PHÙ BÀI LÀNG XƯA
“Tiên tổ phương danh lưu quốc sử Tử tôn tích đức kế gia phong” Đây là hai câu thơ mà ba tôi tâm đắc nhất và đă truyền lại cho tôi - con dâu trưởng của ba. Tôi rất thương và quư ba tôi, một mẫu người nhân hậu hết ḷng với việc làng, việc họ. Bản thân ba bao giờ cũng lo giữ trọn hiếu đạo, tuy sống ly hương nhưng không ĺa tổ; ba luôn cố gắng làm tṛn nghĩa vụ của người kế thừa sự nghiệp của tiên tổ để lại trong một ngôi làng nổi tiếng về địa danh và có truyền thống nổi bật về việc làng, việc họ. Suốt 33 năm làm dâu họ Ngô làng Phù Bài, về thăm làng nhiều lần nhưng đây là lần đầu tiên tôi được ở lại đêm tại làng và được nghiên cứu “Phù Bài sử cương” của ba tôi để lại nhân dịp lạc thành đại trùng tu từ đường Phái Ngô Đức (thờ các ngài Ngô từ đời thứ 13 đến đời thứ 18). Tôi cảm thấy hănh diện v́ ḿnh là con dâu của làng. Hồi nhỏ, khi chưa lấy chồng tôi vẫn nghe tiếng thơm về làng Phú Bài. “Phú” chứ không phải “Phù” nhưng đến khi về làm dâu của làng th́ tôi mới vỡ lẽ ra tên làng là “Phù Bài”. Theo lời ba tôi - cụ Ngô Đức Đoàn đích tôn đời thứ 18, con trai trưởng của cụ Tự Thừa Ngô Đức Trác - cho biết sở dĩ làng có tên là Phù Bài v́ Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân, vị tổ đầu tiên sáng lập ra làng là một đạo sư có đặc tài phù phép, thường dùng oai linh Thần phủ, Linh phù, Lệnh bài để trừ gian tặc và ma quỷ hăm hại dân làng. Công lao to lớn của Ngài đă khắc sâu vào tâm tư, t́nh cảm của dân làng và được truyền tụng từ đời này sang đời khác. Làng Phù Bài nằm ở vị trí cực nam huyện Hương Thủy và phía nam tỉnh Thừa Thiên - Huế. Phía đông giáp sông Lợi Giang và các làng Tân Tô, Tô Đà, Lương Văn … Phía tây giáp dăy Trường Sơn có nhiều núi cao, đặc biệt có ḥn Thất Sơn thường gọi là núi Quách. Tục truyền khi mới lập làng, các vị thủy tổ khai sinh ra làng đă đi t́m sắt để xây dựng ở núi Quách cách làng chừng 2km th́ gặp một ông lăo chỉ cho chỗ đào sắt. Đào được sắt, các vị mừng rỡ hỏi danh tánh lăo ông và được biết ông người Hồ quốc. Một thời gian sau ông lăo đi đâu không rơ, dân làng thời ấy thường gọi ông là “Ngài Đại tài”. Theo lời ba tôi, trong bản văn chữ triện (ô vuông) có đề cập đến Ngài Đại tài, người tỉnh Hồ Bắc bên Trung Hoa và thuộc ḍng họ Ngô. Về sau các đời con cháu liên tiếp trong làng trước khi đi làm sắt đều có thiết lập bàn thờ để tế trời đất và khấn: Thái Thượng Huyền Nguyên Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ quân Phía Bắc của làng có truông cát rộng, tiếp giáp địa phận các làng Thần Phù, Lang Xá, Văn Giang, Dạ Lê Thượng, Thanh Thủy Thượng, Lương Hà, Lương Miêu. Phía Nam giáp làng An Nong huyện Phú Lộc. Địa thế làng rộng mênh mông, diện tích khoảng chừng 38km2 tức hơn 7.600 mẫu đất (mỗi mẫu 4.900m2). Làng có nhiều cát sạn, khai thác mấy cũng không hết c̣n cho các vùng lân cận sử dụng. Sông Phù Bài ngày xưa c̣n có tên là sông Cừ Giang v́ có nhiều cây cừ to lớn rễ mọc tua tủa hai bên mé sông. Sông chảy ngang giữa làng th́ chia làm hai chảy qua bàu ruộng Nhị Thiên Mẫu rồi phân thành hai xứ ruộng bàu Đông và ruộng bàu Tây, chảy tiếp ra sông Lợi Giang, xuống đầm Hà Trung kế phá Cầu Hai rồi đổ ra biển Đông qua cửa Tư Hiền. Hàng năm, dân làng ra sức đắp đê bao ṿng quanh bàu ruộng Nhị Thiên Mẫu để làm ranh giới và ngăn ngừa lũ lụt, nước mặn từ đầm Hà Trung tràn vào đồng ruộng làm thiệt hại mùa màng. Sông Phù Bài có nguồn lợi rất lớn, cung cấp nhiều cá tôm đủ thức ăn cho dân làng quanh năm . Với địa thế như vậy, theo ba tôi th́ làng Phù Bài có nhiều điều kiện thuận lợi dể phát triển về văn hóa và xă hội. Về văn hóa, lớp học đầu tiên của làng đặt tại nhà tăng của Ngài Đại tông, sau đó làng mới bắt đầu xây dựng một ngôi trường bằng ngói có 3 lớp học bên cạnh đ́nh làng, lúc đầu chỉ có 20 học sinh dần dần lên đến 50 học sinh và phát triển dần thành một trường học có 5 lớp vào năm 1945. Đến năm 1954 làng xây cất thêm 3 pḥng học nữa để hoàn chỉnh thành một trường tiểu học có đủ pḥng ốc và bàn ghế cho học sinh ngồi. Năm 1962, làng mở thêm một trường trung học đệ nhất cấp (trung học cơ sở bây giờ) với 300 học sinh ban đầu. Đa số học sinh học hết trường làng th́ lên huyện hoặc tỉnh để học tiếp trường trung học đệ nhị cấp (trung học phổ thông). Tốt nghiệp được tú tài toàn phần th́ theo học các trường Đại học ở Huế, Đà Nẵng và Sài G̣n. Con cháu đời nay của làng có nhiều người đỗ đạt được học vị cao: Tiến sĩ, Thạc sĩ, Bác sĩ, Kỹ sư, Giáo sư… Để khám chữa bệnh cho dân, năm 1958 trong làng mới bắt đầu xây dựng được một nhà bảo sanh bằng ngói với 10 giường do ngân quỹ của Hội Phước thiện bảo sanh xă. Công tŕnh này được khởi công xây dựng dưới sự giám sát của ông hội trưởng là cụ Thất phẩm Ngô Đức Tháo. Về sau nhà bảo sanh này được cải tiến thành bệnh xá khang trang với 20 giường nằm cho bệnh nhân và 10 giường nằm cho sản phụ, có thêm pḥng khám bệnh, pḥng phát thuốc và có y sĩ điều trị. Ngày xưa, dân làng họp chợ vào buổi chiều trên một khu đất cạnh đ́nh làng bên sông. Năm 1947chợ được dời về họp trên một đám đất gần đầu cầu quốc lộ về phía bắc. Đến năm 1954, thấy khu đất họp chợ chật hẹp nên ông xă trưởng Ngô Phước Truyền đă cho dời chợ sang địa điểm ở phía nam cầu quốc lộ. Nơi đây, đường sá giao thông tiện lợi nên dân cư các vùng lân cận như Tô Đà, Tân Tô, Nong, Truồi… đến họp chợ đông đúc; thậm chí có bạn hàng ở Huế mang hàng hóa, vải vóc, áo quần về bán; lại có cả bạn hàng ở đầm Cầu Hai mang cá, tôm tươi đến bán rất đông đảo. Chợ Phù Bài trở thành khi thị tứ lớn phồn vinh nức tiếng một vùng. Đă lâu đời, làng có một ngôi chùa bằng ngói ở đầu làng (ấp 7), phong cảnh ở đây thanh u, tịnh mịch, gần núi, cạnh sông, cách xa nhà ở để thờ Đức Phật tổ. Hàng ngày có một thầy tăng tụng kinh niệm Phật. Làng dành một mẫu ruộng để cúng lễ hàng năm như lễ Phật đản, lễ Thành đạo, lễ Vu lan, các ngày vía Phật và rằm tứ quư. Đến năm 1960, khuôn hội Phật giáo xă được thành lập và đă xây cất “Niệm Phật đường” bằng ngói cao ráo, rộng răi, khang trang giữa làng cạnh đường quốc lộ để phật tử dễ dàng đến lễ bái, có một vị đại đức trụ tŕ niệm Phật. Xưa làng Phù Bài không có một người Công giáo nào, đến năm 1928 có một đức cha đến truyền đạo tên là cha Bá. Khi đó trong làng mới có 3, 4 gia đ́nh theo đạo Công giáo. Sau đó các cha cố Thiên Chúa giáo về làng xin sở đất tại xứ Kênh Giàng để xây nhà thờ truyền đạo và con chiên đến lễ. Đặc biệt dưới thời Pháp thuộc, làng Phù Bài được xây dựng một phi trường trên một băi truông cát lớn, rộng hơn 3km, dài 4km. Đây là một phi trường có hạng ở Việt Nam cách thành phố Huế 13km. Cũng nhờ vậy mà người trong nước cũng như nước ngoài đă biết đến địa danh Phù Bài, quê tôi. Tôi cảm thấy tự hào về đất nước tôi, về làng Phù Bài quê hương tôi với truyền thống vẻ vang của ḍng họ Ngô mở đầu là Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân. Ngài vốn ḍng dơi người Trung Hoa. Ngày ấy, Ngài luyện Tiên phù, dạo chơi miền sơn thủy thấy vùng đất Phù Bài có bề thế đẹp, non nước hữu t́nh, địa thế rộng lớn có thể sinh cơ lập nghiệp được lâu dài, vĩnh viễn nên Ngài ở luôn tại đất Việt dựng cơi đắp bờ, khai khẩn đất hoang để mở làng. Lúc đầu rừng núi c̣n hoang vu, cây cối um tùm, gian tặc, tà ma c̣n lẫn trốn nhiều nơi, thú dữ thường hay quấy nhiễu dân làng, phá hoại mùa màng. Với pháp thuật cao cường, mưu chước, Ngài mới tiêu trừ được gian tặc, thú dữ đem lại cuộc sống an lành, hạnh phúc cho dân làng. Do đó dân làng rất biết ơn Ngài và ca tụng Ngài qua hai câu ca dao truyền đời : “Đức Ông thiệt đấng có tài Phép cao đuổi tặc chạy dài khiếp oai” Ngày xưa để tạ ơn Ngài, hàng năm khi làng tế Giang sơn và Thiên thần xong th́ làng sắm trầu rượu, lễ vật làm lễ tạ ơn Ngài đă có công đầu trong việc sáng lập và gây dựng cơ đồ cho làng. Sau khi Ngài thọ chung, làng lập điện thờ Ngài do Tự Thừa phụng tự, có trùm gia tơ lo lễ vật tế lễ và 2 từ phu trông giữ điện thờ. Làng tôi nổi tiếng về việc thờ tự, lễ nghi. Theo gia phả ḍng họ Ngô th́ kế thừa Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân là các Ngài truyền đời kế tiếp: Ngài Khai canh đại tông, Ngài Tùng bổn thổ khai khẩn, Ngài Dự bổn thổ khai khẩn và các Ngài Thủy tổ các tộc. Việc thờ tự các Ngài, làng tôi phân công phụng tự như sau: Ngài Bổn thổ Thành hoàng do Tự thừa phụng tự (nhiệm kỳ của Tự thừa là từ 4 đến 5 năm). Ngài Khai canh đại tông do Chánh trưởng phụng tự (nhiệm kỳ của Chánh trưởng là 3 đến 4 năm). Ngài Tùng bổn thổ khai khẩn. Ngài Dự bổn thổ khai khẩn do Hương trưởng phụng tự (nhiệm kỳ của Hương trưởng là 3 đến 4 năm) và Ngài Thủy thổ các tộc do Tộc trưởng phụng tự (nhiệm kỳ của Tộc trưởng là 2 đến 3 năm). Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân là một bậc “Nhân thần” đem lại hạnh phúc cho dân làng, được tôn phong công thần “Hộ Quốc Tư Dân” được triều đ́nh liệt vào tự điển và trải qua sáu triều đại sắc phong Ngài được tặng Quang ư Trung đẳng Thần. Ông nội tôi, cụ Tự thừa Ngô Đức Trác phụng tự Ngài Bổn thổ Thành hoàng Ngô Phủ Quân được hai nhiệm kỳ. Theo lời ba tôi, làm việc làng, việc họ rất công phu, chí công, vô tư và nhất là phải có cái tâm th́ mới đảm đương được công việc; phải làm ruộng hương hỏa có nếp gạo để bày cỗ tế tự, nuôi heo để giỗ chạp hàng năm, hội họp làng họ. Công việc này phải trải qua hàng chục năm mới thành thục được. Theo tục lệ của làng, Tự thừa, Chánh trưởng, Hương trưởng, Tộc trưởng khi nhậm chức phải thiết lễ yết kiến thủy tổ và làm tiệc khao đăi làng xóm, họ hàng và nhất là phải một ḷng phụng tự các Ngài chu đáo. Điện thờ các Ngài tọa lạc tại xứ Thành Vơ gần lăng mộ. Dưới triều Nguyễn, ngôi chính điện được tu tạo lại bằng ngói âm dương, ba gian, hai chái; có tiền đường, hậu trẫm. Phía trước có xây cửa tam quan, trụ biểu, la thành; có hồ thủy tạ, cây cối xanh tươi. Trên nóc tiền đường có khắc bốn chữ “Hiển Hách Anh Linh”. Ngoài việc phụng thờ các Ngài, hàng năm làng c̣n tổ chức ba đại lễ là tết Nguyên Đán, Đại tế Kỳ phúc và lễ Thanh minh. Trải qua bao thế kỷ, điện thờ các Ngài vẫn được con cháu truyền đời phụng tự chu đáo và trùng tu nhiều lần, trở thành một ngôi điện uy nghi, khang trang, đẹp đẽ. Đây là di sản tinh thần vô cùng quư báu của ḍng họ Ngô làng Phù Bài. Đêm nay, ở lại đây tại ngôi làng Phù Bài trong nhà thờ Phái Ngô Đức ḷng tôi bồi hồi, xúc động. Ngày mai, Phái tổ chức lạc thành đại trùng tu từ đường. Nh́n ba gian điện thờ uy nghi, sáng rực đèn hoa tôi chạnh nhớ đến ba tôi. Ba ơi ! Uống nước nhớ nguồn. Phát huy truyền thống tốt đẹp của ḍng họ Ngô làng Phù Bài, chúng con đă thực hiện đầy đủ di bút của ba để lại. Xin mượn lời thơ của ba tôi - cụ Phù Sơn Ngô Đức Đoàn để chấm dứt bài viết này: “ Phù Bài có động Sơn Phèn Có đồi Ngũ Nhạc có ḍng Cừ Giang Có ḥn núi Thiết danh vang Có rừng Thuận trực, có truông cát dài Bảy ngàn sáu mẫu hoang khai Hai ngàn hai mẫu đất đai ruộng đồng Đông tây hai giáp mêng mông
Ḷng Dân muôn thuở nhớ công Thành hoàng” Bùi Kim Chi
(Đồng Nai)
|