Đặng Tiến
Hạnh phúc trong tác phẩm Nhất Linh Nhớ Vũ Khắc Khoan, người đi trước.
- Trời muốn trở rét... Nói xong và nghe tiếng ḿnh nói, Trúc nhớ lại rằng câu ấy chàng đă thốt ra nhiều lần, năm nào cũng vậy. Sự rung động êm ái và hiu hắt buồn trước cơn gió lạnh đầu tiên khiến vẻ mặt Trúc trở nên dịu dàng và thoáng trong một giây chàng sống lại hết cả những ngày mới trở rét trong đời.
(...)Tuy đă cuối
tháng chín nhưng đối với Trúc cứ lúc nào trời đổi gió heo may mới thực
là lúc bắt đầu mùa thu (1).
Với một nhà văn lớn,
viết là sống, và sống cuộc đời sâu thẳm nhất của ḿnh. Nghệ thuật thể
hiện trên trang giấy là hơi thở của tâm hồn, hơi thở hồn nhiên, dồn dập
hay thanh thản. Với Nhất Linh, viết là một nhu cầu, một hạnh phúc. Trước
khi viết cho người khác đọc, ông viết cho chính ḿnh; đọc Nhất Linh ta
có cảm tưởng tác giả hưởng thụ văn ḿnh, hưởng thụ cảm giác những lời
văn gợi ra, như đó không phải là lời văn của chính ḿnh nữa. Nhất Linh
hô hấp không khí trong tác phẩm ḿnh một cách lạc thú như người ta hô
hấp một không gian hằng mơ ước; một văn nghệ phẩm, nh́n dưới khía cạnh
nào đó, bao giờ cũng là giấc mơ sự thật, Nhất Linh sống sự thật của
những giấc mơ mà ḿnh thể hiện trên trang giấy.
Do đó đề tài hạnh
phúc là chủ đề căn bản trong tác phẩm Nhất Linh, là nguyên lư cấu tạo,
h́nh thành và thể hiện tác phẩm, ít nhất cũng là trong tương quan với
tác giả; quan hệ này được xác nhận qua mối gắn bó mật thiết, chung thủy
giữa tâm hồn tác giả và tác phẩm, từ một Nhất Linh mới bước vào văn giới
đến Nhất Linh lúc ĺa đời. Quan niệm nghệ thuật Nhất Linh từ Đoạn
Tuyệt, 1935, tới Đôi Bạn 1936, cách nhau một năm, hay về sau,
từ Đôi Bạn đến Xóm Cầu Mới quả có thay đổi, nhưng quan
niệm hạnh phúc của Nhất Linh từ những đêm trăng của Nho Phong,
1924, đến buổi b́nh minh trong Vọng Quốc, 1961, vẫn nhất quán.
V́ hạnh phúc là chiều
hướng của tiềm thức; người ta có thể thay đổi quan điểm của ư thức, ai
làm sao xoay chiều được ư hướng của thâm
tâm? *
Hạnh phúc là một cảm
giác, là một chiều hướng; trước khi là một quan niệm. Và quan niệm hạnh
phúc, trong mỗi người là nguồn gốc của thái độ nhân sinh; nói khác đi,
nhân sinh quan không phải là tổng số, mà là hàm số của cảm giác.
Chiều hướng hạnh phúc
trong tiểu thuyết Nhất Linh nghiêng theo độ dốc của thiên nhiên. Nhất
Linh sống trong nỗi hoài nghi êm ả của Lăo Trang, và nói theo Lâm Ngữ
Đường, th́ nhân vật Nhất Linh “tự lấy làm măn nguyện trong một thế
giới không hoàn mỹ” (2). Đó là yếu tố cơ bản mở rộng tâm hồn Nhất
Linh thành một sự chờ đón mông mênh. Tư tưởng Lăo Trang đă phảng phất
trong không gian buồn nhẹ, êm ái trong Đôi Bạn; đến Bướm
Trắng, 1939 ảnh hưởng ấy đă hiện h́nh rơ rệt qua đề tài của tác phẩm,
qua thái độ con người trước cơi sống và cơi chết, trước sự phân biệt thị
phi, tốt xấu, và ngay tiêu đề của tác phẩm cũng đă chất chứa h́nh ảnh
của một loài Bướm Trắng chuyên chở cuộc sống về biên giới của hư
vô, chập chờn trong giấc mộng Trang sinh. Khuynh hướng siêu thoát, đợi
đến giai đoạn cuối đời, Nhất Linh mới thừa nhận trực tiếp: trong cuộc
sống ông đă đi t́m thanh thái trong những đóa lan rừng bên ḍng suối Đa-mê.
Trong nghệ thuật, ông thể hiện ư hướng thoát tục qua nhân vật Ngọc và
Lan trong Gịng sông Thanh Thuỷ. Thật ra ư hướng siêu thoát của
Nhất Linh, từ đầu đă mang hơi hướm Lăo Trang, tan loăng trong thời gian;
nhân vật Nhất Linh chưa bao giờ có quan niệm vị kỷ của Dương Chu, cũng
không theo hệ thống giáo điều của Nam hoa kinh. Ở đây, Nhất Linh
thoả hiệp nét cường tráng, dấn thân của Mạnh Tử và cái vô vi, thoát tục
của Trang Chu trong một nhân sinh quan Á Đông, gần với dân gian, hay tư
tưởng Việt Tộc, thời Lư Trần, hơn là những Chu Liêm Khê hay Trương Hoành
Cừ thời Tống Nho. Nói khác đi, Nhất Linh đă quan niệm hạnh phúc chỉ ở
ḷng ḿnh, hạnh phúc chỉ ở sự yên tĩnh của tâm hồn (3). Câu này Nhất
Linh viết khoảng 1935, và suốt đời ông, ông vẫn quán hạ. Con người nghệ
sĩ của nhà văn Nhất Linh nghiêng về khuynh hướng thoát tục của Lăo Trang
hơn là khuynh hướng nhập thế của Khổng Mạnh, và khi con người chính trị
trong Nhất Linh lùi bước, khi Nhất Linh ngán ngẩm thế quyền ước ao rời
bỏ chính trường, th́ ông cho những nhân vật dấn thân, chiến đấu, của
Gịng sông Thanh Thủy ngâm thơ Tào Đường, c̣n chính bản thân ông th́
đi t́m trong những đoá lan rừng một chút hương thơm mộng, một thoáng
mơ tiên thoảng xuống trần (4). Giai đoạn cuối của đời ông, khuynh hướng xuất thế đă nhuốm màu sắc thần tiên của đạo giáo. Nhưng người công dân Nhất Linh, chính khách Nguyễn Tường Tam vẫn dấn thân vào thời cuộc, nhận lănh trách nhiệm trước lịch sử và tự chọn cái chết. Làm nhớ nhân vật Kyo trong Thân phận làm Người, La Condition Humaine, 1933, của nhà văn - chính khách André Malraux:
“ Anh vẫn hằng
nghĩ rằng: thật đẹp khi chọn cái chết của ḿnh, cái chết đồng dạng với
kiếp sống. Và chết là thụ động, nhưng tự vẫn là hành động” (Il a
toujours pensé qu’il est beau de mourir de sa mort, d’une mort qui
ressemble à sa vie.Et mourir est passivité, mais se tuer est acte »
(5)
Trên nền tảng trung
hoà giữa minh triết và vô vi đặc biệt của đông phương này, nhiều lớp phù
sa mới đă bồi vào thế hệ Nhất Linh; nhiều người trực tiếp hay gián tiếp
chịu ảnh hưởng của văn hào Pháp quan trọng thời đó là André Gide. Trong
văn nghiệp, tuy thỉnh thoảng có nhắc qua tên Gide, Nhất Linh chưa bao
giờ bày tỏ cảm t́nh đặc biệt nào với Gide, như là với Leon Tolstoi, hay
Somerset Maugham... Nhưng Nhất Linh sang Pháp khoảng 1927-1930, giữa
giai đoạn khí hậu văn học Pháp đang thịnh hành tư trào gọi là gidisme,
giải phóng nhục cảm, và giữa lúc Nhất Linh đang sống tuổi hai mươi niềm
nở, hăng say. Trong tâm hồn Nhất Linh, và giới trí thức tân học thời đó,
khuynh hướng vô ngă của Đông phương đă cọ xát với cá nhân chủ nghĩa sôi
nổi của Tây phương, cái nh́n viên hoạt hiếu hoà của Lăo Trang, phải thử
thách với sinh lực hiếu động của Nietzsche.
Cuộc hôn phối ngang
trái giữa hai nguồn tư tưởng ngược chiều này đă tạo ra hạnh phúc diễm lệ
trong tác phẩm Nhất Linh.
Hạnh phúc theo Lăo
Trang là thái độ vô vi; trái lại Gide chủ trương tra tấn cuộc đời mới
chiếm đoạt được hạnh phúc, thứ hạnh phúc toàn diện, tuyệt đối xây dựng
trên một số mệnh đựoc khắc phục. Trực tiếp hay gián tiếp, Nhất Linh học
được của Gide giá trị của cảm giác, phương pháp khai thác, phát triển
ngũ quan để tiếp nhận, để tận hưởng hương vị của trần thế. Nhất Linh học
của Tây phương lối hưởng thụ tự do, ngoài sự ràng buộc của hôn nhân,
những ràng buộc sẽ làm tê liệt cảm giác, giam hăm tâm trí, đày đoạ thời
gian. Nhất Linh học được của Gide cách đầu tư tâm hồn vào việc phân tích,
tra vấn cảm xúc, cách bắt chợt hạnh phúc đang qua, cách chờ đợi hạnh
phúc đang đến, cách thụ hưởng đến tối đa những niềm vui nhỏ bé nhất.
Gide bảo:
“Nathanael, tôi sẽ
dạy anh say sưa... Nathanael, ḷng thèm muốn đến đâu, tôi sẽ đi đến đấy...
Nathanael, hăy ngắm nh́n những nơi anh đi qua, nhưng đừng bao giờ dừng
lại... Điều quan trọng ở trong cái nh́n của anh chứ không phải ở vật anh
nh́n... Nathanael, nói thật với anh rằng những ham muốn làm tôi lạc thú
hơn là khi đạt tới điều ham muốn... Hăy đi vào vườn lạc thú với những
phương tiện ít ỏi nhất. Không nên sở hữu ǵ cả. Không nên chọn lựa, v́
chọn lựa là từ chối, là không bao giờ hưởng được những cái c̣n lại, mà
muôn ngàn cái c̣n lại sẽ có giá trị hơn một đơn vị anh lựa chọn.
Nathanael, mỗi
phút chờ đợi, trong anh khoan là một ham muốn, nhưng hăy là một thái độ
sẵn sàng tiếp nhận; hăy chờ những ǵ đang đến với anh; nhưng chỉ nên ước
muốn những ǵ thuộc về anh, những ǵ của anh...
Nathanael, đừng
phân biệt Thượng đế với Hạnh phúc” (6).
Giáo điều của André
Gide đă trở thành một thứ thánh kinh cho một thế hệ thanh niên nào đó.
Lời khuyên của Gide sẽ ngân vang trong một thời đại, và dư âm xa xôi c̣n
vọng từ Pháp sang các nước thuộc địa, như trong tác phẩm Nhất Linh hay
tùy bút Nguyễn Tuân những năm 1940. Dĩ nhiên là đến Nhất Linh, âm hưởng
ấy đă phôi pha rất nhiều, đă phân hoá trong điều kiện xă hội Việt Nam,
tinh thần của Nhất Linh. Nhưng đọc Đôi Bạn, Bướm Trắng, Gịng sông
Thanh Thủy..., qua những im lắng đón chờ hạnh phúc, ta không thể nào
không nghĩ đến Lương thực trần gian (Les Nourritures Terrestres)
của André Gide (1869-1951).
Có thể, đối với Nhất
Linh, Gide không phải là tri kỷ, nhưng ít ra, Gide cũng là một thời đại.
Tolstoi, cũng đă làm nên một thời đại, lại có một ảnh hưởng quyết định
khác, trong tư tưởng Nhất Linh, ảnh hưởng mà Nhất Linh đă nhiều lần công
nhận một cách măn nguyện. Thật ra, Nhất Linh chỉ nhận ḿnh chịu ảnh
hưởng của Tolstoi về kỹ thuật tiểu thuyết. Nhưng, trên nguyên tắc “văn
tức là người” chúng ta tự hỏi tại sao Nhất Linh lại yêu mến “văn”
Tolstoi đến không ngớt lời ca tụng trong Viết và đọc tiểu thuyết.
Kỳ thật là v́ Nhất Linh tự yêu ḿnh qua tâm hồn Tolstoi, và qua văn
Tolstoi. Khí hậu trong tiểu thuyết Tolstoi mang đến cho Nhất Linh nỗi u
hoài hiu hắt và êm ái của đợt nắng cuối năm lảng vảng trên các ngọn đồi.
Nhất Linh trên con đường t́m đến hạnh phúc, đă gặp Tolstoi trong niềm im
lặng quạnh hiu của cánh đồng thảo nguyên cỏ chạy đến chân trời. Hai tâm
hồn đă gặp nhau trên hạt sương long lanh đọng ở đầu đọt lá. Stefan Zweig
đă mô tả nghệ thuật của Tolstoi bằng những lời lẽ, nếu áp dụng vào nghệ
thuật Nhất Linh có lẽ cũng không sai bao nhiêu:
“Nghệ thuật ấy, có
thể gọi được là nghệ thuật của mùa thu: mỗi đường nét in rơ rệt như cắt
trên chân trời không núi đồi của những cánh đồng cỏ nước Nga, và mùi
hương xót xa của những nhân vật đang úa héo, đang tàn phai phảng phất
trong những khu rừng mờ nhạt; không thấy mặt trời, chỉ đoán chừng là có
nắng...
Trong thiên nhiên
của Tolstoi, người ta luôn luôn có cảm giác mùa thu; mùa thu sắp chuyển
sang đông, cái chết sắp tràn vào vũ trụ, và con người, con người muôn
đời trong mỗi chúng ta sắp ngừng sống. Thế giới Tolstoi là thế giới
không mơ mộng, không ảo giác, một thế giới trống trải đến tàn nhẫn, thế
giới không có Thượng đế” (7).
Hạnh phúc trong
Tolstoi là niềm vui nhẹ nhàng của con người chấp nhận những điều kiện
của trần gian, niềm vui đơn sơ của những tâm hồn mộc mạc sống với thiên
nhiên, không bao giờ ao ước một đời sống khác hay tra vấn thân phận để
t́m ư nghĩa cuộc sống. Nhất Linh học được của Tolstoi lẽ tương đối của
luật tiến hoá để biết rằng con người ngàn năm vẫn không thay đổi. Nhân
vật Nhất Linh cũng như nhân vật Tolstoi không có những băn khoăn siêu
h́nh xa ĺa cuộc sống mà chỉ sống cuộc đời thản nhiên, b́nh dị. Nhưng
hạnh phúc của Tolstoi là một thứ hạnh phúc u trầm, lạnh nhạt, Nhất Linh
nghĩ nghệ thuật của Tolstoi đă gần tới được tuyệt đích song c̣n thiếu
chút duyên của nụ cười quyến rũ (8).
Dĩ nhiên là Tolstoi
không có được nụ cười hiền triết của đông phương, nụ cười mà Nhất Linh
đă đi t́m mà không gặp trong cuốn Đi Tây, nụ cười đó chỉ mới
duyên dáng trên môi của Trúc trong Đôi Bạn sẽ trở thành hồn nhiên
quyến rũ trên môi Ngọc trong Gịng sông Thanh Thủy. Một nét nghệ
thuật phúng thế, nét u mặc, uy mua (humour) vẫn có trong tâm hồn Việt
Nam.
Nhất Linh gặp Tolstoi
ở ư hướng gửi gắm h́nh ảnh của ḿnh vào nhân vật. Nhân vật của Tolstoi
thường mang khuôn mặt của tác giả, từ Olénine trong Les Cosaques,
đến Pierre trong Guerre et Paix, Lénine trong Anna Karénine
và Saryzine trong La Lumière dans les Ténèbres. Trong tác phẩm
của Nhất Linh, người đọc bắt gặp rất nhiều lần khuôn mặt của tác giả qua
Dũng và Trúc trong Đôi Bạn, Trương trong Bướm Trắng, Ngọc,
Tường, Ninh, Thanh trong Gịng sông Thanh Thủy; và nhiều nét quen
thuộc trong các truyện ngắn từ Hai Buổi Chiều Vàng, 1934, đến
Mối T́nh Chân, 1948. Hạnh phúc của nhân vật chính là hạnh phúc của
bản thân Nhất Linh, một cánh bướm trắng từ tư tưởng Lăo Trang nương theo
những cơn gió mới của Tây phương bay đi t́m Thiên thai của ḷng ḿnh.
Sau khi truy tầm
những yếu tố đă cấu tạo hay ảnh hưởng đến quan niệm hạnh phúc Nhất Linh,
chúng ta sẽ xét những đặc tính của hạnh phúc đó trong không gian, trong
thời gian, và trong nhân gian.
Hạnh phúc, trước hết
là cảm giác tự măn trong một không gian không hoàn mỹ. Hạnh phúc của
Dũng trong Đôi Bạn là cuộc khám phá thầm lặng vẻ đẹp của một thế
giới không tuyệt mỹ.
Nhân vật Nhất Linh mở
cả năm giác quan để đón đợi sự khám phá đó, trải rộng đời sống cho mối
tiếp xúc giữa tâm hồn và ngoại cảnh. Cảm giác phải bén nhạy, phải căng
thẳng, một “không gian như có dây tơ” đón chờ cơn gió nhẹ thổi qua, như
mặt nước hồ im, ghi nhận những xao xuyến nhẹ nhàng của ánh nắng, như
bầu trời trong, thật trong, tựa hồ không có nữa, để nâng hờ một mùi
hương không tên nhẹ thoảng. Ngũ quan phải được giáo dục thẩm mỹ tinh vi,
tinh vi đến chỗ không c̣n phân biệt được một cảm xúc, một cảm giác và
một cảm tưởng: tất cả đều xoá nḥa trong vạt nắng nghiêng từ nội tâm đến
ngoại giới. Bóng chiều xẫm dần, không khí mỗi lúc một trong hơn lên, trong như không có nữa, mong manh như sắp tan đi để biến thành bóng tối. Một mùi thơm nhẹ thoảng đưa, hương thơm của tóc Loan hay hương thơm của buổi chiều? Mắt Loan lặng nh́n Dũng; nàng nói:
- Em nghe thấy
tiếng sáo diều ở đâu đây (9).
Đặc tính của không
gian hạnh phúc bắt nguồn từ thực tế của cảm giác mà đồng thời phải xa
ĺa thực tế đó để đồng hoá trong tâm linh, để tan thành niềm vui. Ánh
sáng phải sắp sửa không c̣n là ánh sáng nữa, mùi hương mơ hồ như không
c̣n là mùi hương nữa, tiếng sáo chợt quên xuất xứ; không gian loang ra,
tan đi, mờ dần để không c̣n là một không gian nữa mà trở thành sự hoà
hợp d́u dặt giữa nội tâm và ngoại giới trong niềm vui bất tận của cuộc
sinh tồn nhất thể.
Mùi hoa khế đưa
thoảng qua, thơm nhẹ quá nên Dũng tưởng như không phải là hương của một
thứ hoa nữa (10).
Phải, đó chỉ là niềm
vui của tâm hồn tan ra trong trời đất và đậu lại trên một cánh hoa.
Không phải là hương hoa khế, hay hương tóc Loan hay hương buổi chiều, mà
chỉ là hơi thở của tâm hồn dừng lại giữa biên giới của thực tế và hư vô.
Tâm hồn Nhất Linh là giao thoa giữa trăm vạn mùi hương, hương hoa khế,
hoa cau, hương gỗ mục và đất mới xới, hương cốm, hương lúa chín, hương
lá hồi ṿ nát trong tay, hương vỏ cam, hương ngâu, hương lài, hương lan
rừng, hương bưởi, hương khói pháo một đêm trừ tịch...
Những mùi hương cường
độ khác nhau luôn luôn phảng phất. Hương là bản chất của thực tế nhưng
của một thực tế không c̣n cụ thể nữa mà đang vượt vật thể để thăng hoa
thành trừu tượng, để trở thành yếu tính. Hương là bản chất của ngoại
giới, nhưng của một ngoại giới không c̣n vị trí nữa, mà đang tan thành
cảm giác. Hương là bản chất của không gian nhưng của một không gian
không c̣n kích thước đang trở thành thời gian lăn chậm.
Hương là niềm vui vừa
thành h́nh vừa tan biến, vừa tự hủy để c̣n tồn tại măi măi.
Đó là một thứ
hương lạ để đánh dấu một khoảng thời khắc trong đời. Dũng thấy trước
rằng độ mười năm sau thứ hương đó sẽ gợi chàng nhớ đến bây giờ, nhớ đến
cái phút chàng đứng với Loan ở đây. Cái phút không có ǵ lạ ấy sẽ ghi
măi trong ḷng chàng cũng như hương hoa khế hết mùa này sang mùa khác
thơm măi trong vườn cũ (11).
Hương là yếu tính của
hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc trọn vẹn, ảo biến, không thể phân tích,
không thể xác định, không thể từ chối cũng không thể ǵn giữ. Mùi hương
di chuyển từ một h́nh thể này sang một h́nh thể khác.
Hai người đi qua
một quăng đường nức mùi thơm của một cây bưởi gần đó. Trời im gió nên ra
khỏi chỗ hương hai người tưởng như vừa ra khỏi một đám sương mù làm bằng
hương thơm của hoa bưởi đọng lại (12).
Mùi hương đổi toạ độ
giác quan, đi từ cảm giác này sang cảm giác khác:
Những bó lúa mới
gặt về để ngổn ngang một góc sân; gió thổi bụi lúa bay toả lên rồi tan
dần đi trong không khí mát lạnh. Một mùi thơm tựa như mùi cốm non phảng
phất lẫn với bụi, với gió, với ánh nắng (13).
Những cảm giác mà tri
thức c̣n phân biệt được là những cảm giác c̣n xa lạ, c̣n ở ngoài tâm
giới, c̣n ở ngoài biên giới của hạnh phúc. (Nathanael, tout ce que tu
gardes en toi de connaissances distinctes restera distinct de toi
jusqu’à la consommation des siècles.Gide).
Từ linh cảm đó, hạnh
phúc không phân biệt cảm giác với ảo giác. Tất cả các đoạn trích trong
Đôi Bạn ở trên đều có một chữ như - chữ như ch́a khoá đưa vào không gian
Nhất Linh. Phải thân mật với chữ như, môi giới giữa sắc và không, mới hé
thấy cái tương đối của tương đối.
Nhân vật Nhất Linh
không lẩn thẩn tự hỏi họ có thật sự hạnh phúc, hay họ chỉ tưởng như hạnh
phúc. Hạnh phúc là một cảm giác mong manh, và trong tâm hồn con người
viên hoạt, không có chân lư nào ngoài cái-tưởng-là-chân-lư. Nhân vật
Nhất Linh không có những băn khoăn triết lư, siêu h́nh dày ṿ; họ chấp
nhận sống với một tư tưởng trắng: Thà cứ để vậy, sống trong ảo tưởng
đẹp đẽ, một ảo tưởng đẹp đẽ mà trọn đời Dũng mong vẫn là ảo tưởng
(14).
Chúng ta cần xác định
rơ là Nhất Linh thuộc về một thế hệ khác với thanh niên ngày nay. Con
người hôm nay bôi xoá mọi ảo tưởng để t́m thực chất của cảm giác. Nhưng
không nên v́ thế mà phê phán Nhất Linh không đủ can đảm sống trong thực
tế. V́ biết đâu Nhất Linh thiếu can đảm hay chính chúng ta thiếu khả
năng sống trong ảo tưởng? V́ muốn sống trong ảo tưởng, trước tiên phải
có cái ảo-tưởng-rằng-ḿnh-sống-trong-ảo-tưởng, và trong lịch sử của tâm
hồn nhân loại, không phải ai cũng thấy được ḿnh là bướm, và vui làm
bướm, như Trang Chu.
Nhờ khả năng đó mà
nhân vật Nhất Linh sống trong không gian không phải hoàn toàn là ngoại
giới; mà c̣n sống trong không gian của nội tâm: Dũng của
Đôi Bạn sống
cùng một lúc, trong mùa thu đă đi qua, mùa thu chưa đi tới và một mùa
thu có thể không bao giờ có trong trời đất. Trong không khí chật hẹp, tù
túng của một buổi tế mừng thọ, Dũng chỉ cần chống mũi giày xuống nền
gạch xoay mạnh người hẳn một ṿng là có thể bay bổng đến bầu trời của
ḷng ḿnh:
Nền trời lúc đó,
Dũng thấy như một tấm lụa trong; một con bướm trắng ở vườn sau vụt bay
lên cao rồi lẫn vào màu trời. Dũng tự nhiên nghĩ đến một băi cỏ rộng
trên đó có Loan và chàng, hai người cùng đi ngược lên chiều gió; nàng
mặc một tấm áo lụa trắng và gió mát thơm những mùi cỏ đưa tà áo nàng phơ
phất chạm vào tay chàng êm như những cánh bướm (15).
Tương quan giữa nội
tâm và ngoại cảnh là giao thoa hai chiều. Dũng có thể vừa nội-hoá chân
trời th́ ngược lại cũng có thể ngoại-hoá tâm hồn, trong hai nguyên lư
vừa tương đồng vừa tương hợp. - Ḱa chị Loan, đương mong chị th́ chị đến.
Dũng có cái cảm
tưởng rằng thời khắc ngừng hẳn lại; ánh nắng lấp lánh trên lá cây cũng
thôi không lấp lánh nữa. Ḷng chàng thốt nhiên êm ả lạ lùng; chàng và cả
cảnh vật chung quanh như không có nữa, chỉ có một sự yên tĩnh mông mênh,
trong đó tiếng Loan vang lên như có một nàng tiên đương gieo bông hoa nở
(16).
Không gian chỉ là
khoảng trống trong ḷng người, và ḷng Nhất Linh là một bầu trời b́nh
thản, một bầu trời không đổi màu suốt ba mươi năm. Từ Nắng Thu
viết năm 1934 đến những tác phẩm cuối cùng trước khi Nhất Linh qua đời
vào mùa hè 1963, Nhất Linh vẫn chung thuỷ với một màu trời. Màu trời đó
từ vùng quê Xuân Lữ, Cẩm Giàng… đến miền thượng du Bắc bộ, đến miền đồi
núi Vân Nam vẫn một màu xanh lơ, trong suốt. Thế giới của Nhất Linh là
tia nắng hắt hiu trong khu vườn b́nh thản, cơn gió thổi ngược vào mái
tóc, những vồng cải tươi tắn, những nia cau sậm màu trong nắng quái,
những manh áo phong phanh trong gió ban mai, những cô gái giặt áo đem
phơi; đôi khi thiên nhiên b́nh dị trong một bát canh rau ngót, chợt
thoáng trên khuôn mặt cô gái chau mày...
Chỉ có thế, suốt ba
mươi năm trầm luân, qua bao nhiêu biến thiên của hoàn cảnh, ngữ vựng
thiên nhiên của Nhất Linh không hề thay đổi. Ông sống kinh niệm của bản
thân, đồng thời cũng là bài học của Tolstoi, mà sau này các nhà dân tộc
học như Levi Strauss sẽ xác nhận, là con người không thay đổi bao nhiêu;
thời gian không vùi lấp được nét ngây thơ trong sáng của bản chất nhân
sinh. Và Nhất Linh nhớ lời Gide, «điều quan trọng ở trong cái nh́n
chứ không phải ở ngoại cảnh» (Nathanael que l’importance soit
dans ton regard et non dans la chose regardée). Trần gian có hoàn mỹ
hay không là tùy cách nh́n, hơn là tùy vào sự vật bày ra trước mắt. Suốt
đời, Nhất Linh chuyên chú giáo dục tầm nh́n, tập tành cho nhân vật nh́n
đời.
Cái nh́n ấy đến khi
khép lại vẫn c̣n trong suốt, như là toại nguyện.
Hạnh phúc, thứ đến,
là niềm viên măn trong một thời gian không vĩnh cửu.
Tác phẩm Bướm
Trắng có giá trị nhân đạo quyết định v́ đă đặt con người trước cái
chết. Nhân vật Trương bị ho lao, bác sĩ cho sống một năm là cùng, và
Trương tin như thế. Vấn đề là t́m một hạnh phúc trong giới hạn thời gian
c̣n lại. Nới rộng ra, vấn nạn không phải là chỉ riêng đặt ra cho một
bệnh nhân sắp chết, mà cho mọi người. V́ nói như Sartre, sống thêm một
giờ hay một trăm năm không quan hệ ǵ, khi con người bất chợt ư thức
được là ḿnh không vĩnh cửu.
Chủ đề cô đọng trong
Bướm Trắng thật ra đă bàng bạc trong các tác phẩm viết trước.
Người ta bắt đầu chết từ lúc ra đời, nói theo Montaigne; và Nhất Linh đă
thầm giải quyết cái chết từ những tác phẩm đầu tay. Nhất Linh biết đời
sống không vĩnh viễn nên đă tập yêu những vẻ đẹp phôi pha, tập yêu không
gian qua tương quan với thời gian; ông đă tập yêu những ánh trăng thượng
tuần về sáng, những chiều cuối năm tha hương hiu quạnh. Biết cuộc đời
không vĩnh cửu, ông tập yêu những nét phôi pha. Ông yêu một vẻ đẹp không
phải mặc dù nó mong manh mà chính v́ nó mong manh. Trong Đôi
Bạn, nhân vật Trúc yêu vẻ đẹp bệnh hoạn của một cô gái
ho lao: Hai con mắt long lanh sáng và đôi g̣ má đỏ tươi trong bộ mặt xanh và hơi gầy của Hà làm chàng nghĩ tới vẻ đẹp của nhiều người con gái ho lao mà chàng được thấy. Chàng nghiệm rằng người nào cũng có một thứ duyên quyến rũ và gợi cho người ta nghĩ đến những vẻ đẹp mong manh có nhiễm cái buồn xa xôi của những sự thương tiếc không bao giờ nguôi. Chàng thấy có cái cảm giác mới lạ không hẳn là buồn hay vui, h́nh như trong ḷng chàng vừa nở ra một bông hoa màu biếc, sắc hoa gần lẫn với bóng tối lờ mờ tím, một buổi chiều đông nào đă xa và rất buồn.
Bên cạnh một chiếc
bể con, mấy cái chĩnh sành trên úp những tấm mo cau cuốn tṛn làm Trúc
nghĩ đến những người con gái đội mấn yên lặng đi theo sau một chiếc áo
quan (17).
Nhất Linh yêu cuộc sống như yêu một nhân vật thân thiết, khi biết rằng
sắp mất, hay yêu một t́nh nhân v́ biết rằng sắp sửa phải xa nhau. Trong
một trần gian không trọn vẹn, Nhất Linh t́m yêu những giấc mơ dang dở.
Nhất Linh tạo một quan niệm hạnh phúc vừa tầm với kiếp người. Quan niệm
đó bắt nguồn từ căn bản thực tế và b́nh dị trong tư tưởng dân gian Việt
Nam, pha một ít huyền giải của Lăo Trang; và không theo cái siêu việt,
khô khan và tàn nhẫn của đạo giáo xem cuộc sống ngang với cơi chết. Nhất
Linh b́nh thường và nhân đạo hơn, vẫn quư cuộc sống hơn hư vô, cho dù
không tỏ ra say mê và tha thiết.
Trên một cây bàng
nhỏ, những lộc non mới đâm, màu xanh non hơi phớt hồng. Chàng nghĩ cây
bàng năm nào cũng nhớ đâm lộc, đă bao lần rồi vẫn chỉ như thế mà không
chán. Chàng thấy cây cỏ cũng như người, khao khát được sống, tuy đời bao
giờ cũng giống như bao giờ (18).
Đi từ nhận xét thông
thường này, Trương trong Bướm Trắng không ham sống mà cũng không
chán sống; biết rằng sắp chết, Trương xây dựng một thứ hạnh phúc vừa
dung dị vừa siêu thoát. Trương sống vừa như là sẽ không bao giờ chết, và
vừa như là ḿnh không c̣n sống được bao lâu. Đây là điểm thâm trầm của
tác phẩm và cũng là điểm sâu sắc nhất trong nghệ thuật sống của Nhất
Linh. Kẻ trồng cây nếu biết rằng ḿnh sẽ chết th́ không bao giờ trồng
cây, nhưng biết rằng ḿnh sống đến thiên thu th́ cũng không cần trồng
cây: biết rằng ḿnh chết mà vẫn làm như là ḿnh sống đến thiên thu, đó
là tâm trạng của Trương khi t́m cách chiếm hữu t́nh yêu của Thu.
Chàng chắc chắn sẽ
chết, nên một cử chỉ ân cần cỏn con của Thu đối với chàng có cái huy
hoàng ảo năo của một thứ ǵ đó rất mong manh, nó xui giục chàng mở hết
tâm hồn mà nhận lấy ngay trước khi nó tan đi mất (19).
Điều huy hoàng ảo
năo kia là sự dung dị thâm trầm trong tư tưởng Nhất Linh, niềm thâm
u dễ bị hiểu lầm nhất. Hiểu một cách hời hợt th́ là: Trương vị kỷ, muốn
chiếm đoạt tâm hồn người đàn bà trước khi chết. Cử chỉ chiếm đoạt không
phải là thái độ của một người yêu. Ở đây, Trương thật sự yêu Thu nồng
đậm và tha thiết đến mức không ngờ tới; t́nh yêu mang đủ tính cách thu
phục và dâng hiến, là một sự sáng tạo các giá trị, dù chỉ là sáng tạo
trên những tâm hồn tự biết mong manh. Huy hoàng là phần của vĩnh
cửu, ảo năo là phần của mong manh, huy hoàng là tự quên trong mối
t́nh của Thu; và ảo năo là tự quên trong các cuộc vui trác táng. - Em... - Anh! Rồi hai người yên lặng hôn nhau, mê man trong cái thú thần tiên, bỡ ngỡ của cái hôn trao yêu thứ nhất trên đời. Hai mắt Thu mở to; Trương thấy trong và đẹp long lanh như thu hết ánh sáng của vùng trời cao rộng. Thu níu thật mạnh lấy hai vai Trương và nàng nói mấy tiếng rất nhỏ, nhỏ quá Trương không nghe thấy nhưng cũng đoán hiểu là nàng định nói: - Em yêu anh.
Trương nh́n rất
sâu vào hai con mắt Thu và đột nhiên chàng thấy đau khổ, có cái cảm
tưởng rằng ḿnh đă là người của một thế giới khác cách biệt, và Thu như
đứng bên kia đường nh́n sang, mấp máy môi thầm gọi chàng một cách tuyệt
vọng (20).
Hai lần nh́n vào đôi
mắt người yêu trong khoảnh khắc một cái hôn, Trương đă thấy hai khuôn
mặt của một chân lư, hai khuôn mặt tương phản mà trong Giao Cảm
(Noces, 1938), Camus gọi là mặt trời và cơi chết. Trong đời Nhất Linh,
ông tâm đắc nhất với tác phẩm Bướm Trắng nhưng chưa bao giờ ông giải
thích được rơ ràng cảm t́nh đặc biệt của ông đối với tác phẩm. Ông cho
rằng v́ giá trị tâm lư; không hẳn thế v́ bất cứ người nào đă bị bệnh một
lần đều thấy cái tâm lư này rắc rối, không có ǵ sâu sắc. Nhưng trong
thâm tâm, có lẽ Nhất Linh chuộng Bướm Trắng v́ tác phẩm đă hô hấp nhiều
hơi thở của tâm hồn ông nhất.
Nhất Linh trong sinh thời, đă tập yêu cái chết trong cuộc sống, để khi
chết, có thể yêu cuộc sống trong cái chết; đó là đỉnh cao của nội tâm.
Mắt chàng vừa nh́n
vào cửa sổ hé mở để lộ ra một khu vườn nắng. Chắc không bao giờ chàng
quên được cái cảnh vườn nắng lúc đó những cḥm lá lấp lánh ánh sáng và
màu vàng của một bông hoa chuối tây nở ở góc giậu. H́nh như trời nắng
bên kia thế giới (21).
Bên kia thế giới trời
nắng hay trời mưa? Ở đây Nhất Linh đă chọn hơi mưa phùn lất phất trên
bến đ̣, cơn gió hay màu sương vàng lăng đăng bên kia mấy rặng soan thưa
lá của ḍng sông Nhị thấp thoáng như một giải lụa đào...
Giữa cuộc sống và cơi
chết, biên giới tâm lư mong manh, trong suốt; cái nh́n trầm tĩnh của
Nhất Linh xô động nhẹ nhàng trong môi giới mong manh, trong suốt đó: đạt
tới một sự tâm giao nào đó giữa sống và chết, Nhất Linh không c̣n biết
rằng ḿnh đang chết trong cuộc sống hay đang sống trong cơi chết. Khi ra đường nhựa. Trương thấy một đám ma ở phía trên đi đến. Chàng ngừng lại, đứng đợi thấy hay hay... Bỗng Trương chớp mắt cố nh́n trong bọn người đi đưa; Trương tưởng ḿnh đang nằm mơ và thoáng trong một lúc, chỉ mấy giây đồng hồ, chàng có cái cảm tưởng ḿnh đă chết rồi; chàng nằm chết trong áo quan và sau áo quan là các bạn cũ của chàng đang đi kia.
- Một người chết
v́ ho lao lại có đủ trăm thứ bệnh thế là ḿnh rồi c̣n ǵ? Hay là đám ma
ḿnh thật, chính ḿnh nằm trong áo quan (22).
Soi khuôn mặt vào
thời gian mà không biết ḿnh đang ở trong hay đứng ngoài thời gian. Bướm
mơ ḿnh là Trang Tử hay Trang Tử mơ ḿnh là bướm. Và Bướm Trắng
có c̣n là bướm nữa không? Hay chỉ là một loài Ngựa Trắng không phải là
ngựa thấp thoáng bên ngưỡng cửa Kiên Bạch của tư tưởng đông phương?
Trang Chu mơ ḿnh là bướm th́ vui làm bướm mà không biết là Chu; đến khi
biết là Chu th́ vui làm Chu mà không biết ḿnh là bướm. Trương cũng vậy,
lúc biết ḿnh sắp chết chàng không buồn, khi biết qua khỏi chết, Trương
vẫn không vui. Niềm thanh thản khi được t́nh yêu, và khi mất t́nh yêu,
vẫn là một bầu trời không có màu nên không đổi sắc.
Giờ th́ chàng được
sống và mất hẳn tấm ái t́nh đó nhưng chàng không thấy khổ lắm v́ mất hẳn
t́nh yêu của Thu và cũng không thấy vui lắm v́ c̣n được sống ở đời...
(23).
Các triết gia khi
phân tích quan niệm hạnh phúc đông phương, thường nói đến một hạnh phúc
tương đối. Đó là mâu thuẫn của danh từ, v́ không làm ǵ có cái hạnh phúc
tương đối, v́ hạnh phúc chỉ là một sự yên tĩnh. Ngay chữ tương đối đă là
một danh từ hàm hồ, v́ nói mọi việc đều tương đối là đă chấp nhận một
cái tuyệt đối: tuyệt đối của cái tương đối. Bao nhiêu băn khoăn đầu độc
cuộc sống đă bắt nguồn từ một kiếp người hữu hạn. Hạnh phúc của Nhất
Linh tạo cảm giác vô cùng trong phạm vi hữu hạn, là trồng một loài hoa
đẹp trên một mảnh đất xấu. Nói khác đi, Nhất Linh không sống trong
một thời gian, th́ dĩ nhiên cũng không sống trong cái giới hạn
của thời gian; ông làm sống thời gian trong ḷng ḿnh, và ḷng Nhất Linh
là một vô hạn, ông làm sống thời gian trong sự đợi chờ; và điểm tinh vi
trong nghệ thuật sống của nhân vật Nhất Linh là chờ mà không đợi.
Nhất Linh chờ một đối tượng, không phải v́ cái đối tượng đó, mà v́ cái
thú đợi chờ.
Trương tẩn mẩn
ngồi đợi cho gió im và bóng lá dần dần trở lại rơ h́nh (24).
C̣n Dũng th́ lại:
sung sướng cái sung sướng vẩn vơ của một người đón chờ những sự vui mừng
rất êm ái chưa đến nhưng biết chắc thế nào cũng đến (25). Hạnh phúc không phải ở cơn gió hay chiếc lá, hay sự vui mừng kia; mà hạnh phúc là ở thái độ tẩn mẩn, vẩn vơ của sự chờ đón. Không gian chỉ là cái cớ, thời gian chỉ là phương tiện: “Nathanael, je te parlerai des attentes. J’ai vu la plaine pendant l’été, attendre; attendre un peu de pluie. J’ai vu le ciel frémir de l’attente de l’aube; une à une les étoiles se fanaient. J’ai vu d’autres aurores encore. J’ai vu l’attente de la nuit... Nathanael, que chaque attente en toi ne soit même pas un désir, mais simplement une disposition à l’accueil...
Nathanael, tôi sẽ nói với anh về những nỗi đợi chờ. Tôi đă thấy cánh đồng mùa hạ đợi chờ; đợi chờ dăm bảy hạt mưa. Tôi đă thấy bầu trời xao xuyến đợi chờ buổi sáng; từng v́ sao mờ phai dần dần. Tôi c̣n thấy bao nhiêu b́nh minh khác. Tôi thấy niềm chờ đợi hoàng hôn.
Nathanael, mỗi
niềm chờ đợi trong anh hăy khoan là một ư muốn, mà chỉ là sự mở ḷng
đón tiếp.” (26).
Gide đă nói với
Nathanael về những sự đợi chờ. Nhất Linh đă nói với Dũng, với Trương,
với Ngọc, với chúng ta về những sự đợi chờ xao xuyến thời gian. Tâm hồn
Nhất Linh vừa yên tĩnh vừa măn nguyện như tia nắng trong vườn. Niềm măn
nguyện mênh mông trong không gian và thời gian, trước hết là một lối
nh́n, thứ đến là sự tiếp đợi. Trương lim dim hai mắt nh́n quăng đê
vắng tanh tưởng như con đường đưa người ta đến một sự xa xôi và yên tĩnh
lắm (27).
Con đường không phải
một người đi, mà Chi bộ hai người, ba người bộ hành
cùng đi,
người ta cùng đi. Con đường của nhân gian...
Hạnh phúc, cuối cùng
là niềm măn nguyện trong một nhân gian không toàn thiện.
Nếu Đôi Bạn và
Bướm Trắng đặt hạnh phúc trên tương quan giữa con người với không
gian và thời gian, th́ Gịng sông Thanh Thủy đặt hạnh phúc trên
quan hệ giữa con người với kẻ khác. Câu chuyện xảy ra tại Côn Minh
khoảng năm 1945, giữa những kẻ đấu tranh chống Pháp, lưu lạc sang biên
giới Trung Quốc. Chủ đề ở đây, là hạnh phúc của con người dấn thân vào
chính trị. Nói chuyện chính trị, Nhất Linh có thẩm quyền, v́ đă hoạt
động nhiều năm trong chính trường, cũng như khi qua đời ông đă tự chọn
cái chết cho lư tưởng chính trị..
Nói chuyện hạnh phúc,
Nhất Linh cũng có quyền hơn ai cả, v́ như ta đă thấy, suốt đời Nhất Linh
vẫn đi t́m hạnh phúc, từ trong cuộc sống đến trong cơi chết.
Như vậy những động
thái trong tác phẩm có giá trị thực nghiệm: sự thật của lịch sử và sự
thật của trái tim. Và thực chất của hạnh phúc con người chính trị là ǵ? Nhà chính trị trả lời: là hạnh phúc của kẻ khác, kẻ mà ḿnh đang
tranh đấu để phục vụ, giải phóng. Ở đây, Nhất Linh ngừng lời. Để người
nghệ sĩ trong con người chính khách thong thả nói thêm: và đó cũng là
niềm vui của tâm hồn, bên ngoài mọi giá trị của xă hội và lịch sử.
Dung hoà được hai cảm
giác thường trái ngược ấy về hạnh phúc, là nhờ tâm trạng đặc biệt của
con người đi vào đấu tranh chính trị. Nhân vật tiểu thuyết Nhất Linh đi
vào chính trị mà không lư luận; không thấy họ dùng lư trí xét như thế
là đúng, là cần thiết, cũng không phải v́ t́nh cảm thúc đẩy chọn lựa con
đường ấy. Nhân vật hư cấu của Nhất Linh (khác với chính khách Nhất Linh
Nguyễn Tường Tam) thoát ly đi đấu tranh một cách tự nhiên, không phân
tích, không lư luận, nhất là không tuyên truyền. Dũng tham gia chính trị
v́ chán sống cảnh gia đ́nh, Ngọc tham gia v́ buồn khi người yêu chết,
Thanh v́ giận chồng phụ bạc, Tứ v́ bực ḿnh gia đ́nh vợ, Nam v́ vô t́nh
giết người, Thái v́ không biết làm ǵ nữa...
Họ tham dự tranh đấu
mỗi người với một ẩn t́nh riêng, không ai giống ai cả. Nhưng vấn đề là
từ những lư do khác nhau đó, v́ sao họ chọn một giải pháp giống nhau là
thoát ly đi đấu tranh chống Pháp? Có lẽ hoàn cảnh đă tạo nên một tiềm
thức chung cho một thế hệ thanh niên - mà CG. Jung gọi là conscience
collective - và tiềm thức tập thể đă đưa thế hệ ấy lên đường.
Nói một cách khác người kháng chiến, dưới mắt tác giả Nhất Linh, không
oai hùng ǵ cả, v́ họ không thể không làm, và sống khác đi. Và tác phẩm
Nhất Linh cũng làm nổi bật cái b́nh thường của đời sống cách mạng.
Đă có lần tôi nói
với anh về kiếp con người và cái guồng máy, mỗi người đều có một kiếp,
mọi hành động đều do những sức mạnh ngấm ngầm trong con người ḿnh thúc
đẩy. Cuộc đời của ḿnh, nghĩa là cuộc đời anh, cuộc đời tôi, cũng như
đời Tứ, Nghệ, đời của chị Nam y tá... Văn Sơn, đi vào con đường nào đều
do sức thúc đẩy mà không ai tự biết, tuy ai vẫn tưởng chính ḿnh lựa
chọn (28).
Có người tưởng và tự
hào rằng ḿnh đă chọn lựa con đường tranh đấu, kỳ thật có khi họ bị Lịch
sử chọn lựa, và đưa vào Guồng máy. Trên ư thức khiêm tốn đó, nhân vật hư
cấu của Nhất Linh đi vào chính trị một cách tự nhiên, và danh từ « tự
nhiên » là một ch́a khoá khác của hạnh phúc Nhất Linh. Ngọc, khác với
tác giả Nhất Linh, là một bản chất nghệ sĩ, nên làm chính trị một cách
nghệ sĩ. Sở dĩ nghệ sĩ mà không chuyên vẽ hay làm thơ không thôi, mà lại
vừa vẽ, làm thơ lại vừa làm lịch sử, đó chẳng qua là t́nh cờ của hoàn
cảnh đưa đẩy. Nhân vật tiểu thuyết Nhất Linh t́nh cờ làm lịch sử, họ là
những con người « lạc đường vào lịch sử », nói theo cách ai đó, một
người cùng thế hệ với Nhất Linh.
Hạnh phúc vẫn là cách
sống thật với chính ḿnh. Ngọc là nghệ sĩ, yêu vẻ đẹp của không gian;
cho nên khi đi công tác - một công tác cực kỳ nguy hiểm - Ngọc cố ư
chọn con đường thấp v́ con đường cao có nhiều phong cảnh đẹp chàng để
dành khi nào được cùng đi với Thanh (29).
Ngọc c̣n là một bản
chất si t́nh, nên dù là cán bộ tin cẩn của Việt Quốc, anh vẫn yêu Thanh
là cán bộ Việt Minh, trong khi hai đảng chống đối nhau một mất một c̣n.
Đi công tác về, mặc dù biết đảng bộ đợi chờ, chàng ghé lại thăm Thanh để
uống cà phê trước, rồi mới về đảng bộ. Lúc các đồng chí nghi ngờ, Ngọc
thẳng thắn xác định.
Chị đừng vơ đũa cả
nắm. Đối với tôi công việc là công việc. T́nh yêu là t́nh yêu. Chị thử
nh́n vào mắt tôi, chị sẽ hiểu (30).
Như vậy vấn đề đă rơ
rệt. Chính trị và hạnh phúc là hai câu chuyện khác nhau. Đặt vấn đề hạnh
phúc trong tương quan chính trị như tôi đang làm là đặt một giả vấn đề,
làm cái việc vơ đũa cả nắm có tính cách thuyết tŕnh giáo khoa.
Điểm sâu sắc và cảm
động nhất của Gịng sông Thanh thuỷ là hạnh phúc của con người
tranh đấu vẫn nằm ở ngoài phạm vi chính trị, và con người chiến đấu một
cách thích thú v́ những giá trị nằm ngoài cái thắng và cái bại, nghĩa là
v́ những giá trị không phải là chính trị.
Nhà văn Nhất Linh vẫn
hồ nghi Lịch sử, v́ con người ngàn năm vẫn không thay đổi. Và trần gian
chỉ có một giá trị là cái đẹp.
Sau này c̣n đâu
Việt Quốc, Việt Minh, nhưng bóng trăng ḷng sông Xích Bích những câu phú
hay của Tô Đông Pha muôn thuở c̣n măi. Lâu bền nhất, thực nhứt chỉ là
cái Đẹp.
Nhất Linh, tín đồ
chung thủy của mỹ đạo, trong Gịng Sông Thanh Thủy, đă dùng con
đường mang tên Lịch sử để đi t́m vẻ đẹp của trần gian, một trần gian
không toàn thiện cũng không toàn mỹ, nhưng là quê hương duy nhất của
hạnh phúc. Chúng ḿnh bỏ không làm cách mạng nữa mà cũng chẳng cần đi t́m Thiên Thai cho tốn công. Thiên Thai là cái nhà này...
Thiên Thai cũng là
hư vô (31).
Chúng ta đă theo Nhất
Linh, mong mỏi t́m được một vài cao điểm trong tâm hồn ông. Một tâm hồn
nghệ sĩ giàu văn hóa dân tộc và dân gian, phảng phất thiền tông và đạo
giáo, đă vượt khỏi tôn giáo và triết học để đạt tới hạnh phúc giữa hiện
hữu và hư vô. Không phải là thứ hạnh phúc trừu tượng, sách vở, mà niềm
vui cụ thể, b́nh dân, trong đời sống hằng ngày: tô phở chua, bát phở cừu,
bữa cháo ḷng, ốc sống, điếu thuốc thơm, ly rượu đượm, tách cà phê thật
đậm, bát canh rau ngót, tô bún riêu, chiếc bánh lá gai bến đ̣ Gió...
Nhất Linh thèm những hương vị tầm thường nhất của trần gian và yêu khuôn
mặt dung dị nhất của đời sống. Nhân vật Nhất Linh không yêu đàn bà đẹp:
Ngọc đă chọn Thanh tuy Thanh không đẹp bằng Phương, cũng như Trương chọn
Thu không phải v́ nữ sắc mà v́ một vẻ ǵ là lạ của tâm hồn. Nhân vật của
Nhất Linh, như Ngọc, xem cuộc đời là một cuộc ngao du dài, như Trúc xem
đời là một cuộc du lịch không bờ bến, các nhân vật đó không bao giờ nhốt
hạnh phúc trong ṿng hôn nhân với gia đ́nh, không nhốt ḍng suối Améles
trong chậu, như lời Platon. Do đó, nảy sinh những mối t́nh không trọn
vẹn, và đẹp trong sự dang dở: Ngọc yêu Thanh v́ hai người thuộc hai đảng
đối lập, khó đi đến hôn nhân, Trương yêu Thu bên này bên kia biên giới
của cơi sống-chết, Dũng yêu Loan v́ Loan đă đính hôn với người khác,
Trúc yêu Hà ở phút chia ly ngoài hàng dậu. T́nh yêu ngoài ràng buộc hôn
nhân đó mang tính cách lư tưởng, pla-tô-níc, nghĩa là không có sự cọ xát
của làn da, mà chỉ là cái nh́n trong suốt, có khi không có lời tỏ t́nh,
mà chỉ là cái nh́n thầm lặng.
Thấy Dũng bắt gặp
ḿnh đang nh́n trộm, Loan vội nhắm mắt lại làm như ngủ, song biết là
Dũng đă trông thấy rồi, nàng lại vội mở mắt ra, rồi qua những ngọn lá cỏ
rung động trước gió, hai người yên lặng nh́n nhau (32).
Hạnh phúc của Nhất
Linh chỉ thu gọn trong một tia nh́n. Bài học Nhất Linh khép mở trong
chớp mắt của Loan, chớp mắt chứa đựng một ngàn chân lư đang nuôi dưỡng
cuộc sống.
Kích thước của tâm
hồn Nhất Linh đă được đo bằng không gian của Đôi Bạn thời gian
của Bướm Trắng. Nhân gian trong Gịng sông Thanh Thủy là
chu kỳ thứ ba trong thông điệp Nhất Linh và đồng thời cũng là lời nói
cuối cùng của một nhà hiền triết. Hơi thở Nhất Linh đă măn nguyện nên đă
dừng lại ở lời nói cuối cùng mà dư âm c̣n vọng lại: Thanh tự nhiên thấy ḿnh vui mê man không hiểu v́ lẽ ǵ; tâm hồn nàng phiêu diêu trong một niềm vui và cảm thấy niềm vui ấy như không bao giờ hết nữa khiến nàng rờn rợn có cái cảm giác tưởng rằng cái ǵ cũng không thật. Đời sống chỉ là mơ, niềm vui cũng chỉ là mơ. Thanh tự nghĩ nếu có chết nàng sẽ hoá thành một giấc mơ vui rồi khi giấc mơ ấy tan đi là chết là hết. Nàng chắc cả vũ trụ này đến ngày tận thế cũng vậy cũng biến thành một niềm vui bao la rồi cứ thế hoà loăng tan dần đi trong cái mênh mông của hư vô, không có sự chết không có sự sống và ngay đến cái hư vô cũng không có nữa. Thanh bỏ rơi bông hoa trà cầm ở tay rồi nh́n theo: bông hoa rơi, rơi măi cho đến khi không thấy nó đâu nữa. Nàng nói:
- Thế là hoa đă
biến vào vực thẳm, biến vào hư vô. Lúc năy tôi muốn nhẩy xuống là để
biết vực thẳm, hư vô ra sao, chắc tôi cũng có cái thú của một hạt muối
tan trong nước (33).
Làm sao sống được giây phút cuối cùng trong tâm hồn Nhất Linh để biết
những cảm giác của ông giờ ĺa xa cuộc sống? Có thể là cảm giác một
hạt muối tan trong nước. Khi đọc lại những suy tư của Thanh trong
đoạn trên, tôi vẫn băn khoăn không hiểu cái chết của Nhất Linh là một
hành động chính trị hay chỉ là một thí nghiệm của hư vô? Người đọc sẽ
bảo: bức thư tuyệt mệnh của Nhất Linh c̣n đó.
Nhưng tôi muốn hỏi
thật các nhà văn c̣n sống: có tác phẩm văn nghệ nào không phải là một
lá thư tuyệt mệnh? Có di chúc nào thành thật hơn một văn nghệ phẩm dù
được sáng tác trong thời kỳ dồi dào sinh lực nhất của một đời người? Di chúc của loài tằm không phải là xác nhộng, mà là những sợi tơ.
Hạnh phúc trong tác
phẩm Nhất Linh là những sợi tơ lấp lánh mà trong Đôi Bạn, Nhất
Linh gọi là những sợi tơ vừa tan đi cùng ánh sáng.
Hơi thở của Nhất Linh
đă truyền cái khí hậu nồng ấm của Gide vào không gian tê tái của Tolstoi,
đă làm tan phấn bướm Trang Chu vào cơi chân không tịch mịch.
Trên những kinh
nghiệm của ư thức và tâm cảm đó, Nhất Linh tạo một thứ hạnh phúc vừa với
vóc dáng ḿnh, cái vóc dáng trong một không gian không hoàn mỹ, một thời
gian không vĩnh cửu và một nhân gian không toàn thiện. Như người thợ may
tinh tế kia suốt đời chỉ may có một tấm áo lụa mỏng phong phanh, một
chiếc áo cho chính bản thân. Người đời sau đừng nên cho rằng nghệ thuật
sống đó chỉ phù hợp với Nhất Linh, với những điều kiện tinh thần và thể
chất của riêng một Nhất Linh. Hay của một thời đại. V́ đó cũng chính là
điều Nhất Linh muốn truyền đạt.
Những ǵ siêu việt
nhất trong nghệ thuật sống của Nhất Linh nép trong kinh nghiệm tầm
thường này: co giăn tự nhiên, hồn nhiên, và thản nhiên. Thản nhiên, hồn
nhiên, tự nhiên tôi muốn nghe lập lại ngàn lần lời nói từ đỉnh núi ṿi
vọi của thời đại vọng đi. Tôi muốn nhắc lại với thâm tâm tôi rằng thảm
kịch của cô Loan trong Đoạn Tuyệt không phải ở sự tranh chấp giữa
hai xă hội mới và cũ như người ta thường hiểu, mà ở một điểm mâu thuẫn ở
nội tâm mà Loan không giải quyết được lúc vào đời. Loan, đối với bản
thân Nhất Linh, là sự đoạn tuyệt các giằng co, Loan là giai đoạn con tằm
trở thành bướm trắng bay tự nhiên. Từ Đôi Bạn, Loan bay hồn nhiên,
bay thản nhiên trong ṿm trời hạnh phúc.
Hạnh phúc của một
loài bướm không tên bay qua không gian, bay qua thời gian, bay qua nhân
gian, hay chính là cái không gian, cái thời gian và cái nhân gian đó.
Bao giờ con Bướm Trắng bay đến hư vô th́ hư vô sẽ là hạnh phúc.
Con bướm trắng một
đêm khuya đă bay vào pḥng tôi, qua khung cửa sổ bỏ quên. Bên này triền
cửa sổ là hạnh phúc nhỏ bé của căn pḥng; bên kia là Nhất Linh.
Về phía bên kia
cánh đồng, ánh đèn nhà ai mới thắp, yếu ớt trong sương trông như một nỗi
nhớ xa xôi đang mờ dần... (34).
Trời muốn trở rét... Đà Lạt, 18 - 6 - 1965
Đọc lại, Orléans,
ngày giỗ Nhất Linh, 7-7-2010
Chú thích: 1. Đôi Bạn, 1937, câu đầu, tr. 19, Đời Nay tái bản, 1961, Sài g̣n. 2. Lâm Ngữ Đường, Sống Đẹp, bản dịch Nguyễn Hiến Lê, Tao Đàn, 1965. 3. Hai Buổi Chiều Vàng, Phượng Giang tái bản, 1965, tr. 88. 4. Thơ vịnh Lan của Nhất Linh, 1957, trích đầu Gịng sông Thanh thuỷ, 1960-1961. 5. André Malraux, La Condition humaine, 1933, Sách bỏ túi, 1946, tr. 246. 6. André Gide - Les Nourritures Terrestres. 1897, N.R.F. 7. Stefan Zweig, Tolstoi, Victor Attinger, Paris, 1928. 8. Viết và Đọc Tiểu thuyết, tr. 87, Đời Nay, 1961. 9. Đôi Bạn, Ấn bản Đời Nay, 1961, tr. 110. 10. Đôi Bạn, tr. 24. 11. Đôi Bạn, tr. 26 12. Đôi Bạn, tr. 83. 13. Đôi Bạn, tr. 103. 14. Đôi Bạn, tr. 194. 15. Đôi Bạn, tr. 44. 16. Đôi Bạn, tr. 60. 17. Đôi Bạn, tr. 166. 18. Bướm Trắng, Ấn bản Đời Nay, 1961 và 1966, tr. 65. 19. Bướm Trắng, tr. 217. 20. Bướm Trắng, tr. 148. 21. Bướm Trắng, tr. 84. 22. Bướm Trắng, tr. 245. 23. Bướm Trắng, tr. 226. 24. Bướm Trắng, tr. 81. 25. Đôi Bạn, tr. 30. 26. André Gide - Les nourritures terrestres, NRF, nxb Gallimard. 27. Bướm Trắng, tr. 250. 28. Gịng sông Thanh Thủy, I, tr. 130. 29. Gịng sông Thanh Thủy, III, tr. 143. 30. Gịng sông Thanh Thủy, II, tr. 159. 32. Đôi Bạn, tr. 205. 33. Gịng sông Thanh Thủy, II, tr. 140 34. Câu cuối của bài khảo luận là câu cuối của Đôi Bạn.
|