một tập hợp như Đạo Ca,
Ngục Ca, Hoàng Cầm Ca. Một công tŕnh dài hơi và dài ngày, nếu cứ
tính từ khi lần đầu tiên bài T́nh Quê xuất hiện như một phụ bản
trong tập san THẾ KỈ HAI MƯƠI (1960) tại Sàig̣n.
Ngoài Phạm Duy ra có Hải Linh và Viết Chung trước đây
cũng phổ nhạc HMT, mỗi người một phong cách khác nhau. Nhưng cũng chỉ
với Phạm Duy rất đáng chú ư v́ tính cách đa dạng và thể hiện một phong
cách đặc biệt. Trong TCHMT, có đủ các kỹ thuật phổ nhạc mà Phạm Duy
thường vẫn sử dụng: lắp giai điệu vào lời thơ, biến thể các giai điệu để
phát triển nhạc đề, và chuyển ư thơ thành điệu. Kỹ thuật lắp giai điệu
và thủ pháp quen thuộc thường thấy ở thơ phổ nhạc: Bài Chiều Đông
phổ nguyên lời bài thơ Khoác Kín của Cung Trầm Tưởng là một thí
dụ. Phải nói ngay là Phạm Duy rất hiếm khi phổ nguyên lời thơ của toàn
bài, v́ đ̣i hỏi của cấu trúc câu nhạc cũng có mà v́ sự chọn lọc lời ca
của ông cũng có. V́ vậy, bài thơ phổ nhạc của Phạm Duy thường phong phú
về giai điệu và nhạc đề nhờ ở nghệ thuật gây ấn tượng qua những kết hợp
kỹ thuật khác nhau. Bài thơ phổ gần như nguyên vẹn trong TCHMT là Đây thôn Vĩ Giạ (gồm có ba khổ thơ thất ngôn) thật ra cũng phải tôn trọng cấu trúc của bài hát mà kết cấu như sau: đoạn một của bài hát gồm khổ một và khổ hai, đoạn hai gồm khổ một và khổ ba. Sự láy lại khổ thơ là một nghệ thuật gây ấn tượng bằng sự láy lại nhạc đề của phân khúc này. Kỹ thuật biến thể các giai điệu để phát triển rộng nhạc đề là thủ pháp đă được dùng trong khi phổ bài T́nh Quê. Ông đă bố cục bài hát làm hai đoạn lớn có giai điệu không xa nhau lắm và nối chúng lại với nhau bằng bản lề rất khéo là hai câu thơ ngũ ngôn trong bài thơ nhưng đă phổ thành hai biến điệu khác nhau cho phù hợp với âm hành của câu nhạc. Sự tṛng tréo các giai điệu trong hai đoạn có tác dụng nghệ thuật đặc sắc cho bài hát. Kỹ thuật mà Phạm Duy thường sử dụng là kỹ thuật chuyển ư thơ thành giai điệu.
Đây là một kỹ thuật đ̣i hởi khả năng thưởng ngoạn văn
học ngơ hầu có thể nắm bắt được ư của câu đoạn hay cả bài thơ để chuyển
thành giai điệu. Phạm Duy đă sử dụng kỹ thuật này mà hoàn thành những
tác phẩm bất hủ như Tiếng Sáo Thiên Thai, Vần Thơ Sầu Rụng, Hoa Rụng
Ven Sông... trong TcHMT, phần phổ nhạc nhóm bài thơ về Trăng là phần
rất công phu nhờ sự biến ảo của giai điệu theo nhịp điệu phù hợp với tâm
trạng trong thơ. Phạm Duy đă tổ hợp các bài thơ khác nhau theo một thứ
tự do ông thiết định để làm bật lên trạng thái tâm hồn của nhà thơ trong
phân khúc này. Không có được khiếu thưởng ngoạn thi ca sâu sắc th́ không
thể có được những bản thơ phổ nhạc như thế. Cứ so sánh lối tiếp cập của
Hải Linh và Phạm Duy khi phổ bài Ave Maria sẽ thấy ngay phong cách Phạm
Duy: ông tước bỏ đoạn đầu của bài thơ mà Hải Linh đă dùng để phát triển
nhạc đề cho bài hợp xướng Ave Maria giầu tính cách tôn giáo:
Như song lộc triều nguyên ơn phước cả...
Phong cách phổ nhạc ở đây đă phản ánh phong cách
người nhạc sĩ. Bao trùm lên các kỹ thuật vừa kể là nghệ thuật gây ấn
tượng qua sự nhấn mạnh nhạc đề. Đây là điểm đặc sắc của nghệ thuật sáng
tác Phạm Duy. Bài Đà Lạt Trăng Mờ chẳng hạn, đă láy đi láy lại
nhiều lần nhạc đề bài hát. Ta t́m thấy lại nghệ thuật ấy trong tất cả
các phân khúc của TcHMT. Ấn tượng về câu nhạc được tô đậm trong trí
người nghe là nhờ những sự nhấn mạnh nhạc đề như thế. Điều kỳ diệu là
những câu hát được tô đậm bằng sự láy lại đă không hề tạo ấn tượng nhàm
chán. Làm sao nắm bắt được nhạc đề của bài thơ phổ nhạc, hoàn toàn thuộc
về sự bén nhạy của tư duy nghệ thuật của Phạm Duy. Nếu những bài thơ hay
là những bài thơ có thần th́ những câu thơ phổ nhạc của Phạm Duy trong
TcHMT cũng có thần của chúng, tạo nên khí vị nhất quán khi nghe riêng
từng bài hay lúc nghe toàn thể chín phân khúc. Ma lực cuốn hút của những
phân khúc thơ phổ nhạc TcHMT là ở những đợt sóng cảm xúc xô đẩy tới lui
như những đợt sóng khác nhau dào dạt đuổi bắt không ngừng. TcHMT là một dấu mốc đặc biệt trong sự nghiệp sáng tác của Phạm Duy. Nếu thơ phổ nhạc nói chung đă là một gạch nối đặc biệt giữa văn học và nghệ thuật âm nhạc th́ TcHMT c̣n có ư nghĩa một phác họa chân dung của một nhà thơ bằng âm nhạc. Giá trị của tác phẩm như vậy là đa dạng. Hăy chỉ nh́n tác phẩm trong địa hạt âm nhạc thôi, TcHMT cũng là một công tŕnh đồ sộ: giai điệu phong phú, ḥa âm tân kỳ, giọng hát nhă luyện. Tác phẩm để lại dư vị ngất ngây và những bâng khuâng không dứt về thân phận người thi sĩ quá cố mà cũng là của mỗi chúng ta. Đạt được như thế không thể không có một khí lực âm nhạc dữ dội.
London, tháng 6, 1994
----------------------------------
_________________
Chú của a2a : Trường ca Hàn Mặc Tử của nhạc sĩ Phạm Duy do Phương Nam Film phát hành vào 10.2011.
|