Tôi phân vân khi chọn cái tựa cho bài tùy
bút này. Tết nhà tôi? Tết
Phan Thiết?
Quê hương tôi là Phan Thiết. Cả nội và ngoại
đều là gốc Đại Nẩm, không biết bao nhiêu đời.
Đại Nẩm, một làng quê cách thành phố Phan
Thiết mười lăm phút đi bộ cho đôi chân trẻ
con vừa đi vừa chạy trong nỗi lòng náo nức
về nhà nội để coi chừng trái ổi mình nhìn
thấy hồi ba ngày trước đã ửng chua chưa, có
bị thằng Ba Tèo con Hai Ròm hái chưa. Một
làng quê không người khoa bảng, không biết
đói kém, hiền hòa ẩn mình dưới vườn cây trái
xanh mướt quanh năm. Một làng quê sanh dưỡng
những thiếu nữ đẹp nổi tiếng của Phan Thiết.
Gái Đại Nẫm! Tôi hãnh diện về cái cội nguồn
này của tôi, cội nguồn chín mươi chín phảy
chín mươi chín phần trăm Phan Thiết. Suy đi
nghĩ lại về đường ăn Tết của gia đình tôi,
một cảnh Tết mang sắc thái chung chung của
Tết Phan Thiết mặc dù mỗi gia đình có một
cách chuẩn bị Tết riêng và cách hưởng Tết
cũng khác nhau. Nhưng đó là những dị biệt
rất nhỏ, rất tỉ mỉ, không thể làm mất đi cái
Tết đặc biệt chung của người Phan Thiết
chúng tôi. Cho nên tôi mạnh dạn chọn cái tựa:
Tết Phan Thiết.
Gia đình tôi nửa quê nửa thành. Nhà ở phố Ba
Mươi Căn, đường Hải Thượng Lãn Ông, đường
nối từ Đại Nẩm, Phú Hội để xuống chợ Lớn,
trên đường nối từ làng quê đến thị thành.
Nội gốc Đại Nẩm trên, ngoại gốc Đại Nẩm dưới,
ba tôi làm việc ở bên phố, cho nên cách ăn
Tết của gia đình tôi cũng mang cái chất nửa
quê nửa thành đó, không giống như những nhà
ở Đại Nẩm mà cũng không giống như nhà mấy
đứa bạn cùng lớp ở bên chợ. Thêm vào đó công
việc làm ăn của má tôi đã tạo cho bà cơ hội
để chuẩn bị những cái Tết cho gia đình thật
chu đáo, đã cho chúng tôi những cái tết nhớ
đời. Cho đến khi gia đình vào Sài Gòn lập
nghiệp, chúng tôi mới biết tiếc những cái
Tết khi còn ở Phan Thiết. Mặc dù trong thời
gian ở Sài Gòn, má tôi cũng kho măng khô,
cũng gói bánh tét, cũng được bà ngoại đem
cốm vô cho và gia đình đầy đủ nhưng những
cái Tết ở Sài Gòn mang không khí chấp nối
nửa nạc nửa mỡ, không thể nào so sánh được
với những ngày Tết ở Phan Thiết. Các em
trưởng thành ở Sài Gòn thường phân bì với
anh chị lớn khi chúng tôi nhắc đi nhắc lại
ngày những ngày Tết xa xưa nơi quê nhà Phan
Thiết với tất cả nuối tiếc tìm kiếm. Và bây
giờ, mỗi năm tôi cố gắng chuẩn bị cho các
con tôi vài ngày vui xuân nơi xứ người càng
làm lòng tôi quay quắc, nước mắt cứ chực rơi
vì cái gượng gạo giả tạo lẫn quẫn chân tôi,
vì bước chân lang thang tìm về những ngày
ngập nắng xuân xưa lảo đảo chơ vơ.
Bắt đầu tháng chạp, má mua chừng chục con
vừa vịt vừa gà để nuôi cho mập ở sau nhà. Má
tôi bắt đầu đặt bánh tráng, loại bánh tráng
mè đen không dầy không mỏng để nhúng ướt ăn
với măng khô kho. Sau đó là bà đặt mấy mối
hàng lúa của bà ở Ngã Hai hay Phú Hội rang
lúa nếp thành cốm trắng, gọi là nổ. Thường
khoảng hai mươi tháng chạp, người ta đã chở
hai bao bố nổ trắng nhẹ tênh đến nhà. Và dĩ
nhiên là chúng tôi lén lén ăn vụng, vốc từng
nắm nổ trắng thơm thơm beo béo bỏ trọn vô
miệng, ngốn ngáo nhai mau. Lần xay lúa cuối
cùng trước khi nghỉ Tết để giao gạo cho bạn
hàng, má tôi cũng cho xay chừng một xe nếp
để bán và để dành gói bánh tét, làm cơm rượu.
Bắt đầu từ hai mươi tháng chạp, đường Hải
Thượng Lãn Ông nhộn nhịp hẳn lên vì những
nhà vườn ở Phú Hội, Đại Tài và Đại Nẫm gánh
những gánh chuối xứ mập tròn, những gánh
bưởi to xanh còn đủ lá cành, những gánh cam
xanh hấp dẫn, những gánh rau xanh tươi xếp
chất thật đẹp, những gánh rau cải nặng trĩu
về chợ Lớn để họp chợ đêm. Chúng tôi ngoài
giờ học là la cà ngoài đường cả ngày để như
hòa nhập vào cái nhộn nhịp tưng bừng của mấy
ngày trước tết. Không làm gì hết. Ngồi đong
đưa hai chân trên bậc thềm trước nhà để
chiêm ngưỡng những gánh trái cây, rau cải
tươi mát sặc sỡ đó, để ngắm những gánh hoa
cúc trắng vàng, hoa thược dược đủ màu sắc,
hoa vạn thọ vàng tươi, hoa mồng gà đỏ thắm
của các chị từ quê gánh xuống. Các chị mà
chúng tôi tự cho mình là dân thành phố văn
minh và đặt cho các chị cái tên mấy chị ”Le
NhaQue”, cái từ ” Le Nhaque” chúng tôi học
từ ”Tuấn Chàng Trai Nước Việt” của Nguyễn Vỹ.
Sở dĩ chúng tôi gọi các chị ”Le Nhaque” là
vì mấy chị này chỉ mặc toàn áo bà ba màu
hồng nha que chói chang, màu xanh lá cây nha
que tươi rực rỡ, màu vàng nha que gay gắt...
Các anh, các chú đèo những cành mai nụ còn
xanh non trên chiếc xe đạp cọc cạch xuống
chợ bán. Nhiều người từ bên phố lên tận
đường Hải Thượng Lãn Ông để chận mua những
chậu bông tươi đẹp, những cành mai uống cong
cầu kỳ và trái cây xanh tươi.
Cũng trên con đường Hải Thượng Lãn Ông này,
nơi cung cấp mứt me cho các hàng bánh mứt
toàn Phan Thiết. Đầu tháng chạp, đi ngang
mấy căn nhà gần chợ Gò, dấu hiệu mùa Tết
được nhắc nhở bằng quang cảnh các dì ngồi
trên ghế đẩu thấp trước nhà, tỉ mỉ dùng con
dao nhỏ, nhọn, khéo léo gỡ từng mảng vỏ me
xanh. Bên cạnh các dì là mấy cái thau nhôm
lớn có những trái me dài, dẹp, trần trục ngà
ngà nằm xếp lớp dưới nước trong vắt ngập đầy.
Mứt me là loại mứt mắc tiền nhất vì đòi hỏi
nhiều công phu lắm tiểu xảo. Thứ nhất: Phải
là loại me ván chua, lớn dài, dẹp, vừa già,
nghĩa là hàng hột me vừa cứng nhưng thịt me
vẫn còn dòn non và lớp vỏ xanh còn dai nên
phải ngâm qua đêm mới lột được. Thứ nhì: Khi
lột vỏ me, phải dùng con dao nhỏ bén nhọn,
tỉ mỉ gở từng mảng vỏ, gở thật cẩn thận để
có được trái me trần láng mướt và những
đường dây chạy dài theo trái me cũng như
cuống me vẫn nằm nguyên vị trí của nó. Thứ
ba: Cũng dùng con dao nhỏ bén nhọn đó, đôi
tay khéo léo xẻ dọc bề trái me cong vào, lấy
từng hột me, lấy cả lớp cưng cứng bao quanh
hột me. Thứ tư: Khi xâm me, phải xâm nhè nhẹ,
đều tay để chắt bớt chất chua ra mà trái me
vẫn còn nguyên vẹn. Thứ năm: Để chất đường
thấm từ từ mà trái me không bị chín nhừ, khi
rim me phải trở nhè nhẹ, dùng muỗng múc nước
đường rải lên từng trái và nhất là lửa riu
riu, phải tính từ hai đến ba tiếng đồng hồ
cho một chảo me rim. Thứ sáu: Chất đường
ngọt hòa với chất me chua nên khi chảo đường
đã cạn mà trái me vẫn mềm dẻo nên phải phơi
vài nắng. Thứ bảy: Dùng giấy kiếng trắng
rộng độ ba centimet, quấn quanh trái me,
quấn dần từ đầu xuống tới cuống. Năm nào hên
lắm, má tôi đặt vài ký mứt me để dành đãi
khách, nhưng chắc chắn là khách chẳng được
hưởng nhiều vì khi kể thành tích thì chúng
tôi, năm đứa lớn, đứa nào cũng lén cuỗng
được ít nhất vài trái, nhai ngấu nhai nghiến,
mút sạch mấy cọng dây mỏng và cái cuống ngắn.
Ôi… vừa chua, vừa ngọt, vừa dẻo, vừa sừn sựt.
Nhất là sau khi thi xong cái kỳ thi đệ nhất
lục cá nguyệt, thường khoảng ngày rước ông
Táo, sau lễ Tất Niên là chúng tôi được tự do
la cà cả ngày ngoài đường, ba chẳng hề la,
má chẳng thèm cấm. Thỉnh thoảng ông ngoại
hay bà nội gởi những người gánh hàng xuống
chợ, mang cho chúng tôi rổ trái cây vụn vặt,
là cả một hạnh phúc cho mấy đứa trẻ thèm ăn.
Và không cần ba má cho phép, trái cây của
ông ngoại, bà nội cho là đương nhiên của đám
con, được chị Hai Cao chia đều, ngấu nghiến,
chớp nhoáng! Chúng tôi thường hay chấm điểm
và cho giá những cành mai tươi, uốn cong
thật mỹ thuật, thán phục những ông đón mua
mai biết lựa mai, biết chi tiền. Chúng tôi
cũng để ý là mấy ông là thường đến khu phố
Ba Mươi Căn để đón mua mai, mua bông chứ
không mua trái cây rau cải. Tết là cảnh
hưởng thụ cho mấy ông, còn chuyện lo ăn lo
uống là chuyện của mấy bà. Đương nhiên!
Không ai cằn nhằn phân bì. Không! Không đúng
lắm, mấy ông phải lau cặp chân chân đèn, cái
lư nhang cho bóng loáng, lựa mua phong pháo
cho nổ thật to và dòn vì nếu năm đó pháo nổ
lẹt đẹt là bị bà vợ cằn nhằn: ”Ông lựa pháo
lẹt đẹt không biết năm nay nhà mình làm ăn
có nên nổi không”, và canh nồi bánh tét ngày
ba mươi.
Nhà tôi có tục lệ là được tiền lì xì
hai lần. Lần thứ nhất vào khoảng hai mươi
bảy, lúc mà chợ đêm tấp nập nhất, má đã xay
xong phiên lúa cuối cùng trong năm. Má lì xì
cho tất cả sáu đứa con để đi chợ đêm, tự do
ăn hàng, tự do mua sắm. Không nhiều lắm, tôi
nhớ là chỉ đủ ăn chén chè, tô bánh canh chả
cá thu, mấy bịch kẹo bòn bon chua chua ngọt
ngọt, mua cái khăn thêu, mua cái bóp có hình
cô đầm, mua mấy cuộn pháo tép để lấy cục đá
đập nổ chét chét… Chỉ vậy đó mà làm chúng
tôi chờ đợi ngày này cả tuần, chờ từ khi chợ
bắt đầu nhóm ban đêm. Mấy ngày nay đi rảo
chợ đêm quanh vườn bông dưới dốc cầu gỗ lớn
mà không có một đồng dính túi, thấy cái gì
cũng thèm, thấy cái gì cũng ước. Cái sung
sướng khi được tiền trong những ngày trước
Tết này tôi không thể nào tả được, chỉ biết
là má tôi rất sành tâm lý con nít, tiền
trong mấy ngày Tết không có giá trị bằng
tiền trong những ngày chợ đêm. Còn quần áo
mới thì má tôi đã đặt may từ tháng mười một,
cho rẻ! Năm nào cũng vậy, mỗi đứa một bộ để
đi học, một bộ đồ bộ mặc ở nhà, một đôi dép
Nhật, hai người chị lớn thì được đôi guốc
trắng quai trong.
Từ khoảng ngày hai mươi tháng chạp, tối nào
nhà tôi cũng rộn ràng. Cắt rễ củ kiệu, lột
lớp vỏ ngoài, ngâm nước tro, để đó qua đêm.
Kiệu cay, mấy chị em đứa nào cũng tránh né,
chị Hai Cao lãnh đủ. Đúng là thân phận người
làm! Sau đó củ kiệu được phơi một nắng rồi
xếp thật đẹp trong mấy cái hủ sành đã rửa
sạch, đã phơi khô, ép chặt, chế nước pha với
đường, dấm, chút muối, chút hàng the. Để đó,
không được dở nấp trước ngày mồng một. Cà
rốt và củ cải trắng trông them ngon mắt nhờ
bàn tay khéo léo của chị Hai chị Ba cắt tỉa
hình hoa, hình thú vật. Má chờ đến khoảng
hai mươi sáu làm một hủ và hai mươi tám làm
thêm một hủ nữa để có ăn suốt bảy ngày Tết
mà củ cải không bị chua quá.
Mứt dừa, mứt gừng, mứt gừng dẻo, mứt khế,
bánh đậu xanh, bánh bột năng là phần của chị
Hai, bà chị khéo léo nhất nhà và cũng kỹ
nhất nhà. Đứa nào bị chị Hai sai là thường
bị luôn máy cái cú đầu vì vụng về, làm không
vừa ý. Trong gia đình tôi, không ai biết làm
mứt me, một loại mứt rất cầu kỳ và công phu,
mặc dù nhà nội tôi có cây me trái to dẹp rất
thích hợp để làm mứt me. Hôm thì nhà thơm
phứt mùi vani trộn trong mứt dừa. Hôm thì
nhà thơm phứt mùi gừng. Hôm thì nhà thơm
phứt mùi đậu xanh rang… Chị Hai làm mứt gừng
dẻo cho ông ngoại và bà nội rất nổi tiếng.
Chị không dùng chanh mà chị dùng khế chua
cắt nhỏ nên mứt mềm dẽo, cay, ngọt là món tủ
cho ông ngoại uống trà. Nhưng cái sung sướng
nhất của lủ em là được vét chảo đường mà
trong đó còn vài miếng mứt vụn bà chị gắp
không hết. Mứt phải phơi một vài nắng cho
ráo rồi mới bỏ vô hủ. Mấy ngày phơi mứt là
chị Hai phải canh chừng mấy đứa em thèm
đường, nhưng làm gì chị canh được đám em. Má
tôi có cách dạy con thật là sư phạm. Bà
không khéo chuyện bánh mứt, không dạy con
được, bà cho con tự do làm, muốn làm món gì
thì xin tiền, tự đi mua sắm, tự bày ra mà
làm lấy và bao giờ cũng được cả nhà khen
thưởng không lời bằng cách ăn ngon lành, ăn
sạch. Cho nên đứa nào muốn giỏi là tự nó học
hỏi hàng xóm, trên trường, dì Út... và má
sẵn sàng chi tiền.
Măng khô má đã dự trữ từ mấy tháng trước,
cho rẻ! Hai đêm đầu, ngâm nguyên miếng măng
trong nước lạnh, hai cái thau giặt đồ được
trưng dụng ngâm măng. Mỗi tối phải xả nước,
thay nước. Qua ngày thứ ba, xé măng ra từng
miếng nhỏ, dài, cắt bỏ phần măng già, rồi
ngâm một đêm nữa. Sau đó là nấu, phải nấu
hai lần, xả nước, nấu lại bằng nước sạch để
măng không còn mùi hăng và cái màu nâu khô
trở thành màu vàng tươi hấp dẫn. Đến cái
màng làm vịt để kho măng là tôi sợ nhất,
không bao giờ tôi làm quen được cảnh cắt cổ
vịt, tôi nhát, không bao giờ dám theo dõi
nên không biết tả như thế nào. Chỉ biết là
sau khi trụng vịt bằng nước sôi là đến phiên
tôi và thằng em kế lãnh phận sự nhổ lông vịt.
Gọi là tôi với nó, nhưng sau khi nhổ phần
bụng và lưng, vì phần đó dễ nhổ, ít lông
măng, là nó chạy trốn mất tiêu. Một mình tôi
ngồi loay quoay với mấy con vịt, dùng cái
nhím nhổ từng sợi lông măng, vừa réo
thằng-em-trời-đánh, vừa năn nỉ chị Hai Cao
phụ nhổ. Tới màn mổ bụng là hấp dẫn nhất.
Chị Hai Cao lôi từng trái tim, bao tử, ruột
già, ruột non, rữa sạch, mổ cái bao tử ra
cho tôi coi hồi nãy còn sống nó ăn gì,
thường là bắp và lúa. Con nào có một chùm
trứng là hạnh phúc ngàn đời cho tụi tôi, lủ
con háo ăn. Bộ lòng thì xào với hành, cà,
ngò tây cho bữa cơm ngày đó. Còn bộ trứng,
chị luộc, để chờ má về chia cho chúng tôi.
Má tôi kho măng với thịt vịt, hành ta và bao
giờ bà cũng để dành một thau măng đã xé nhỏ,
ngâm nước lạnh chờ đó. Vì kinh nghiệm mỗi
năm, cứ đến khoảng mùng hai là xoong măng
hết sạch, nhưng nước lèo còn, thế là bà bỏ
măng vô kho tiếp. Xoong măng đến chiều ba
mươi bốc khói thơm phức, nhưng chưa đứa nào
được động đũa vô, phải chờ cúng trước.
Má nấu một nồi cơm nếp để làm cơm rượu. Nếp
để nguội, trải ra cái sàng, má rải một lớp
men đã được giả nhuyễn. Bà nhúng tay vô nước,
bắt vò từng viên, viên nào viên nấy to bằng
cái trứng gà. Sắp xếp từng viên vô cái thố
lớn, đậy nấp lại, để chừng ba ngày là cơm
lên men. Má thắng đường cát trắng đổ vô thố
cơm nếp, đổ cho ngập, cho mấy viên cơm nếp
nổi trôi lềnh bềnh, đậy nấp lại, chừng hai
ngày là ăn được. Mỗi lần ăn hay mời khách,
má dùng loại chén men nhỏ, múc một chén một
viên, nước rượu đường ngập chén, dùng muỗng
nhỏ, xắn từng miếng, kèm theo nước rượu
đường ngọt, đưa vô miệng. Ăn xong viên cơm
rượu, lúc nào cũng còn chút nước đường trong
chén, bưng lên miệng húp, liếm sạch, ngon
không thể nào tả nổi. Còn rượu nếp than, màu
tím đậm thật đẹp mắt thì má không tự làm. Má
đặt mỗi năm chừng vài lít cho ba đãi các bác
các chú. Nhưng chúng tôi nào có bỏ qua, len
lén làm một ly đá cục, đổ rượu nếp than vô,
làm như nước sirô, uống mát rượi, rồi mặt
mày nóng bừng bừng, đỏ ngầu. Nhưng chưa lần
nào đi liễng xiễng cả!
Khoảng hai mươi lăm, chú Bảy Ngọng được bà
nội cử xuống nhà tôi để đóng cốm. Trước ngày
đó, tụi tôi phải đổ nổ trắng ra cái sàng lớn
để lượm lúa nếp chưa nở, rang đậu phọng, gọt
gừng, cắt gừng từng sợi nhỏ. Má thắng hai
xoong đường. Một xoong lớn đường táng, trộn
gừng, đậu phọng. Đây là phần cốm dành cho lủ
con bảy đứa và lủ cháu từ quê cứ Tết là tập
trung về nhà tôi để đánh bài, ăn uống, đi
phố, đi xinê vì lúc đó tụi tôi được nghỉ học.
Một xoong nhỏ là đường cát trắng, gừng,
nhiều đậu phọng. Đây là phần cốm để cúng và
mời khách. Má đổ nổ trắng vô một cái thúng,
trộn đường đã thắng lại cho vừa keo, dùng
tay trộn đều. Đây là lúc cốm được thưởng
thức với tất cả lòng thán phục và biết ơn
của lủ con luôn luôn thèm ngọt. Khi bắt cốm
từng nắm tay, má cho chúng tôi tham dự và
làm lơ cho lủ con ăn vụng. Trên nền xi măng
bóng, trước mặt bà ngồi là thúng cớm đã trộn
đường, lủ con ngồi quay quanh, tay áo xắn
cao. Bắt cốm từng nắm, kích thước không cần
giống nhau. Bóc một nắm cốm đã trộn đường
lên tay, những ngón tay mảnh dẻ nhỏ bé đầy
nhiệt tình cố ép chặt, ráng ép thêm chút nữa
cho nắm cốm của mình không nhỏ hơn nắm của
các chị, ép chặt, xoay tròn thành như một
trái banh tenis, xếp đều vô cái thúng kế bên,
sung sướng nhìn ngắm thành quả mình đã đóng
góp với má. Và khi hai bao nổ trắng đã được
hóa phép thành những trái banh to lớn khác
nhau, chất trong những cái thúng to thì bụng
tôi cũng căng đầy cốm ngọt. Bộ ván gõ nâu
bóng ở nhà trong đã được lau chùi sạch sẽ,
mấy khung cốm, một cái đòn dài, một thau
nước lạnh và một cái khăn lau tay, tất cả
chờ bàn tay khéo léo của chú Bảy Ngọng.
Cái khung cốm gồm hai phần: Phần ngoài là
khung gỗ, dài gang tay, cao cũng độ gang tay,
rộng độ mười centimet. Một khối gỗ cũng có
kích thước giống như khung gỗ nhưng nhỏ hơn
chút xíu để có thể nằm lọt gọn gàng vô khuôn
gỗ khi ép cốm. Cả cái khuôn và cái khối gỗ
phải được nhúng vô thau nước để khi ép, cốm
không dính vô khung, dễ lấy ra. Chú Bảy
Ngọng bỏ từng banh cốm vô khuôn, dùng tay ép
đều cốm trong khuôn rồi chú đặt cái khối gỗ
lên khuôn đã ép đầy cốm. Chú một đầu đòn,
Chị Hai Cao ở một đầu đòn, bắt đầu ép cái
khối gỗ xuống. Chú xoay đều cái cái khuôn,
ép ngang rồi ép dọc, ép dọc rồi ép ngang...
Cho đến khi nào chú thấy cái khối gỗ đã đi
sâu xuống khuôn độ năm, sáu centimet và nằm
thẳng thớm đều đặn trong khuôn là chú dùng
cái chày gõ nhẹ, đều khối lên gỗ và chị Hai
Cao rút cái khuôn từ từ lên, nương theo nhịp
gõ của chú. Một khối cớm hình chữ nhật thẳng
thớp nằm trên bộ ván. Chú âu yếm nâng nhẹ
hộc cốm còn ươn ướt đặt cẩn thận lên cái
sàng lớn đã để sẵn trên bàn ăn. Một bộ khuôn
thứ hai đã sẵn sàng. Chú tiếp tục đóng hộc
cốm thứ hai và chúng tôi mê mẫn theo dõi
trong khi cái khuôn cốm thứ nhất được má
nhúng vào thau nước rửa, lau bỏ những vụn
cốm còn dính trong khung và chuẩn bị cho hộc
cốm thứ ba. Cứ thế cho đến tối khuya, chúng
tôi mê man ngắm nhìn từng cử động của chú
Bảy Ngọng, mê man trong thán phục, mê man
thiếp đi, ai ẵm vô giường cũng không hề biết
gì cả. Ngày hôm sau, thức dậy, chú Bảy Ngọng
về từ lúc nào. Trên bàn, trên ván, mấy sàng
cốm nằm ngay ngắn, để chút nữa được đem lên
sân thượng phơi, phải phơi một ngày cho cốm
ráo khô trước khi gói.
Và từ đây là chúng tôi phải chờ đến sau khi
cúng rước ông bà chiều ba mươi mới được ăn
cốm. Cái phần gói cốm là tôi thích nhất. Cốm
cho con nít ăn, tức cốm trộn với đường táng
thì bao bằng giấy báo. Còn cốm để cúng và
mời khách thì được bao bằng giấy trắng. Tôi
làm hồ bằng cách trộn bột vô nước rồi bắt
lên lò, quậy cho đặt lại. Sau khi cốm đã
được bao bọc sạch sẽ thì lại phải phơi thêm
vài ngày nữa để cốm khô ráo, giữ được lâu
ngày, có khi đến tháng hai mà cốm không bị
mốc. Má cho tiền mua giấy mỏng nhiều màu để
tôi và chị Ba tha hồ cắt làm bông. Bông cúc,
bông thược dược, bông hippie. Chúng tôi xếp,
cắt, dùng kéo vuốt từng cánh bông, lúc vuốt
cong lên, lúc vuốt cong xuống, dán lên hai
đầu hộc cốm. Có bông được nhiều lớp, có bông
chỉ được hai lớp. Tùy hứng! Đếm đi đếm lại
công trình đóng cốm năm nay của nhà mình để
chị em tự hãnh diện. Thường thì khoảng bảy,
tám chục hộc cớm. Đóng cốm là một công trình
đòi hỏi sự sắp xếp tính toán, mà má tôi năm
nào cũng tận tâm thực hiện trong sự thán
phục của chồng con và hàng xóm. Chừng đến
mùng ba, mùng tư là tụi tôi ngán cốm tận cổ.
Má cất vô tủ, chờ ra giêng. Ra giêng, cứ mỗi
tối, má mang vài hộc ra bẻ chia cho lủ con.
Lúc đó cốm ngon lạ lùng. Có khi tôi xin má
hộc cốm đem lên lớp chia cho tụi bạn, mấy
đứa bạn cùng lớp tôi cũng mê món cốm ra
giêng của má tôi. Nhất là con nhỏ Thanh Bình,
Được, Thu và Mỹ Lệ, nhóm bạn ăn hàng của tôi.
Nếp đã được ngâm hai ngày và trộn chút muối,
ông ngoại đem xuống một bó dây sóng lá đã
được chặt từng đoạn dài, đoạn ngắn, ngâm
nước, tướt mỏng. Lá chuối thì ông ngoại cũng
đã tướt, gom trong vườn nhà mình. Đậu xanh
đãi vỏ cũng đã ngâm qua đêm, trộn thêm chút
muối, nấu khô như nấu cơm. Đậu đen cũng đã
được hầm chín. Mỡ được cắt thành từng miếng
dài cở gang tay, to bằng ngón tay má. Bà
dùng đậu xanh bọc, ép miếng mỡ ở giữa, thành
một đòn dài cở gang tay, tròn to bằng cườm
tay tôi. Bà sắp những đòn đậu xanh nhưn mỡ
đó trên một cái sàng có lót lớp lá chuối.
Tôi là phụ tá đắc lực cho má trong công việc
gói bánh tét này. Năm nào cũng vậy, chắc tại
tôi dễ sai hay là tại tôi thích nên cứ la cà
theo má trên bộ ván ở nhà trong. Không cần
má sai biểu, tôi dùng một cái khăn ướt lau
lá, sắp xếp ngay ngắn, lớn theo lớn, nhỏ
theo nhỏ. Má để một sợi hai sợi dây ngắn nằm
thẳng thớm trước mặt, sắp lên đó một lớp lá
lớn, rồi một lớp lá nhỏ hơn. Bà lấy cái chén
múc một chén nếp, trải đều nếp lên lá, lấy
một đòn đậu xanh nhưn mỡ để nhẹ nhàng, chín
chắn lên lớp nếp, rồi một chén nếp nữa, đổ
phủ lên đòn đậu xanh. Dùng những ngón tay
khéo léo, xếp lớp lá chuối nằm dưới, bao
quanh nếp, rồi nhanh nhẹn nắm hai đầu dây
nằm sẳn ở dưới, bắt chéo nhau, xoáy nhanh,
rồi hai đầu dây thứ hai. Sau đó bà dựng đứng
dòn bánh tét, thổ thổ cho chắc nếp, xếp lá
qua, xếp lá lại, xếp chồng lên, xong một đầu.
Bà nhanh tay xoay ngược đòn bánh, thổ thổ,
xếp như đầu kia. Bà dùng hai sợi dây dài cột
dọc đòn bánh, rồi dùng hai sợi dây ngắn cột
ngang đòn bánh, ở đầu đòn, bà còn làm một
cái vòng để treo bánh và để làm dấu phân
biệt với bánh đậu đen chay với bánh đậu xanh
nhưn thịt. Đó là bánh tét nhưn đậu xanh. Còn
bánh tét đậu đen thì đơn giản hơn, chỉ cần
trộn đậu đen đã nấu chín với nếp đã ngâm,
chút muối là gói. Không bao giờ bà quên làm
cho chúng mỗi đứa một đòn bánh tét nhỏ bằng
cườm tay bà, dài độ gang tay, chất lên lớp
cao nhất trong thùng bánh, cho chúng tôi
hưởng trước vào khoảng trưa ngày ba mươi
trong khi nồi bánh tiếp tục nấu cho tới
chiều vì bánh tét phải chín để kịp cúng rước
Ông Bà cuối năm. Như vậy coi ra là nhà tôi
không có cảnh ngồi quanh bếp lửa canh nồi
bánh tét đêm ba mươi như sách truyện thường
kể.
Ngày ba mươi, ngày trọng đại đang gần kề.
Một xoong lớn thịt heo kho nước dừa tươi và
trứng vịt luộc được hầm nhỏ lửa từ trưa ba
mươi. Thịt bò ướp sả ớt được gói thành từng
đòn nhỏ trên lũng lẵng trên bếp. Hai thúng
bánh tráng cao cả thước treo lên nóc nhà.
Vài chục đòn bánh tét treo cho ráo nước,
khiêu gợi tuyến nước miếng mỗi lần xuống
bếp. Trái cây chưng bàn thờ thường là do bạn
hàng lúa từ Phú Hội, Đại Nẫm, Ngã Hai cho,
đã được chưng trong nhiều dĩa lớn nhỏ khác
nhau, số còn lại thì để vô mấy cái rổ cho
chúng tôi ăn lai rai, ăn tự do. Mấy chậu
bông cúc, bông vạn thọ đã chưng bày trong
phòng khách. Tôi thích bông đại cúc màu
trắng kiêu sa, hơi ưng ửng màu vàng nhạt
giữa những cánh hoa nuột nà. Cây mai, ba đã
bỏ công mấy ngày lựa chọn cũng đã nằm chễnh
vệnh giữa hai ghế sa lông, nụ ưng ửng vàng,
hứa hẹn một năm nhiều may mắn.
Chiều ba mươi là buổi chiều được mong chờ,
hồi hộp nhất trong mùa Tết. Nhà tôi không
cúng rước ông bà thịnh soạn như nhà mấy đứa
bạn ở phố mà theo phong tục của Đại Nẩm: Bốn
dĩa xôi nếp trắng, hai con gà luột để coi
cẳng gà, trái cây, cốm, bánh tét, hai chum
rượu trắng, dưa hấu, được chưng trên bàn ông
Nội. Năm này qua năm kia, cặp chân gà được
ba ngắm nghía kỹ lắm. Ông xem xét, phân tích
mấy cái móng chân quặp đều đặn vô lòng bàn
chân và năm nào tôi cũng nghe ba khen cặp
chân tốt, hứa hẹn một năm nhiều may mắn.
Cúng xong, thịt gà xé ra, trộn chút rau
húng, hành lá cắt nhuyễn, chấm nước mắm gừng
đặc sền sệt, ăn với xôi trắng, mấy đòn bánh
tét. Cả nhà quay quần ăn bữa cơm cúng rước
Ông Bà, hả hê rộn rã, bắt đầu hưởng một cái
Tết đầm ấm vui nhộn. Ly rượu nếp than làm
mặt ba người đặt biệt trong gia đình là má,
tôi, con em đỏ bừng bừng.
Chị Hai Cao đã về quê ăn tết nên má và tụi
tôi phải dọn dẹp, rửa chén. Cả một ngày mệt
mõi, má nằm ngủ thiếp trong cái võng treo
trên bộ ván gõ dầy cả tấc. Tôi không biết
mấy chị làm gì khi chờ cúng giao thừa, chắc
ủi quần ủi áo đặng chút nữa giả bộ xin đi
chùa hái lộc nhưng để cho mấy anh ngắm. Còn
tôi, chưa biết ăn diện, thương má, tôi đi
dọn dẹp mấy cái bàn thờ khác. Bưng bàn ra
ngoài để cúng Trời Đất, bàn thờ Thổ Thần,
bàn thờ Ông Táo, bàn thờ hai đứa em chết
non, bàn thờ ông Nội, sắp xếp ly để chút nữa
cúng trà. Xuống bếp, chuẩn bị nấu sương sa,
pha màu, trộn nước cốt dừa rồi đổ vô mấy cái
ly, đổ mỏng mỏng cho mau đặc cứng. Bắt nước
sôi để nấu nồi chè đậu xanh mà má đã đãi vỏ
hồi sáng, chờ chè sôi lên, bỏ đường vô, bỏ
bột báng, nhỏ lửa cho sôi riu riu, chờ.
Chừng mười một giờ rưỡi, đã chuẩn bị xong
mấy món cúng, pha xong bình trà, tôi kêu má
dậy để cúng giao thừa. Má tôi ít khi khen
con ra mặt, nhưng nhìn gương mặt má thật
tươi khi hỏi tôi: ”Con nấu chè rồi hả? Đánh
thức ba dậy rồi lấy nhang cho ba má cúng” là
tôi biết má tôi vui lòng lắm. Và cứ như thế,
năm nào cũng vậy, tôi lục đục nấu chè, đổ
sương sa, chuẩn bị cho má cúng giao thừa,
cho đến khi tôi xa quê hương, tôi vẫn thường
thắc mắc là đứa em út có lo cho má cúng giao
thừa chu đáo như tôi hay không.
Sáng sớm mùng một Tết, chuyện đầu tiên là
chị em tôi náo nức ra phòng khách xem chậu
mai nở ra sao và tìm kiếm mấy hoa mai sáu
cánh, có khi bảy cánh để đoán xem năm nay
nhà mình có được nhiều phước lộc. Bữa ăn
sáng mùng một rất long trọng. Bánh tét cắt
từng khoanh, chung quanh màu xanh lá cây
lợt, giữa màu vàng và trong cùng là miếng mỡ
trắng, xếp ngăn ngắn lên dĩa bàn lớn. Hai
dĩa bánh tét, hai tô măng kho vàng tươi, hai
tô thịt kho nước dừa với hột vịt luột, nước
vàng nâu lóng lánh mỡ, dĩa củ kiệu, dĩa củ
cải trắng trộn với mấy khoanh cà rốt màu cam
được cắt tỉa đẹp mắt, hai dĩa bánh tráng dẽo
mè đen đã được cắt làm tư nhúng nước, tất cả
nằm trịnh trọng trên bàn ăn. Bánh tráng cuốn
măng kho, củ cải chua, chấm nước thịt kho
béo ngầy ngậy. Bánh tét ăn với thịt kho mềm
rụm, nửa cái trứng, củ kiệu cay cay, chua
chua, ngọt ngọt, cắt chút ớt ngâm dấm chua
ngọt, ngon không thể tả được! Sau bữa cơm
sáng no nê, đứa nào cũng lấn cấn ở nhà
trong, chờ má lì xì mà mắc cở không dám nói
ra. Nhà tôi không có tục lệ chúc Tết cha mẹ,
ông bà, cho nên cũng không có tục lệ cha mẹ
mừng tuổi con. Ba má tôi ngồi ở bàn ăn, cười
hỏi: ” Đứa nào muốn tiền lì xì?” Cả bọn, đứa
nào cũng cười lẻn bẻn, đúng tim đen quá mà,
lẫn quẫn chờ nãy giờ. Má chia mỗi đứa một
bịch đỏ, bề dầy khác nhau tùy theo tuổi,
càng lớn tuổi thì bịch càng dầy.
Ba dẫn mấy chị em về nội, về ngoại, làng Đại
Nẫm. Má ở nhà nghỉ ngơi sau mấy tuần lo Tết
và mùng một ít bạn bè đến thăm. Cả nhà nội
và ngoại cũng không có tục lệ chúc Tết ông
bà, mừng tuổi con cháu. Thấy tụi tôi lên,
bác Xã, bà nội phát cho mỗi đứa một tờ,
không cần bao bì gì hết. Mà chúng tôi cũng
đâu cần bao bì chi cho rắc rối. Có tiền là
đủ rồi! Bà ngoại cũng vậy, phát cho mỗi đứa
một tờ, không cần các cháu chúc lại. Cho là
cho! Không nghĩ đến sự cảm ơn đáp lại. Người
Đại Nẫm chân tình là thế đó. Ông ngoại tôi
thì không bao giờ lì xì cho chúng tôi, mà
chúng tôi cũng không chờ tiền lì xì của ông
ngoại. Hôm qua má đã sai chị Ba đem tiền lên
đưa ông ngoại để ông ngoại đi đánh bài mấy
ngày Tết cho vui. Lần này thì chúng tôi
không chơi lâu. Được tiền lì xì, tự động rủ
nhau về trước, để mặc ba một mình đi thăm
mấy ông chú, ông bác của ba.
Tụi tôi lo về lẹ để làm sòng bài ở nhà hay
la cà đánh tài xỉu, bầu cua. Lúc đó tôi còn
nhỏ nhưng cũng cứng rắn lắm. Lúc nào đi đánh
bầu cua, tài xỉu là tôi quyết định một số
tiền và tự hứa là thua hết số tiền này thì
về, không chơi ráng để gở, không chơi hết
tiền sạch túi như hai thằng em kế. Ba tôi
rất ghét cái tánh bài bạc, nhưng những ngày
Tết là tụi tôi được chơi thả dàn. Tội nhất
là anh Tánh con trai lớn bác Năm Sang bạn
của má, theo chị Hai tôi, tới nhà chơi bị
tụi em dụ anh làm cái bài xì dách. Đám tụi
tôi đổi bài, dấu bài, chị Hai thấy mà không
dám nói, nói ra là tỏ ý cho anh Tánh biết
chị bênh anh rồi anh Tánh tưởng chị “chịu”
anh thì mất ”danh dự” chết luôn. Anh Tánh
thua sạch túi mà không biết có được người
đẹp nhìn cho chút xíu nào không, chị Hai làm
cao lắm! Trong nhà tôi, tôi và thằng em kế
là đánh bài ma giáo nhất, liên kết chặt chẽ.
Hai đứa nháy mắt, đổi bài lia lịa, hai bà
chị khờ khạo, mấy đứa anh em cô chú ngờ
nghệch, sạch túi mà không chút nghi ngờ. Ai
đời đánh bài phé, mà cứ được thùng, hay suốt
hay ba xì là ngồi rung chân thỏa mãn. Tôi
với thằng em nói vẩn vơ vài câu, kéo cho mấy
người đó lộ tẩy rồi giả bộ tố, giả bộ rút
lui, sợ thua, mấy người đó vô lưới hết. Trời
hại thằng em tôi, ăn gian ở nhà, ra đường
chắc bị lừa, thường đến mùng hai là thua
sạch túi, về dụ tôi cho tiền đi chơi, rủ tôi
đi xinê để tôi bao.
Chiều mùng ba, chị Hai Cao lên, tụi tui mừng
hết lớn. Có người rửa chén. dọn dẹp nhà cửa,
mặc dù sau khi cúng ông bà chiều ba mươi,
không được quét nhà, có quét thì túm lại một
góc nhà chứ không được đổ rác. Xoong măng
thứ hai đã được kho lại. Ba ngày, ngày nào
cũng bánh tráng cuốn măng kho và củ cải
chua, bánh tét, tụi tôi bắt đầu ngán, nhưng
có ai có thì giờ nấu cơm đâu. Có bữa ham
chơi, tôi nhúng ướt một cái bánh tráng, măng
kho, bánh tét, thịt kho, đồ chua, làm một
cuốn lớn to bằng cườm tay ba, dài chắc cở
hai mươi centimet, chạy ra đường vừa ăn vừa
coi đánh bầu cua. Bởi vì sau bữa ăn sáng
mùng một là chúng tôi không ai có thì giờ về
nhà ăn cho đúng bữa. Ba má tôi cũng dễ dãi,
đứa nào muốn ăn lúc nào thì ăn, hên thì về
nhằm bữa, ăn chung với ba má. Chiều mùng ba,
má xào mì cúng đưa Ông Bà. Rác được đem đi
đổ sau khi cúng Tất. Trưa mồng bốn, chị Hai
Cao nấu cơm, mở mấy đòn thịt bò ướp sả ớt
treo lủng lẳng trên bếp, cắt từng lát mỏng,
chiên cho cả nhà ăn cơm, bữa cơm trắng đầu
năm sao ngon lạ lùng.
Trên danh nghĩa là hết Tết nhưng đối với
chúng tôi, Tết chưa hết. Còn được nghỉ học,
còn được đánh bài thả dàn, nhà còn hột dưa
bánh mứt là còn Tết. Chị Hai Cao mê đánh bài
không thua gì chúng tôi, tối nào cũng rủ
đánh bài. Với chị Hai Cao, không dễ gì qua
mặt ăn gian được, bị chị cốc đầu, đòi tiền
lại vì cái tội láu cá đều đều. Chị Hai Cao
mê đánh bài đến độ có hôm chờ ba má đi ngủ,
chị kêu nho nhỏ, chúng tôi lò mò dở mùng,
chui xuống nhà bếp, thắp đèn hột vịt, thì
thào đánh bài. Chắc ba má biết mà làm lơ. Dễ
gì qua mặt ba má!
Tối mùng bảy, ngày mai đi học lại, ba tôi
biểu chị Hai Cao đem bộ bài tứ sắc, bộ bài
cắt tê bỏ vô bếp đốt. Tối đó, trong tâm
trạng thơ thẩn, tôi tưởng như đời hết vui,
hết thú nữa rồi vì mấy bộ bài đã ra tro
than, lòng tiếc hùi hụi. Nhưng sáng hôm sau,
đi học, vui thầy, vui bạn, cơn mê đánh bài
cũng tan theo mây khói.
Sau năm Mậu Thân, má tôi sợ không được ăn
Tết trọn vẹn như năm đó, má tôi cho gia đình
ăn một cái Tết mini vào cuối tháng mười một
và chúng tôi cũng như ba tôi ai cũng ủng hộ
rầm rầm. Dĩ nhiên năm đó nhà tôi ăn Tết hai
lần. Không chán! Chỉ tội má tôi, phải cực
nhọc hai lần.