
Bây giờ sau hơn nửa thế kỷ, khi ngồi viết lại những gịng chữ này,
tôi vẫn khẳng định một điều: Nếu không có Lữ Quỳnh th́ không có
Nguyên Minh.
Phải, từ năm 1958 tôi về quê nội. Huế. Tôi mới bước chân vào giới
văn chương. Thuở ấy ở đất Thần Kinh có rất nhiều nhóm như một văn
đoàn nho nhỏ tập họp những học sinh, sinh viên tập tễnh làm thơ,
viết văn. Gió Mai nằm trong trường hợp đó. Khởi đầu chỉ có 4 người:
2 chàng bắt đầu từ chữ Lữ: Lữ Kiều, Lữ Quỳnh và 2 chàng trùng tên
chữ sau, Linh: Thùy Linh, Hoài Linh. Khi tôi, Châu Văn Thuận, Hồ
Thủy Giũ nhập bọn th́ Hoài Linh đă vào Nam bỏ cuộc chơi. Ngày đầu
tiên tôi dự buổi họp mặt với nhóm Gió Mai, tôi ngồi bên Lữ Quỳnh.
Những khuôn mặt xa lạ đang hào hứng nói về văn chương là những cậu
học tṛ tuổi chưa tới 17 ở xứ Huế này làm tôi hơi khớp. Lữ Quỳnh đưa
bàn tay năm ngón dài nắm lấy tay tôi như truyền hơi ấm, rồi anh cất
giọng đọc một bài thơ để tặng người bạn văn là tôi từ miệt xa mới
nhập cuộc.
Một vài năm sau, Lữ Quỳnh và tôi cùng ở chung một pḥng tại ngôi nhà
số 9 đường Hàng Đoác. Đó là dăy nhà sau của ngôi biệt thự xây cất từ
thời Pháp thuộc. Anh chị tôi dành cho tôi một căn pḥng nhỏ, sống
một ḿnh cũng buồn nên tôi rủ thêm Lữ Quỳnh về ở chung. Mặc dầu
nhiều lần chị tôi mời Lữ Quỳnh dùng cơm với gia đ́nh, nhưng anh đều
lấy cớ từ chối. Sau này tôi mới biết là Lữ Quỳnh đi ăn bụi ở một
quán cóc nào đó. Tiền nhuận bút từ những bài văn, bài thơ anh cộng
tác với nhật báo Công Dân ở Huế, tạp chí Mai, Phổ Thông, Bách Khoa ở
Sài G̣n. Thuở ấy có bài đăng ở những tạp chí văn học này là một điều
hănh diện của những người viết trẻ tuổi như chúng tôi.
Thuở ấy, ở Huế những anh chàng mới bước chân vào làng văn chương đều
tạo cho ḿnh một chân dung “nàng thơ”. Dung nhan “nàng thơ” lấy từ
một cô bạn láng giềng hoặc một người o, một người chị họ nào đó. Lữ
Kiều, Thùy Linh, Lữ Quỳnh cũng vậy. Những giai thoại về mối t́nh
ngây thơ, hư hư thực thực ẩn hiện trong những bài thơ, bài văn mà
suốt những năm tháng sau này gần hơn nửa thế kỷ “người đó” nào có
hay biết ǵ, hoặc nếu có, th́ cũng âm thầm giữ kín trong tim.
Người của Lữ Quỳnh đi lấy chồng, Lữ Quỳnh buồn, làm thơ trên những
trang giấy học tṛ rải đầy trên giường, thức khuya dậy sớm, trằn
trọc, nắn nót những gịng chữ thật bay bướm làm thành một tập thơ
mang tên “Thác loạn”. Thuở ấy tôi cứ tưởng anh đau khổ v́ biết ḿnh
mang chứng bệnh ǵ đó, như lời anh nói khi làm tập thơ này. Sau này
tôi mới khám phá ra sự thật. Căn bệnh anh mang có tên “tương tư”,
của một nhà thơ mới biết yêu lần đầu. Đến tuổi xế chiều Lữ Quỳnh bộc
lộ t́nh cảm đó qua bài thơ:
ngày nào mượn thơ
Nguyễn Bính để tỏ t́nh chị
nhớ ngày rất trẻ tôi yêu chị
chép Xuân Tha Hương cả chục lần
tết này chưa chắc em về được
em gửi về đây một tấm ḷng (*)
tặng chị kèm theo t́nh mới lớn
từng đêm dơi bóng ngoài sân trăng
đem thơ chị ép vào trang sách
chị nhốt t́nh tôi thật lạnh lùng
từ đó xuân qua rồi xuân tới
chị giă từ tôi đi lấy chồng
tôi đem thơ dại phơi ngày tháng
thương chị từ nay phải bế bồng
rồi tháng ngày qua theo cánh gió
giang hồ em chị tóc pha sương
ḷng xưa giậu đổ bờ hiu quạnh
biền biệt tin nhau… nhạn cuối trời
gửi chị bài thơ đang viết dở
nhờ mây mượn gió cuốn thơ đi…
(*) Nguyễn Bính (1918-1966)
Con đường mang tên Những linh hồn đứng
Những đêm trăng thanh gió mát, trời về khuya, tôi và Lữ Quỳnh lén
leo qua cổng rào ngôi biệt thự, để ra con đường tráng nhựa láng, đi
lang thang dưới hai hàng cây đoác sừng sững bên vệ đường. Lữ Quỳnh
bước những bước chân sải dài, tôi theo sau. Trời về khuya, không một
bóng người. Cả hai ngồi bệt giữa đường, ánh trăng chiếu vào những
ngọn lá đoác đang lắc lư chạm vào nhau theo con gió thổi, phát ra
những âm thanh như tiếng ai rên rỉ, tỉ tê, từ khu nhà xác của bệnh
viện Huế gần đó. Những oan hồn vất vưởng của những xác chết từ một
viên đạn, từ một mă tấu mà chiến tranh vừa ló dạng. Sau 1954 đất
nước chia đôi, hưởng được không khí thanh b́nh chỉ vài năm, nhất là
ở nông thôn chiến tranh du kích lại tái diễn. Quê hương của Lữ Quỳnh:
làng Mỹ Lợi bất ổn. Mười năm sau những người thân của Lữ Quỳnh lần
lượt xuất hiện như Chiến nhân vật trong truyện ngắn
Cát Vàng, như
chàng nhạc sĩ trong Bóng tối dưới hầm đăng trên tạp chí Ư Thức mà Lữ
Quỳnh là một trong những người chủ trương.
Trở lại nói về ngôi nhà số 9 đường Hàng Đoác. Lữ Quỳnh đặt tên mới
cho con đường, phổ biến trong nhóm Gió Mai và khi Lữ Quỳnh gởi những
bài văn của anh cho các tạp chí văn học đều ghi phía dưới:
Viết từ
con đường Những Linh Hồn Đứng. Tôi đă viết một bài mang tên “Những Linh Hồn Đứng” tặng Lữ Quỳnh trong tập Tưởng Chừng Đă Quên.
Một chi tiết măi đến giờ vẫn làm tôi xúc động về t́nh cảm anh đối
với người Mẹ. Thuở ấy tôi vừa mới mồ côi Mẹ. Năm 17 tuổi, tuổi đă
thành niên, nhưng tôi vẫn đau buồn về nỗi mất mát quá lớn. Người Mẹ.
C̣n cha tôi đă để lại những dấu ấn khắc nghiệt trong thời thơ ấu nên
t́nh cảm tôi đối với ông gần như xa cách.
Một buổi chiều có một người đàn bà, xách một cái giỏ lát đựng những
trái cây đứng trước của pḥng tôi, nghe tiếng gơ cửa tôi cứ tưởng
chị tôi muốn gặp. Tôi ngỡ ngàng không biết người đang đứng ngại
ngùng trước mặt ḿnh. Giọng Huế trọ trẹ: – Có phải Ngô đang ở đây.
Tôi mừng quá, mơ tưởng như Mẹ ḿnh c̣n sống lặn lội từ xa cả ngàn
cây số ra thăm. Tôi cầm lấy tay bà dắt vào pḥng.Tôi ngạc nhiên khi
thấy phản ứng của Lữ Quỳnh, anh không bằng ḷng sự hiện diện của Mẹ
tại đây. Anh luống cuống và năn nỉ Mẹ ra về. Người Mẹ thất thểu bước
đi, không ngoảnh lại. Chiếc giỏ đựng đầy trái cây bỏ lại một góc
pḥng. Sau đó, suốt đêm Lữ Quỳnh thao thức, trằn trọc. Nỗi thương
nhớ, khổ đau tràn ngập qua trang thơ. Những tác phẩm sau này như
Những Cơn Mưa Mùa Đông, Vườn Trái Đắng, h́nh ảnh người Mẹ cứ chập
chờn qua trang viết. Bấy giờ tôi mới biết hoàn cảnh thật sự của Lữ
Quỳnh. Anh mồ côi cha từ nhỏ, mẹ đi lấy chồng khác. Anh sống tự lập.
Hai câu thơ viết về mẹ vào một đêm đông:
…mưa gió ngoài hiên xào xạc măi
con nằm nhớ mẹ khóc không thôi…
Những ngày mùa hè, nghỉ học Lữ Quỳnh rủ tôi về thăm quê anh. Làng Mỹ
Lợi. Chúng tôi phải đi ghe máy từ Cầu Hai cả mấy tiếng đồng hồ. Đây
là lần thứ hai tôi đến đó. Năm trước tôi đi với chị Thu Vân (sau này
là nhà thơ Trần Thy Nhă Ca). Tôi vẫn có cảm t́nh đặc biệt nơi này.
Cảnh đẹp, núi Túy vân, băi biển cát trắng mịn. Cuộc sống hai mặt:
ban ngày của quốc gia, ban đêm của du kích. Là nơi sinh ra đức Từ
Cung, mẹ của vua Bảo Đại triều Nguyễn. Cũng là nơi nuôi nấng, ấp ủ
những nhà văn nhà thơ: Lữ Quỳnh, Trần Đ́nh Sơn Cước, Nguyễn Miên
Thảo, Chu Sơn…
Tưởng rằng không bao giờ về sống lại nơi anh đă sinh ra, cùng bao
nhiêu kỷ niệm đau buồn thời thơ ấu. Cũng như tôi. Bỏ Huế vào Sài G̣n
làm báo. Lữ Quỳnh bỏ Huế về quê làm nghề gơ đầu trẻ. Rồi cũng như
những thanh niên khác, đến tuổi phải lên đường ṭng quân. Thời ấy,
chúng tôi không có quyền lựa chọn. Chính lịch sử đă đưa đẩy thế hệ
chúng tôi ở miền Nam vào một trong ba con đường. Một là vào rừng
theo Mặt trận. Hai là mặc áo lính Cộng ḥa. Ba là trốn chui trốn
nhủi. Lữ Quỳnh may mắn hơn là anh chỉ làm lính văn pḥng. Sĩ quan
hành chánh quân y. Bệnh viện Duy Tân, Đà Nẵng. Năm 1966 tôi ra Đà
Nẵng trúng ngay thời điểm biểu t́nh, xuống đường, có lúc bạo động
bắn phá nhau trong thành phố giữa quân ly khai từ Huế kéo vào, đ̣i
lật đổ chế độ quân phiệt Thiệu-Kỳ. Tôi và Lữ Quỳnh gặp nhau chỉ
trong giây phút trước khi lệnh giới nghiêm ban hành. Sau đó Lữ Quỳnh
bị đổi vào B́nh Định. Ra đi, v́ trả giá cho một cuộc dấn thân.
Bấy giờ thành phố Qui Nhơn đă mở trường Sư Phạm. Nơi từng có dấu vết
của Trịnh Công Sơn. Những bản nhạc như Biển Nhớ, Trường ca Dă Tràng
đă ra đời. Nơi tôi và Thùy Linh mang cả Gió Mai vào cuộc chơi. Nơi
chị Kim Nhung gặp chàng thi sĩ Lữ Quỳnh. Cuộc đời họ gắn vào nhau
đến bây giờ. Không hẹn mà gặp. Ra trường chị đổi về thị xă Phan
Rang, trước đó vài năm tôi và Thùy Linh đă về nhận nhiệm sở tại nơi
này.
Lữ Quỳnh thường vào thăm vợ. Chúng tôi có dịp làm báo Gió Mai tha
hương, quay ronéo; đến sau tết Mậu Thân 1968 có thêm vài anh em khác
như Lê Kư Thương, Vơ Tấn Khanh, Ngụy Ngữ, Trần Hoài Thư, Trần Hữu
Lục… nhập cuộc để trở thành Ư Thức. Tờ báo khổ A4, bài vở tập họp
những anh em ở rải rác các tỉnh thành miền Nam. Chủ biên bấy giờ là
Ngy Hữu (bút hiệu mới của Thùy Linh Trần Hữu Ngũ). Tôi chỉ lo phần
ấn loát. Ṭa soạn: Theo chân người viết. Thực tế là ngôi nhà số 11
đường Nguyễn Thái Học – Phan Rang. Tuy là tờ báo quay ronéo nhưng đă
có tiếng vang từ nội dung và h́nh thức trong giới văn nghệ miền Nam
bấy giờ. Tờ Ư Thức ronéo ra được 6 số rồi theo tôi vào Sài G̣n,
chính thức thành Bán Nguyệt san hợp pháp, đứng tên chủ nhiệm: Dược
Sĩ Nguyễn Thị Yến, một cô bạn thân của tôi. Nguyên Minh: Tổng Thư kư
Ṭa soạn. Bên tôi mấy số đầu tiên có Lê Kư Thương phụ tá. Lữ Quỳnh
là cột trụ Ư Thức, kết hợp một số cây viết có nội lực như Nguyễn
Mộng Giác, Trần Hoài Thư, vào nhóm chủ trương dù anh cùng vợ con
chuyển hẳn vào ở Qui Nhơn. Tại đó Lữ Quỳnh thường xuyên trao đổi về
văn chương với Nguyễn Mộng Giác, Châu Văn Thuận. Anh lập nhà sách
Hàm Thụ trong hệ thống phát hành sách của tôi, để đẩy mạnh sách báo
đến tận tay độc giả. Thời điểm này sức sáng tác của Lữ Quỳnh đều đặn,
mang tính phản chiến, đúng như tinh thần của nhóm Ư Thức.
Tác phẩm Cát Vàng, Sông Sương Mù, tập họp từ những truyện đăng trên
tạp chí Ư Thức do nhà xuất bản cùng tên của tôi chủ trương. Tập
truyện vừa Những Cơn Mưa Mùa Đông th́ do nhà xuất bản Nam Giao của
một người bạn tôi.
Một kỷ niệm mà măi đến giờ tôi vẫn h́nh dung rơ mồn một, khuôn mặt
bỗng trở nên căng thẳng khi tôi nói đùa: “Tờ Ư Thức chỉ ra đến số 8
rồi bị đóng cửa, nên tôi buồn quá bay ra Qui Nhơn chơi với anh em.”
Lữ Quỳnh lặng người, đôi mắt anh nh́n xa xăm. Không nỡ kéo dài nỗi
buồn của bạn ḿnh, tôi mới nói thật: “Làm sao Ư Thức chết được, tôi
ra bàn tính với anh là thay đổi h́nh thức tờ báo từ khổ chữ nhật mà
hầu hết các tạp chí ở Sài G̣n đang thịnh hành, thành khổ vuông đặc
biệt riêng ḿnh một cơi.” Lữ Quỳnh cười tươi, đưa bàn tay nắm chặt
lấy cánh tay tôi như một quyết tâm. Phần tôi như được anh em tiếp
sức.
Những ngày ra Qui Nhơn, tôi ở nhà Lữ Quỳnh, bấy giờ anh mới có đứa
con đầu ḷng. Một buổi sáng, ánh nắng chiếu qua khe cửa thành một
vệt dài trong pḥng, t́nh cờ tôi bắt gặp h́nh ảnh cậu bé sáu tháng
tuổi đang đưa bàn tay nhỏ ra chụp lấy nguồn ánh nắng đó như một tṛ
đùa, rồi cậu bé cười như vừa khám phá ra điều ǵ. Tôi gọi Lữ Quỳnh
đến, phán một câu: “Lữ Quỳnh sẽ có người nối dơi văn chương sau này
đó”. Thật vậy, đứa bé sáu tháng tuổi ngày ấy là cháu Phan Triều Hải.
Mấy mươi năm sau Hải trở thành nhà văn, với tác phẩm Vào đời, Có một
người nằm trên mái nhà, Tôi đi học… C̣n Lữ Quỳnh th́ im hơi lặng
tiếng. Dù những năm tháng sau 1975 ở Huế rồi vào Sài G̣n qua bao
nhiêu khó khăn, làm đủ nghề để sinh sống, cuối cùng anh cũng đeo
mang con đường chữ nghĩa, không phải sáng tác nhưng chuyển qua làm
xuất bản, in ấn. Anh liên kết với nhà xuất bản Trẻ, Văn Nghệ, chăm
chút từng trang in của các tác giả trong nước như Sơn Nam, Đỗ Hồng
Ngọc, Huỳnh Phan Anh… các tác giả nổi tiếng từng được giải Nobel như
Hemingway, Gabriel Garcia Marquez…
Trong một buổi họp mặt anh em Ư Thức cũ tại một quán ăn cạnh chợ Tân
Sơn Nhất, tôi gợi ư Lữ Quỳnh t́m cách liên kết xuất bản, in lại
những tác phẩm của anh trước năm 1975, tôi không ngờ phản ứng trái
ngược làm tôi đau ḷng. Anh phủ nhận những tác phẩm của Lữ Quỳnh
ngày đó không có giá trị ǵ cả. Chỉ là thứ vứt đi. Vàng son của một
thời đă qua có thể là rong rêu của một thời hiện tại. Tôi cũng không
ngờ phản ứng của tôi lúc ấy với người bạn văn thân thiết. Tôi nói
thẳng với Lữ Quỳnh: “Tôi không chơi với người như Lữ Quỳnh nữa.” Tôi
bỏ đi vào nhà vệ sinh, nh́n tấm gương trước mặt ḿnh và tôi nh́n
thấy tôi đang khóc ṛng. Như một đứa trẻ khóc nức nở về người Mẹ mới
chết.
Nỗi đau ấy đă tan đi, nhường lại một nỗi vui không xuể khi tôi nhận
được tác phẩm Cát Vàng cộng thêm vài truyện ngắn lấy từ tập Sông
Sương Mù được tái bản ở Mỹ. Tranh b́a Đinh Cường, tựa của Nguyễn
Mộng Giác. Rồi Những Cơn Mưa Mùa Đông gần đây cũng xuất hiện. Chẳng
những về văn mà thôi, Lữ Quỳnh ồ ạt ra những tập thơ mới sáng tác
trong những năm tháng sau này khi định cư cùng gia đ́nh ở Mỹ, như
“Sinh nhật của một người không c̣n trẻ”, “Những giấc mơ tôi”… Lữ
Quỳnh trở lại ban đầu làm thơ trước khi viết văn.
Rất tiếc Lữ Quỳnh c̣n một tác phẩm đăng trên Ư Thức dở dang là
truyện dài “Vườn Trái Đắng” mà bản thảo duy nhất đánh máy, trước năm
1975, đă bị sở Phối hợp Nghệ thuật Sài G̣n (của chế độ cũ) cấm xuất
bản đến lần thứ ba. Sau này “Vườn Trái Đắng” nộp cho cơ quan văn hóa
thời mới tiếp thu, cùng một số phận văn hóa phẩm được mệnh danh “đồi
trụy” vào cơn lửa thiêu hủy.
Nhớ lại, một lần Lữ Quỳnh từ Mỹ về, hai chúng tôi cùng vào những Thư
viện lớn của Sài G̣n để t́m lại những bài thơ, bài văn đă đăng trên
các tạp chí văn học trước năm 1975 như Phổ Thông, Bách Khoa, Khởi
Hành, Ư Thức… Đứng trước máy vi tính trước khi vào pḥng đọc sách
tôi đánh mấy chữ Tạp chí Ư Thức, giây lát xuất hiện trên màn h́nh
xuất xứ, tên chủ nhiệm, tên Tổng thư kư ṭa soạn. Tôi như gặp lại
người yêu cũ tưởng đă biệt tăm. Tôi đưa tay lên chào như đón một
người thân. Lữ Quỳnh cũng cười theo. Chúng tôi ngồi suốt cả ngày t́m
ṭi và nhờ nhân viên photo copy. Anh đem qua Mỹ để in lại sách.
Hôm nay ở quê nhà, chúng tôi tự hỏi, tại sao một Tập san Tư liệu và
Sáng tác Văn học Nghệ thuật không làm một số chủ đề về nhà văn, nhà
thơ Lữ Quỳnh của một thời Ư Thức đă qua, cũng là người cưu mang chữ
nghĩa suốt cuộc đời của ḿnh?
Đó chính là lư do mà tạp chí Quán Văn số 25 (tháng 8/ 2014) thực
hiện, và trân trọng gửi đến quư độc giả.
21-7 /10- 8- 2014.
Nguyên Minh
Quán
Văn 25
art2all.net