Đêm Havana và Ngày Hà Nội

Tưởng Năng Tiến

&

Truyện Không Tên

Bùi Ngọc Tấn

 

 

      Có nơi nào trên trái đất này
      Mật độ đắng cay như ở đây?
      Chín người - mười cuộc đời rạn vỡ.
      Bị ruồng bỏ và bị lưu đầy…
      Có nơi nào trên trái đất này
      Mật độ yêu thương như ở đây?
      Mỗi tấc đất có một người qùi gối
      Dâng trái tim và nước mắt
      Cho nỗi đau của cả loài người….
       
        Phùng Quán
Tôi chưa bao giờ đến Hà Nội, và cũng chưa bao giờ cảm thấy có chút xíu nào hào hứng khi nghĩ đến thành phố (xa lạ) này. Đường th́ xa, vé tầu th́ mắc, thủ tục th́ lôi thôi rườm rà, và lỡ mà kẹt luôn th́ … chết mẹ.
Tôi sinh trưởng ở miền Nam, nghĩ và nghe sao nói vậy. Và cứ như vậy mà nói, chắc chắn, sẽ làm mích ḷng cả đống người. Tôi biết vậy chớ nhưng không thể nào nói khác hơn, v́ những điều tôi được nghe kể về Hà Nội (hoàn toàn) không có ǵ là đàng hoàng hay tử tế - đại khái như:
“Lời ăn tiếng nói lễ độ cũng khó gặp, chứ đừng nói ǵ đến văn vẻ... Một cô gái có thể nói oang oang giữa chợ:
- Nó rủ tao đi nhưng tao đ… đi.
- Sáng nay mẹ mày qua xin lửa bố tao, bố tao đ… cho…”
 
    "Một cái ǵ đó đă phá vỡ ḷng tin của con người rằng xă hội luôn luôn cố gắng đem lại sự tốt đẹp cho ḿnh, và chính ḿnh phải có bổn phận phải ǵn giữ các công tŕnh xă hội để ḿnh và mọi người cùng hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây điện để bán lấy chút tiền, có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp không đáng là bao… con người đối xử với xă hội thô bạo như vậy chỉ v́ xă hội đă đối xử với họ tệ quá (Phạm Xuân Đài. Hà Nội Trong Mắt Tôi. Thế Kỷ, Hoa Kỳ 1994, 32-33).
Trời đất, đó là chuyện từ thế kỷ trước lận - cha nội. Cũ rích cũ rơ rồi, bới móc ra làm chi nữa vậy cà? Bây giờ là thế kỷ 21 rồi mà. Và bây giờ, tôi lại mới ghe đây, thiên hạ vẫn than phiền rằng Hà Hội cũng cứ (mẹ rượt) y trang như hồi đó - không khác ǵ hết trơn hết trọi:
 
    "Những đứa bé trai và gái bưng thức ăn cho khách vẫn là những đứa bé đă được mô tả trong tiểu thuyết Nam Cao hay Trương Tửu cách đây năm sáu thập niên, c̣m cơi, nhọc nhằn, cơ cực, chỉ biết cúi đầu vâng dạ và sống quen với lo âu, sợ hăi…."
    "Những anh chị phu hồ vẫn làm việc bằng những cung cách từ nửa hế kỷ trước. Họ chuyền tay nhau mọi thứ vật liệu. Cát, đá và sạn đựng trong những cái rổ, đà gỗ vác trên vai. Một ngày dầm mưa hay đổ mồ hôi như thế của một người phu hồ trị giá một đô la và một bữa ăn trưa thanh đạm. Hơn một phần tư thế kỷ thực hiện “chủ nghĩa xă hội ưu việt” trong nước, hơn một phần tư thế kỷ kêu gào tự do và nhân quyền của khối người Việt lưu vong hải ngoại, chẳng có chút ánh sáng nào rọi vào những góc đời phiền muộn tối tăm này"
    (Bùi Bích Hà, Nh́n Lại Quê Hương, Thế Kỷ 21, Sep. 2003:63-65).
Phạm Xuân Đài và Bùi Bích Hà, nói nào ngay, không phải là người Hà Nội. Họ là dân bá vơ, cù bơ cù bất, ở tận đâu đâu lận. Cả hai chỉ tạt ngang, ghé chơi Hà Nội năm ba ngày hay vài ba tuần lễ ǵ thôi. Biết (khỉ mốc) ǵ đâu mà nói hành nói tỏi (nghe thấy ghét) dữ vậy chớ?
Nguyễn Huy Thiệp th́ khác à nha. Ông ta là niềm hănh diện của Hà Nội (nói riêng) và của cả nước Việt (nói chung). Ổng có dư thẩm quyền và thừa tư cách để nói về thủ đô (mến yêu) của ḿnh. Trong tác phẩm Tuổi Hai Mươi Yêu Dấu, nhà văn Nguyễn Huy thiệp đă mượn lời một nhân vật để tuyên bố như sau: "Thời của tôi đang sống là thời chó má. Tin tôi đi, một trăm phần trăm là như thế đấy."
Ư, trời đất, qủi thần, thiên địa (mèng đéc) ơi! Giữa Thời Đại Hồ Chí Minh (quang vinh), và trong ḷng thủ đô Hà Nội - nơi mà cách đây chưa lâu khối người vẫn c̣n phải nhai rón rén khi ăn - mà thằng chả nói năng ồn ào, lạng quạng và bạt mạng (quá cỡ) như vậy th́ kể như là … hết thuốc!
Và Hà Nội không phải là nơi duy nhất hết thuốc (chữa) trên thế giới này. Tôi nghe kể là thủ đô của Cuba cũng tồi tệ, và bệ rạc không kém:
 
    "Ở La Havanne vài ngày dần dần bạn hiểu cái khang trang, sầm uất ở những nơi có du khách chỉ là bộ mặt bên ngoài che không nổi một xă hội lở lói, mệt mỏi… Cuba có hai thế giới, thế giới tưng bừng náo nhiệt của du khách, của những người có tiền xanh, bên cạnh thế giới mệt hoài của dân địa phương. Sau 50 năm cách mạng, cái mơ của đa số dân Cuba là vượt biển qua Miami hay có bà con thỉnh thoảng gởi về một cái ngân phiếu" (Trần Công Sung, "Cuba Sí, Cuba No," Thế Kỷ 21, Dec. 2003:78).
Đó cũng là cái ước mơ thê thảm, vượt quá tầm tay, của rất nhiều người dân Việt - bây giờ. Trong quá khứ, Cuba và Việt Nam cũng có rất nhiều điểm (bất hạnh) tương tự như nhau. Hai quốc gia này đều có thời gian dài là thuộc địa, và cả hai đều đă tin tưởng rằng sẽ dành lại được độc lập và tự do bằng con đường … cách mạng! Chung cuộc, cả hai đều sống dở và chết dở trong ḷng cách mạng.
Ví von mà nói th́ Havana và Hà Nội như hai cô bé lọ lem song sinh, trong một gia đ́nh khánh tận. Cả hai cùng có chung ước mơ là lấy được một tấm chồng đàng hoàng, lương thiện nhưng (chả may) đều phải ḷng đúng đồ phải gió nên đă trao duyên lầm … tướng cướp!
Havana, tuy thế, vẫn c̣n “có phước” hơn Hà Nội. Bi kịch của La Havanne chỉ xẩy ra vào lúc có mặt trời - theo lời của Trần Công Sung:
 
    "Đêm xuống, dân Cuba quên cái cực nhọc ban ngày, đổ ra đường nhộn nhịp… Quên dollars, quên cách mạng, quên những bài diễn văn dài tám giờ, quên embargo, người ta đàn hát nhẩy múa náo nhiệt. Không phải chỉ ở những khu du khách, ngay cả ở những khu b́nh dân, đen tối, trong những tiệm cà phê rẻ tiền…, đâu đâu cũng có tiếng nhạc, giọng hát…"

Và vẫn theo như nhận xét của Trần Công Sung th́ ở Havana “có một cái gọi là
cái hồn (“une âme”). Cái hồn này đang nâng đỡ cho mọi người sống qua những ngày tháng cơ cực, đắng cay của thời mạt kiếp. Tôi c̣n tin rằng nó cũng sẽ giúp cho dân tộc Cuba hồi sinh chóng vánh, sau khi họ chôn xong cái Chủ Nghĩa Xă Hội (đang sắp sửa “chuyển qua từ trần”) ở đất nước này.
Hà Nội (dường như) không có một cái hồn như thế để chuẩn bị hồi sinh, dù CNXH cũng đang thở hắt ra ở Việt Nam. Tôi chưa bao giờ nghe ai nói đến có một đêm nào đó (dù chỉ một đêm thôi) người dân Hà Nội đă đổ ra đường, đàn hát, nhẩy múa nhộn nhịp, một cách hồn nhiên và vô tư như vậy cả. T́nh trạng của Hà Nội có vẻ tuyệt vọng hơn nhiều, theo như nhận xét của nhà văn Bùi Bích Hà - qua bài báo thượng dẫn: "Người ta chỉ cần một hai thập niên để vực dậy một nền kinh tế sa sút nhưng để xây dựng lại niềm tin cho cả dân tộc, cụ thể như dân tộc tôi, nay chỉ c̣n cầu phép lạ gieo xuống thưở đất hoang hoá này những hạt giống mới để bắt đầu lại."
Cách đây không lâu, khi được hỏi "phải h́nh dung thế nào về văn hiến Thăng Long”, giáo sư Nguyễn Huệ Chi đă (rơm rớm nước mắt, tôi đoán thế) kể lại rằng: ”Gần đây có một vị viện sĩ định nghĩa văn hiến là văn học để hiến dâng cho Đảng". (http://www.talawas.org/hanoi/hanoi01.html).
Nghe mà… hết hồn! Havana là một thành phố non trẻ, mới có mặt từ đầu thế kỷ thứ 16 mà khí phách và hồn phách vẫn c̣n lai láng qua từng bước chân nhún nhẩy của người dân - dù nơi đây công an nhiều không kém quân Nguyên. Không lẽ mảnh đất ngàn năm văn vật, lẫy lừng cỡ như Thăng Long, mới đụng chuyện với cường quyền và bạo lực (có vài chục năm) mà đă “mất hồn mất vía” và “chết tiệt” thế sao?
Tôi không tin như vậy đâu. Và tôi cũng không chịu như vậy nữa. Đảng CSVN quả thực đă hớp được hồn của một mớ “viện sĩ” ở Bắc Hà nhưng họ chưa bao giờ thực sự nh́n ra được cái hồn của đất Thăng Long, đừng nói chi đến chuyện “đụng” được tới nó.
Mới đây, do t́nh cờ may mắn, tôi đă thấy được cái hồn của Hà Nội trong một căn nhà nhỏ - ở ngơ Ánh Hồng, cạnh một nhà xí công cộng, luôn luôn ngập ngụa cứt đái - của một người đàn bà tên Sợi. Chị Sợi có một mẹt hàng ở đầu ngơ, bầy bán các thứ linh tinh: ấm nước chè, gói thuốc lào, bao thuốc lá, lọ ô mai, gói bánh bích qui. Chị không có vốn nên hàng hoá lèo tèo, thảm hại.
Chi Sợi bán hàng không đủ thu nhập để nuôi ḿnh, và nuôi người mẹ bệnh đang nằm chờ chết nên - cũng có lúc- buộc phải bán cả thân. Mẹt hàng, cũng như thân xác “xuống cấp” của người đàn bà đă quá thời xuân sắc này, chỉ hấp dẫn được một loại khách hàng duy nhất: đám ăn mày. Và mảnh đời bầm dập, te tua, tàn tạ của chị Sợi đă được kể lại như sau:
 
    "Trong số những người chồng hờ ấy, chị đặc biệt yêu quư một anh ăn mày trẻ, c̣n ít tuổi hơn chị. Anh ta đến với chị không như người đến với gái làng chơi. …
    “Sau khi yêu nhau bên những tấm ván quan tài c̣n để mộc và chưa ghép mộng, bao giờ anh cũng nán lại tṛ chuyện, hỏi chị về diễn biến bệnh tật của bà cụ, công việc của chị, c̣n chị th́ ngắm nghía cái chân khoèo của anh, cái chân mà chị biết rằng trước đây nó cũng lành lặn, b́nh thường như cái chân bên kia, chỉ v́ giả què lâu quá, nên đă thành què thật.
    “Anh đă kể cho chị nghe chuyện chân anh. C̣n chị kể cho anh chuyện mẹ chị. Khi bị ngă gẫy xương hông, nằm liệt, ba năm đầu cụ hát. Ba năm sau cụ chửi. Và một năm nay cụ yên lặng. Mỗi khi có khách lên gác lửng cùng chị, cụ nhắm mắt giả cách ngủ.
    “ Anh thương chị. Chị thương anh. Chính anh đă mượn cưa, bào ở đâu về cưa, bào, đo, cắt mộng mấy tấm gỗ cốp pha, ráp thành cái áo quan cho cụ. Và cũng chính anh, dù què một chân cũng đă bắc ghế trèo lên, xây thêm hai hàng gạch quanh tường bao cho nó cao thêm, chắn bớt cái hơi nhà xí tạt vào.
    “Người thứ hai chị Sợi yêu quư là một phụ nữ. Một bà già. Bà cụ Mít. Đó là một bà già thấp bé, lại c̣ng, mặt chằng chịt vết nhăn, chẳng biết bao nhiêu tuổi nữa. Chính bà Mít cũng không biết ḿnh bao nhiêu tuổi …
    “Bà ở vùng Hà Nam, Phong Cốc. Anh con trai duy nhất của bà a dua với bọn xấu trong làng đi ăn trộm lợn. Án xử hai năm. Trong tù bị bọn đầu gấu đánh chết. Người con dâu bỏ đi lấy chồng, để lại cho bà hai đứa cháu gái, đứa chín tuổi, đứa bảy tuổi.
    - Bây giờ một đứa lên tám, một đứa lên mười rồi cô ạ. Vài năm nữa, chúng nó lớn khôn là tôi không lo ǵ nữa. Tôi có chết cũng không ân hận.
    “Một lần bà Mít đến, nắm lấy bàn tay chị:
    - Em ơi. Chị nhờ em một cái này được không.
    “Bà ngập ngừng. Chị Sợi không hiểu chuyện ǵ. Nhưng rơ ràng là một việc hệ trọng, rất hệ trọng đối với bà.
    - Giúp chị với em nhé. Chị tin ở em.
    “Th́ ra bà muốn gửi chị tiền. Tiền là vàng, là cuộc sống của hai đứa cháu côi cút của bà ở quê. Chúng c̣n bé lắm. Chúng mồ côi, chúng mong bà. Chúng cần tiền của bà. Bà phải nuôi chúng. Chúng chưa thể tự kiếm sống được, chưa thể tự lo liệu được. Để nhiều tiền trong người, bà sợ. Suốt ngày đi bộ rạc cẳng mà đêm cứ ngủ chập chờn. Nên nghe chừng thấy nằng nặng hầu bao, bà phải mang tiền về quê.”
    ……
    “Mùa rét bao giờ cũng là thời gian gay go của chị. Hàng họ ế ẩm. Khách đến nhà cũng ít. Bù lại với đám ăn mày, mùa rét là mùa cưới xin, mùa bốc mả. Trong khi hiếu, hỷ, người ta rộng răi với ăn mày. Bà cụ Mít vẫn thỉnh thoảng tới chỗ chị để cho chị ḥn xôi, miếng thịt. Bà kêu rét và gửi chị thêm một ít tiền. Chị bảo bà đă gửi bốn lần tiền rồi sao không mang về cho các cháu kẻo chúng nó mong, đă lâu rồi bà chưa về nhưng bà Mít nói:
    - Tôi cố thêm ít ngày nữa. Rồi về ở với chúng nó một thời gian. Ngoài giêng tôi mới ra. Bà cháu xa nhau lâu quá rồi. Lại c̣n phải cố mua cho mỗi đứa một bộ quần áo mới mặc Tết".
    “Nhưng cả tháng sau bà Mít vẫn không quay lại. Chị Sợi biết rằng có chuyện chẳng lành nhưng vẫn hy vọng được thấy dáng người nhỏ c̣ng c̣ng của bà trong tấm ni-lông vá víu chống gậy, khoác bị bước tới. Chị chưa chờ ai đến như vậy. Lo lắng. Hy vọng. Tuyệt vọng. Chắc chắn bà Mít đă chết ở đâu rồi!
    “Chị Sợi kiểm lại số tiền bà Mít gửi một lần nữa. Rồi gấp những tờ giấy xi-măng, những túi ni-lông. Cho tất cả vào một cái túi xách. Bây giờ chị không chờ bà Mít nữa. Chị chờ anh què đến. Chị bảo anh:
    - Bà Mít chết thật rồi. Anh phải giúp em. ở đây trông nom, cơm nước, rửa ráy cho mẹ em vài ngày. Em phải đi đây.
    - Em biết quê bà ở đâu mà t́m?
    - Cứ về Hà Nam, Phong Cốc hỏi. Thế nào cũng ra. Hỏi dân. Hỏi ṭa án.
    “Phải đem chỗ tiền này về cho hai đứa trẻ mồ côi. Phải thực hiện nguyện ước của bà cụ, kể cả việc mua hai bộ quần áo mới cho chúng nó…”
Chị Sợi, anh què - cũng như bà Mít - cho đến lúc chết vẫn chưa có đêm nào ôm đàn ngồi hát hay đổ ra đường nhẩy nhót nhộn nhịp như những người dân ở Havana. Ngày cũng như đêm họ sống ẩn nhẫn, thầm lặng trong những con hẻm hôi thối luôn ngập ngụa phân người giữa ḷng Hà Nội. Chính ở những nơi tăm tối này, họ đă dấu kín được nguyên vẹn cái hồn của cả một dân tộc qua từng nhịp đập của tim. Và tôi cũng cảm được cái hồn như thế, khi viết những ḍng chữ này, dù nơi tôi đang sống cách xa Việt Nam đến nửa ṿng quả đất.
Sau khi đọc xong “Truyện Không Tên”, tôi hỏi t́m số điện thoại của tác
giả và gọi cảm ơn ông đă mở cho tôi thấy cái hồn của dân tộc Việt. Nhà văn Bùi Ngọc Tấn nói rằng ông không viết truyện mà chỉ kể lại chuyện đời của chị Sợi, theo như lời chính chị tâm sự - thế thôi.
Chị Sợi, anh què vẫn c̣n đang sống ở Hà Nội. Qúi vị có thể đọc nguyên văn câu chuyện về cuộc đời của họ, trong tuyển tập Truyện Ngắn Bùi Ngọc Tấn do nhà xuất bản Hải Pḥng in năm 2003, hay ở đây www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=411

 

*************

 

Truyện không tên

Truyện ngắn của Bùi Ngọc Tấn

Chị Sợi cho rằng tất cả mọi người trong ngơ Ánh Hồng đều biết rơ công việc của chị. Chị chấp nhận điều ấy. Với chị đó cũng là một nghề, một nghề như những nghề khác dù nó bị mọi người khinh bỉ. Dào ôi. Ai khinh th́ cứ việc. Chị có cần người ta trọng đâu. Chị cần tiền. Để nuôi bà mẹ già nằm liệt sáu bảy năm nay. Để có cái và vào miệng. Để có tí phấn son bôi lên mặt, giấu đi làn da đen đủi nhăn nheo, cặp môi tái nhợt của ḿnh. Để có thể mua một bộ cánh mới khi bộ cánh chị mặc trên người đă ṃn, sờn, bạc, khiến chẳng c̣n ai muốn nh́n chị.

Chị c̣n cần tiền để pḥng khi mẹ chị nằm xuống. ít nhất cũng phải có bộ áo quan. Chị đă dành dụm mua được mấy tấm gỗ cốp pha, đă nhờ người cưa cắt sẵn nhưng chưa ghép mộng, mấy mét vải diềm bâu để liệm cho cụ. Tất cả cất trên gác lửng. Cả vải. Cả gỗ. Không thể để dưới gầm giường. ở đó phân gio, nước giải của mẹ chị nằm ốm liệt giường hôi thối lắm.

Chị cũng đă tích được một ít tiền, cứ định sẽ không bao giờ đụng đến, nhưng rồi vẫn cứ phải lấy ra tiêu. Bởi v́ có khi cả tuần lễ không bán được hàng, lại chẳng có một người khách nào đến nhà chị.

Chị Sợi có một mẹt hàng bán các thứ linh tinh ở đầu hẻm: ấm nước chè, gói thuốc lào, bao thuốc lá, lọ ô mai, gói bánh bích quy. Mùa nóng chị bán cả bia hơi. Khổ nỗi là chị chẳng thể nào cạnh tranh nổi với các hàng quán san sát gần đó. Họ có lều quán. Họ có cái bán mái nhô ra. Họ có cả căn nhà mặt tiền của họ. Hàng của họ trông vui mắt, sạch sẽ, sang trọng, nhiều loại, mới tinh, đầy vẻ mời chào. Chứ không như hàng của chị. Vạ ra vỉa hè th́ chớ. Lại c̣n bụi bậm, bạc phếch, cũ kỹ. Không biết bao Vinataba của chị bóc bán được chưa mà vỏ bao đă nhợt ra hết cả.

Để làm bớt đi vẻ nghèo nàn tiều tụy của mẹt hàng, chị Sợi đă ngồi lảnh ra một nơi, cách xa cái đám phồn hoa kia. Khách của chị cũng muốn như thế.

Đó là những người ăn xin. Vâng. Những người ăn mày là khách hàng chủ yếu của chị. Những người này cũng muốn có một lúc dừng chân sau khi đă rạc cẳng trên các vỉa hè. Những người này cũng muốn trở lại làm người, cất đi trong chốc lát bộ mặt nhăn nhó đau khổ của ḿnh khi đi ăn xin. Họ cũng muốn chuyện tṛ đôi câu một cách b́nh đẳng ngang hàng với những người không phải là ăn xin như họ. Họ cũng muốn ăn một cái bánh bích quy, cũng muốn lấy cái điếu cày của chị kéo một hơi cho đă, rồi chiêu một ngụm nước chè trước nụ cười tán thưởng của chị. Sang hơn th́ làm một điếu Vinataba. Để rồi lại đi.

Chị Sợi quen rất nhiều ăn mày. Chị biết có những người đi ăn mày để có tiền bó cái bậc hè. Để láng nốt góc sân c̣n dở dang. Để thêm vào xây cái bể. Chị biết có những người ăn xin v́ không muốn làm nghề ǵ khác. Nhiều người trong số họ là những người t́nh chốc lát của chị. Cô điếm già, xấu, nhăn nheo, gầy g̣ c̣n có thể có khách nào ngoài đám ăn mày.

Người ta đi tới, ngồi xuống, uống chén nước chị rót và khẽ nháy mắt, hất hàm về phía trong hẻm. Chị khẽ gật. Người ấy đi. Đi thẳng hè phố để rồi lát nữa mới quay lại. Chị Sợi thu xếp tất cả hàng họ vào thúng, bưng về nhà, đổ chậu phân nước giải dưới gầm giường bà mẹ, rồi đi tắm rửa bằng xà pḥng thơm, lại c̣n xịt vào người, xịt vào giường bà mẹ, xịt lên gác lửng tí nước hoa rẻ tiền, kéo tấm ri đô che khuất một phía chiếc giường có người mẹ đang nằm khô như một cái xác nặng mùi hôi thối tỏa ra.

Chị đă làm mọi cách để mẹ chị luôn trong trạng thái sạch sẽ nhất. Chị khoét chiếu, khoét giát giường đặt chậu bên dưới. Quần của cụ, chị cắt khâu lấy mà không một hăng thời trang nào có thể nghĩ ra. Nó chỉ có một mảnh vải ở đằng trước che kín bụng và dính vào hai ống.

Tuy vậy cũng chẳng thể nào tránh được mùi hôi. Cũng may, người khách mới đến có thể nghĩ rằng đó không phải là mùi trong nhà chị. Bởi v́ ngay trước nhà chị, phía bên kia con hẻm là một cái nhà xí công cộng. Nó dài đến non chục mét, phân, nước giải, nước mưa ngập ngụa ra đến sát hẻm. Mùi nó c̣n nặng hơn nhiều, nhất là những hôm có gió mạnh.

Nhờ cái nhà xí công cộng mà chị Sợi cảm thấy yên tâm khi có khách. Thứ nhất là vấn đề mùi như đă nói. Thứ hai, có nó nên không có những nhà bên kia đường hau háu nh́n sang. Cả một quăng dài, chỉ có một cánh cổng duy nhất là nhà chị. Những nhà liền bên, phía trong và phía ngoài đều xây tường cao, t́m mọi cách quay ngơ ra hướng khác. Quăng hẻm nhà chị thật vắng vẻ. Thảng hoặc ai có việc đi qua đấy, đều nín thở cắm mặt bước cho nhanh.

Từ vỉa hè phố chính, chị bưng thúng hàng về, mở khóa cổng nhà chị trong cái hẻm không một bóng người và người bạn t́nh tới sau cũng vậy. Anh ta chỉ khẽ đẩy cánh cổng gỗ, bước vào rất nhanh và cũng rất nhanh khép cánh cổng gỗ lại, chị chỉ việc đi ra, cài chốt cửa, th́ thầm: "Vào đi, vào đi". Thế là xong. Yên tâm. Chắc chắn chẳng một ai nh́n thấy. Chị không xấu hổ. Nhưng chị sợ. Chị sợ người ta sẽ xúc chị xuống trại 26 là trại cải tạo gái điếm và nếu vậy th́ mẹ chị ai trông? V́ tuy rằng chị là điếm thật nhưng có như những cô điếm khác đâu. Họ trẻ trung, xinh đẹp, đắt khách, sang trọng, hái ra tiền. Khách đến nhà chị năm th́ mười họa, lại là thứ khách mạt hạng, tiền kiếm được cho mỗi lần đi khách của chị có đáng là bao! Cho nên những người không biết th́ ái ngại cho chị về cái nhà xí công cộng mênh mông trước cửa, c̣n chị, chị cám ơn nó. Và chị đâm lo khi nghe mong manh rằng đang có chủ trương phá đi cái nhà xí ấy. Chị c̣n nghe nói hai hộ làm ăn ǵ đó một ở phường, một ở quận sẽ chia đôi khu đất ấy, làm nhà tầng ở đó. Thật nguy. Chị sẽ bị dồn vào bước đường cùng. Sống bằng ǵ? Làm ăn ra sao khi đối diện với nhà chị là hai gia đ́nh lúc nào cũng người ra người vào tấp nập? Rồi chị lại tự nhủ. Thôi, ngày nào biết ngày ấy. Phải hết sức tằn tiện. Tương lai c̣n khó khăn. Thế này là tốt lắm rồi. Được đến đâu hay đến đó. Biết đâu mà lo trước.

Thực ra chị Sợi có chi tiêu một khoản nào gọi là hoang phí đâu. Cứ gọi là những khoản bất hợp pháp cũng không. Làm hôm nay nhưng luôn nghĩ tới ngày mai. Ngay trong một năm cũng có hai đợt ế khách. Trừ dịp Tết ra không kể, cứ đến ngày mùa là thành phố vắng bóng ăn mày. Họ trở về quê hương, gặt rồi cấy hái. Chỉ đến lúc nông nhàn, họ mới rời làng ra đi. Quăng thời gian ấy chị sống chỉ bằng cái mẹt hàng, bán cho những chú bé đánh giày hay những khách bộ hành đi ngang qua. Nên bí lắm chị mới rút từ số tiền dành dụm được ra một ít để chi tiêu.

Thế giới của chị Sợi là thế giới ăn mày nên chị rất hiểu họ. Có ông ăn mày giả làm người tỉnh T, chị bảo không phải. Người ở đây thôi. Người tỉnh T, không nói giọng ấy, có muốn nghe tiếng vùng T không, tôi nói cho mà nghe. Lại c̣n anh nói lỡ độ đường. Chị bảo đừng nói thế. Cứ nói là đi ăn xin. Lỡ độ đường ǵ mà hôm nào cũng lỡ độ đường. Xấu ǵ chuyện phải đi ăn xin. Ăn mày là ai, ăn mày là ta... Nghe chuyện chị, những người ăn mày ngồi chung quanh cái thúng của chị thấy tự tin hơn. Họ cởi mở cùng chị, quư chị rồi dần dần đi cùng chị từ vỉa hè phố chính vào nhà chị trong ngơ thối.

Trong số những người chồng hờ ấy, chị đặc biệt yêu quư một anh ăn mày trẻ, c̣n ít tuổi hơn chị. Anh ta đến với chị không như người đến với gái làng chơi.

Chị có thể nói thật với anh tất cả. Ví như khi hai người đă đi qua bức ri đô che cái giường có bà cụ già nằm giả cách ngủ, trèo lên gác lửng và khi anh đă nắm tay chị, chị bảo:

- Anh có tiền đưa em vài đồng, em ra ngoài kia ăn cái ǵ tí đă. Em chưa ăn. Đói quá.

Anh đưa tiền ngay. Bởi v́ chính anh đă khuyên chị tuyệt đối không đụng đến số tiền dành lo ma chay cho cụ. Để anh một ḿnh trên gác lửng, chị cầm tiền anh đưa, mở cổng đi. Một lát sau chị về mang theo cho anh một cái bánh ḿ và một bát gân ḅ cùng với bạc nhạc hầm, gọi là món nhừ.


- Anh ăn đi. Hôm nay họ nấu hơi mặn, nhưng ngon lắm. Em ăn hai suất. Húc như cẩu.

Sau khi yêu nhau bên những tấm ván quan tài c̣n để mộc và chưa ghép mộng, bao giờ anh cũng nán lại tṛ chuyện, hỏi chị về diễn biến bệnh tật của bà cụ, công việc của chị, c̣n chị th́ ngắm nghía cái chân khoèo của anh, cái chân mà chị biết rằng trước đây nó cũng lành lặn, b́nh thường như cái chân bên kia, chỉ v́ giả què lâu quá, nên đă thành què thật. Anh đă kể cho chị nghe chuyện chân anh. C̣n chị kể cho anh chuyện mẹ chị. Khi bị ngă gẫy xương hông, nằm liệt, ba năm đầu cụ hát. Ba năm sau cụ chửi. Và một năm nay cụ yên lặng. Mỗi khi có khách lên gác lửng cùng chị, cụ nhắm mắt giả cách ngủ. Anh thương chị. Chị thương anh. Chính anh đă mượn cưa, bào ở đâu về cưa, bào, đo, cắt mộng mấy tấm gỗ cốp pha, ráp thành cái áo quan cho cụ. Và cũng chính anh, dù què một chân cũng đă bắc ghế trèo lên, xây thêm hai hàng gạch pa panh tường bao cho nó cao thêm, chắn bớt cái hơi nhà xí tạt vào.

Người thứ hai chị Sợi yêu quư là một phụ nữ. Một bà già. Bà cụ Mít. Đó là một bà già thấp bé, lại c̣ng, mặt chằng chịt vết nhăn, chẳng biết bao nhiêu tuổi nữa. Chính bà Mít cũng không biết ḿnh bao nhiêu tuổi.

Hôm ấy, chị dọn hàng, ngồi từ sáng đến trưa mà chẳng bán được một hào. Vét hết tiền trong người mua được một bát cơm, một bát canh suông định ăn th́ bà Mít đến ch́a tay xin. Đang cầm đũa, chị hạ xuống, thành thật:

- Bà ơi! Con không c̣n một hào nào trong người. Có ít tiền lẻ mang đi để trả lại cho khách, mua được bát cơm, bát canh này đây, bà ăn đi.

Bà ăn mày toan bước đi tiếp. Nhưng chị Sợi đă kéo tay bà:


- Bà ngồi xuống đây. Bà ăn đi. Con mời bà thật đấy.

Bà cụ ăn. Thế là từ đấy quen nhau. Thỉnh thoảng trên đường đi ăn xin, bà lại ghé qua chỗ chị. Bà móc trong bị ra khi quả chuối, khi quả cam, lúc nắm xôi và kể lai lịch những món ăn sang trọng ấy của bà. Ai cho. Ai thương người. Ai xởi lởi. Ai xua đuổi. Nhà nào làm giỗ, cho bà cả bát miến thừa mà không mang về đây được. Bà cũng kể cho chị biết v́ sao bà phải đi ăn xin. Bà ở vùng Hà Nam, Phong Cốc. Anh con trai duy nhất của bà a dua với bọn xấu trong làng đi ăn trộm lợn. án xử hai năm. Trong tù bị bọn đầu gấu đánh chết. Người con dâu bỏ đi lấy chồng, để lại cho bà hai đứa cháu gái, đứa chín tuổi, đứa bảy tuổi.

- Bây giờ một đứa lên tám, một đứa lên mười rồi cô ạ. Vài năm nữa, chúng nó lớn khôn là tôi không lo ǵ nữa. Tôi có chết cũng không ân hận.

Một lần bà Mít đến, nắm lấy bàn tay chị:

- Em ơi. Chị nhờ em một cái này được không.

Bà ngập ngừng. Chị Sợi không hiểu chuyện ǵ. Nhưng rơ ràng là một việc hệ trọng, rất hệ trọng đối với bà.

- Giúp chị với em nhé. Chị tin ở em.

Th́ ra bà muốn gửi chị tiền. Tiền là vàng, là cuộc sống của hai đứa cháu côi cút của bà ở quê. Chúng c̣n bé lắm. Chúng mồ côi, chúng mong bà. Chúng cần tiền của bà. Bà phải nuôi chúng. Chúng chưa thể tự kiếm sống được, chưa thể tự lo liệu được. Để nhiều tiền trong người, bà sợ. Suốt ngày đi bộ rạc cẳng mà đêm cứ ngủ chập chờn. Nên nghe chừng thấy nằng nặng hầu bao, bà phải mang tiền về quê. Bà nói với chị rằng bà cũng muốn về quê lắm để được nh́n mặt chúng nó. Để nằm ngủ với chúng. Để bà ôm chúng. Để chúng ôm bà. Để nấu một bữa cơm nóng, bà cháu ngồi ăn, đơm đơm xới xới. Để tắm rửa giặt giũ cho chúng nó. Để xem hai chị em có quấn túm thương yêu bảo ban nhau mà sống khi bà vắng nhà không. Về quê sung sướng là thế nhưng lại tốn kém, mất ngày mất buổi, ảnh hưởng tới số tiền kiếm được.

- Thoạt đầu tôi lo nên cứ phải về nhà luôn, chứ bây giờ cũng đỡ rồi. Nghe chừng chị em cũng biết thân biết phận, thương yêu nhau. Bà con xóm làng cũng thương, qua lại trông nom bảo ban. Tôi cũng yên ḷng. Với lại c̣n khỏe ngày nào phải cố ngày ấy cô ạ. Chứ tôi nghe trong người tôi biết, sức cạn lắm rồi. Ngộ nhỡ nằm đấy th́ khổ cả bà, cả cháu.

Bà bật cười:

- Cháu cô c̣n biết cuốc vườn, trồng rau, lại nuôi được một con gà mái đẻ. Chuyến trước tôi về cứ nhất định luộc trứng cho bà ăn.

Chị Sợi nhận những đồng tiền bà gửi. Những đồng tiền giống những đồng tiền chị nhận từ tay những vị khách ăn mày của chị: Nhàu nát quăn queo bẩn thỉu, rồi loại tiền hai trăm, ba trăm, họa hoằn lắm mới có tờ giấy một ngh́n. Những tờ giấy bạc không biết đă qua tay bao nhiêu người đă bạc thếch, thẫm đen, đẫm mồ hôi, mỡ và ghét bẩn, nhưng nó vẫn là tiền, là mồ hôi nước mắt, là cuộc sống. Chị nắm chặt tay bà:

- Bà yên tâm. Tiền bà gửi con không suy suyển một xu.

Bà Mít rân rấn:

- Cô phúc đức quá. Cầu trời Phật phù hộ độ tŕ cho cô.

Chính chị Sợi chảy nước mắt. V́ cảnh ngộ của bà. V́ hai đứa bé gái mồ côi ở một nơi xa mà chị chưa hề biết mặt. Chị chảy nước mắt v́ đây là tất cả niềm tin to lớn của ba con người c̣n khốn khổ hơn cả chị đặt vào nơi chị khiến chị tự hào và trách nhiệm của chị thấy nặng nề. Chị không có quyền phụ ḷng tin cao cả ấy.

Chị Sợi đă quen với những món tiền bà cụ Mít gửi, với nét mặt tin cậy pha lẫn biết ơn, sung sướng của bà cụ ăn mày già khi bà trao tiền cho chị, những món tiền nhỏ nhoi, khi hai chục ngh́n, khi ba chục ngh́n, nhưng cộm lên to tướng v́ mệnh giá của đồng tiền quá nhỏ. Bà cụ cũng đă mấy lần đếm tiền về quê, lo lắng v́ sợ bị mất cắp khi trở về và sung sướng khi từ chỗ hai đứa cháu ra thành phố.

Bởi vậy chị thật sự xúc động khi một lần bà Mít đến và lôi từ trong bị ra không phải tiền mà là một xếp giấy xi-măng đă được giặt sạch sẽ, phơi khô. Và mấy ngày sau lại thêm bốn cái túi đựng bánh kẹo bằng ni-lông. Bà cụ gửi chị tất cả. Đó là cái vải liệm của bà, những cái túi bọc bàn chân bàn tay cho bà khi bà chết. Chị nh́n bà, măi mới nói được một câu:

- Bà ơi. Bà cẩn thận thế hở bà.

- Chẳng biết ông giời c̣n để sống bao lâu nữa cô ạ. Đi qua chỗ người ta đang xây nhà. Vỏ bao xi-măng nhiều quá. Nói khó măi, người ta thương, cho hai bao. Thế là mới nghĩ đến túi ni-lông. Cứ chuẩn bị trước đi là vừa cô ạ. Ngộ nhỡ đùng một cái, ông giời ông ấy bắt ḿnh đi, các cháu cô c̣n dại lắm, chúng nó biết xoay xở làm sao. Cái chiếu cũng không biết mua đâu. Chẳng lẽ lại lấy chiếu nằm của chúng nó. Với lại giấy xi-măng này tốt hơn chiếu đấy cô ạ. Định xin mấy cái bao dứa nhưng người ta không cho. Mua th́ không có tiền. Bao giấy cũng tốt chán.

Chị thẫn thờ nh́n theo bà cụ ăn mày đi trong gió bấc hun hút mà thấy thương cho ḿnh, thương cho bà, thương cho những kiếp người khổ cho đến lúc chết. Rồi lại nghĩ đến mẹ. Dù sao mẹ chị cũng c̣n sung sướng hơn bà Mít. Mẹ chị c̣n có mấy tấm gỗ cốp pha, mấy mét diềm bâu. Có lẽ chị cũng phải kiếm mấy cái túi ni-lông pḥng xa như bà Mít!

Mùa rét bao giờ cũng là thời gian gay go của chị. Hàng họ ế ẩm. Khách đến nhà cũng ít. Bù lại với đám ăn mày, mùa rét là mùa cưới xin, mùa bốc mả. Trong khi hiếu, hỷ, người ta rộng răi với ăn mày. Bà cụ Mít vẫn thỉnh thoảng tới chỗ chị để cho chị ḥn xôi, miếng thịt. Bà kêu rét và gửi chị thêm một ít tiền. Chị bảo bà đă gửi bốn lần tiền rồi sao không mang về cho các cháu kẻo chúng nó mong, đă lâu rồi bà chưa về nhưng bà Mít nói: "Tôi cố thêm ít ngày nữa. Rồi về ở với chúng nó một thời gian. Ngoài giêng tôi mới ra. Bà cháu xa nhau lâu quá rồi. Lại c̣n phải cố mua cho mỗi đứa một bộ quần áo mới mặc Tết".

Chị Sợi kiểm kê số tiền bà Mít gửi trong những đợt ấy. Chị khoe với anh què hôm anh đến với chị:

- Xem em nhiều tiền không này!

Anh què bảo:

- Lần cuối bà ấy đến gửi là cách nửa tháng rồi à? Thế th́ bà ấy sắp quay lại đấy.

Chị cũng nghĩ vậy. Mỗi lần bà Mít gửi tiền cách nhau khoảng chục ngày. Chỉ ngày một ngày hai, bà sẽ về cầm chỗ tiền này cùng với số tiền bà mới xin được đem về quê nuôi cháu. Cả hai cùng mừng cho bà. Họ h́nh dung ra hai đứa cháu bà vui sướng như thế nào khi bà về, ch́a ra cho mỗi đứa một bộ quần áo mới. Họ cũng mong bà xin được nhiều và sớm về đây lấy chỗ tiền bà gửi, bởi v́ những đợt gió bấc giá lạnh thỉnh thoảng điểm mưa phùn tê cóng khiến chị Sợi cũng thấy buốt cả đầu óc và phải nghỉ bán hàng.

Nhưng cả tháng sau bà Mít vẫn không quay lại. Chị Sợi biết rằng có chuyện chẳng lành nhưng vẫn hy vọng được thấy dáng người nhỏ c̣ng c̣ng của bà trong tấm ni-lông vá víu chống gậy, khoác bị bước tới. Chị chưa chờ ai đến như vậy. Lo lắng. Hy vọng. Tuyệt vọng. Chắc chắn bà Mít đă chết ở đâu rồi!

Chị Sợi kiểm lại số tiền bà Mít gửi một lần nữa. Rồi gấp những tờ giấy xi-măng, những túi ni-lông. Cho tất cả vào một cái túi xách. Bây giờ chị không chờ bà Mít nữa. Chị chờ anh què đến. Chị bảo anh:

- Bà Mít chết thật rồi. Anh phải giúp em. Ở đây trông nom, cơm nước, rửa ráy cho mẹ em vài ngày. Em phải đi đây.

- Em biết quê bà ở đâu mà t́m?

- Cứ về Hà Nam, Phong Cốc hỏi. Thế nào cũng ra. Hỏi dân. Hỏi ṭa án.

Phải đem chỗ tiền này về cho hai đứa trẻ mồ côi. Phải thực hiện nguyện ước của bà cụ, kể cả việc mua hai bộ quần áo mới cho chúng nó.

Buổi sáng hôm ra đi, từ biệt mẹ, từ biệt anh què, bước tới cửa chị sững lại: một dẫy xe máy sáng loáng dựng ở đầu hẻm, một đám người đi ủng đang cầm thước, cầm dây, lội vào khu nhà xí ngập ngụa đo và ghi chép. Tim chị thắt lại v́ lo. Đúng là người ta sắp xây nhà tầng ở trước cửa nhà chị! Nhưng chị không có thời gian dừng lại. Phải đi ngay kẻo lỡ mất chuyến tàu...