Talawas
Văn học Văn học nước ngoài
13.2.2006
Trần Vĩnh Tường
Đă hôn xác chết?
(Did you kiss the dead body)
Câu hỏi thập phần kinh dị. Ít
ai dám nghĩ tới. Ngoại trừ bố/mẹ ôm xiết xác con. Ngoại trừ vợ/chồng c̣n yêu
nhau đến phút ấy. Ngoại trừ nhạc t́nh Việt Nam dỗ dành nhau suốt mấy chục
năm nay, hôn em một lần cuối, em về đi anh đi. Độc giả quen với câu hỏi rất
đẹp, có khi nào c̣n nhớ mùa xuân, có bao giờ em hỏi quê hương ḿnh ở đâu,
tháng mấy trời mưa ngâu... Loại câu hỏi nghe sướng điên cả người, quên cả
trả lời.
Cuộc chiến Việt Nam chết triệu triệu sinh linh cả 2 miền Nam Bắc, thi sĩ
Trần Dần miền Bắc làm thơ, kiểu “mỹ học khổ đau”:
Hố mắt bạn tôi
Sâu như nấm huyệt
Có thể chôn
Một chiếc quan tài
[1]
Độc giả nín thở. Không vui. Người nhà binh Tô Thùy Yên miền Nam đụng trận
thoát chết, làm thơ khốc liệt:
Người chết mấy ngày chưa lấy xác
Thây śnh mặt nát lạnh mương tanh
[2]
Độc giả thổi phù phù nhắm mắt qua cầu. Ghê quá. Nuốt không trôi. Không thích
bằng áo lụa Hà Đông, nai cao lẩn gót trong mù, ngón tay bên ấy em gầy, bên
này sỏi đá cũng gầy sụt cân.
Nếu độc giả Việt Nam đọc những câu thơ của Harold Pinter, c̣n hăi hơn:
Hallelullah!
It works.
We blew the shit out of them.
We blew the shit right back up their own ass.
And out their fucking ears.
-----
They suffocated in their own shit!!
------
Hallelluhah!
Praise the Lord for all good things.
(Tạ ơn Chúa!
Chiến tranh rất hiệu quả
Chúng ta pháo cho nó ḷi c. ra
Chúng ta pháo cho c. tống ngược vào
Cho đến khi c. trào ra khỏi tai chúng nó
Cho chúng nó chết ngạt trong đống c. của chúng nó
Tạ ơn Chúa.
Tung hô Chúa về tất cả những điều tốt đẹp)
Độc giả té xỉu, tắt tiếng, ngưng thở ngừng nuốt. Chạy ào vào bếp lấy ngay lọ
muối thẳng tay vứt thơ Harold qua cửa sổ.
Độc giả Ăng Lê dù không c̣n chuộng Romeo-Juliet, cũng không khoái mùi xác
chết. Harold Pinter làm bài thơ trên, - “American Football (A Reflection
upon the Gulf War)” - trên một chuyến bay vào tháng 8/1991 đến Edinburgh
Festival. Lúc ấy, chiến thắng của liên quân Anh-Mỹ-Pháp...-
Canada-Belgium-Italy... (cả thẩy 36 nước) được tô vẽ rực rỡ trong việc trừng
phạt Iraq. Ông gửi bài thơ đến báo chí Anh, đều bị từ chối không đăng, dù
lúc đó ông đă là một kịch tác gia nổi tiếng. Từ tờ Independent,
Observer, Guardian, New York Review of Books, London
Review of Books, một mớ chủ bút trả lời từa tựa nhau: Harold, ông làm
tôi nhức đầu qua đi thôi. Giữa tôi với ông, tôi đồng ư hoàn toàn, nhưng
không thể đăng được. Tờ báo chúng tôi là một tờ báo đứng đắn, độc giả đọc
những chữ tục tĩu này, họ không mua báo nữa th́ có mà ăn cám. Harold, dơ dáy
quá, đọc lạnh cẳng quá, độc giả không chịu nổi đâu. Harold ngây thơ cố căi:
“Ủa, đâu có dơ. Chính báo của ông cũng đăng tin xe tăng quân đội Mỹ đang cào
nát sa mạc. Họ cào luôn cả những hầm hố người Iraq trốn bên dưới. Tôi chỉ
dùng những chữ man rợ để tả lại một cảnh hết sức man rợ: Họ bị chôn sống,
ngạt thở trong đống c. của họ”.
Những tờ trên không đăng, không phải... v́ sợ Mỹ, mà chỉ v́ sợ độc giả không
thèm mua báo nữa. Dù vấn đề nêu ra rất nhân bản, rất nghiêm trọng, người ta
cứ thích phải được mô tả bằng những lời lẽ ḷng ṿng. Cũng giống như hồi
tháng 3/1985, khi Harold Pinter đến thăm ông đại sứ Mỹ ở Ankara, lưu ư ông
ta về chuyện tù nhân bị tra tấn bằng cách cắm điện vào bộ phận sinh dục.
Ngài đại sứ, trong trắng như một trinh nữ, không dám nghe nhắc đến bộ phận
ấy, mời khéo Harold ra khỏi cửa. Ngài không hề suy nghĩ đến việc kinh tởm
hơn là việc tra tấn tù nhân bằng cắm điện.
Harold Pinter văng hết mọi thứ không phải từ trong người ông, mà từ trong
thân thể những nạn nhân chiến tranh, những người phải trốn chui trốn nhủi
chính trên đất nước ḿnh. Ông lôi hết những thứ kín đáo chỉ có thể nói với
bác sĩ trong pḥng mạch lên trang giấy, ông bày lên một đống bầy nhầy nát
bét, trộn lẫn bụi, cát, phân người, bom đạn, máu, tai mũi họng. Chủ nhân của
chúng đă chết ngạt, chết ch́m, chết bẹp, trong hầm hố, dưới đụn cát, gầm
cầu, trong những ngôi nhà sập bởi bom đạn, pháo kích, lựu đạn, lửa, hỏa
tiễn...
Rốt cuộc, tờ Socialist đăng bài thơ này vào tháng Giêng 1992. Sau đó,
bài thơ được dịch sang tiếng Đức, tiếng Ư, đăng ́ xèo trên những tờ báo lớn
ở Holland, Bulgaria, Greece và Finland, kèm theo những lời giới thiệu về
việc bài thơ bị từ chối ở “mẫu quốc” Ăng Lê.
Ngày 13-10-2005 khi Hàn lâm Viện Stockholm tuyên bố
Harold Pinter được giải Nobel, thi sĩ/độc
giả/chủ báo của “văn chương mỹ học” choáng váng. Bây giờ th́ họ đăng ráo
những ǵ ông nói, không sót chữ nào.
Harold Pinter sinh ngày 10-10-1930 tại London trong một gia đ́nh Do Thái. Bố
ông là thợ may. Gia đ́nh ông nếm mùi di tản trong thế chiến II 1945-48. Sống
sót từ mớ bom đạn của chiến tranh, ông trở thành một kẻ chống chiến tranh
kịch liệt.
Ông làm thơ từ những năm 1950. Ông soạn kịch cho truyền thanh, truyền h́nh,
nhà hát, phim ảnh. Ông cũng là đạo diễn và diễn viên xuất sắc. Ông sáng tác
29 vở kịch, dàn dựng 27 chương tŕnh. Ông nhận được nhiều học vị danh dự từ
14 đại học. Vở The Birthday Party tŕnh diễn lần đầu trên sân khấu
nước Anh năm 1960 là thành công đầu tiên của ông. Theo các ông Hàn chấm giải
Nobel, “tác phẩm của Harold Pinter t́m ra những ẩn dụ dưới những điều b́nh
thường nhất và đẩy một lối vào pḥng kín của sự uẩn ức” (BBC, Oct. 13,
2005).
Chữ nghĩa các ông Hàn khó hiểu quá sức. Harold Pinter chỉ mang vào thơ những
từ man rợ nói về một sự thật man rợ, đến nỗi không ai dám nói. Thế thôi. Có
lẽ sau giải Nobel văn chương 2005 này, chữ nghĩa toàn cầu trợn trắng mắt đạp
thắng, quay ṃng ṃng húc nhau rụng xương sườn xương sống. Riêng thi sĩ Việt
Nam, hoặc vẫn tha thiết nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San, tôi ḍm thấy
trong mắt em một trời sao vằng vặc, hoặc vác bút/computer chạy theo Nobel
Harold Pinter, văng đủ thứ trong người ra. Chỉ khổ độc giả, bị thi sĩ dần
nhừ đ̣n: lúc nhăo nhoẹt như bánh bao ngâm nước, lúc cao máu tắc tim. Càng
tốt, thế mới là “mỹ học khổ đau”.
Nhưng không phải hễ văng là được Nobel, nếu không nói giùm đôi điều khốn nạn
cho những con người khốn khổ. Tỉ dụ, kịch bản chiến trường Iraq 2005: con số
lính Mỹ hy sinh, lính Anh tử trận, lính Canada, Australia, Ba Lan… cập nhật
hàng ngày. Sao không có con số nào về những người dân Iraq?
Mười ngàn? Trăm ngàn? Biết đâu đấy! Hỏi làm ǵ! Đáng ǵ cái thứ ấy! Kệ xác
họ! Đừng vẽ chuyện! Riêng Harold Pinter đau đớn nhắc chúng ta vuốt mắt và
gửi đến họ chiếc hôn tử biệt:
Did you wash the dead body
Did you close its eyes
Did you bury the body
Did you leave it abandoned
Did you kiss the dead body
(Dịch sát: Bạn có từng lau rửa cho cái xác ấy không. Bạn có vuốt hai mắt nó
không. Bạn có chôn xác ấy không. Bạn có bỏ nó lại không. Bạn có hôn nó không.)
Cũng muốn ơng ẹo theo kiểu con oanh học nói, dịch “Xác em bỏ lại bên đường.
Biết ai có gửi nụ hôn cuối cùng”. Nghĩ đến sự nghiệp “văng” của Harold
Pinter, bèn quê quá, nên thôi.)
Thơ thế này mà được Nobel văn chương! Thế th́ ṿng nguyệt quế không chỉ
riêng cho Harold Pinter, c̣n cho cả những người kinh sợ chiến tranh. Nh́n
sững vào đám nhân gian vỗ tay cuồng nhiệt cổ vơ chiến tranh “Giết hết chúng
đi, giải phóng chúng, dậy chúng bài học dân chủ, gửi lính ra chiến trường”,
Harold Pinter nói: “Chúng ta không dám đối diện cái chết. Nhưng chúng ta
phải đối diện thôi. Bởi v́ nhân danh chúng ta, họ chết.”
T́nh yêu nở rồi tàn trong mỗi cuộc đời. Nhưng ư nghĩ như Harold Pinter, mấy
trăm năm mới nở? Nếu không thế giới đă ḥa b́nh. Khi bỏ phiếu chọn Harold
Pinter, các ông Hàn gửi một thông điệp man rợ đến những trái tim man rợ: rửa
xác chết, hôn xác chết, không vui!
Giết người làm sao vui cho được! Phiếu thế mới là phiếu chứ! Tạ ơn Chuá!
[1]Hợp
Lưu, số 83, tháng 6/7 năm 2005, Thụy Khuê, “Trần Dần, Mỹ học khổ đau”
[2]Hợp
Lưu, số 83, Trần Hữu Thục, “Thơ Tô Thùy Yên, Chênh vênh siêu h́nh/hiện
thực”