Đặng Tiến
Thơ
Hoàng Cầm
Truyền thống và hiện đại

Hoàng Cầm - xưa và sau này
IV: Men đá vàng
Một lời quan họ bay lên dốc
Năm 1956 Hoàng Cầm sáng tác và in tập thơ Tiếng hát quan họ.
Thời gian này anh phụ trách bài vở cho
Giai phẩm
mùa Xuân,
đă t́m ra và tự ư cho đăng bài thơ “Nhất định thắng’’ của Trần
Dần, ng̣i thuốc nổ vụ án Nhân văn-Giai phẩm về sau. Trần
Dần bị bắt, Hoàng Cầm viết hồi kư Con người Trần Dần để
bênh bạn đăng trên báo
Nhân văn
số 1 giữa tháng 9. 1956. Bài báo khá dài, phản ánh không khí văn
nghệ, chính trị thời đó, đă được Georges Boudarel dịch trọn vẹn
ra tiếng Pháp
[1]
. Sau đó, Hoàng Cầm c̣n có bài thơ “Em bé lên sáu tuổi’’ (1956)
và vở kịch thơ Tiếng hát (1957) nổi tiếng v́ tính cách
phản kháng.
Nhắc lại chuyện cũ để t́m hiểu động cơ của tác giả khi làm tập
thơ Tiếng hát quan họ, lấy một chủ đề cũ để làm một tập
thơ mới, trong không khí đấu tranh chính trị thời đó. Về hai tập
Giai phẩm, Hoàng Cầm đă “tự hào’’: “Tuy chưa phải là
những sáng tác xuất sắc, nhưng ít ra nó cũng nêu được một vấn đề
ǵ. Có vấn đề xă hội trong thơ Văn Cao, có vấn đề chống công
thức trong thơ Lê Đạt (…) Bài thơ ‘Nhất định thắng’ của
Trần Dần ít ra nó cũng khác với lối làm thơ một chiều…’’.
[2]
Thế c̣n Hoàng Cầm, người đă có tập thơ in chung với Văn Cao, Lê
Đạt, Trần Dần? Tiếng hát quan họ, ngoài giá trị tâm cảm,
nhất định phải có giá trị phản kháng.
Về tâm cảm, Hoàng Cầm sinh ra trong một gia đ́nh quan họ, lớn
lên trên quê hương quan họ, tập thơ ca ngợi một khía cạnh đặc
sắc trong một vùng văn hóa. Nhưng tiếng hát c̣n là h́nh tượng:
nó biểu dương cho nền văn nghệ tự do, b́nh đẳng, độc lập trước
chế độ xă hội phong kiến. Thời điểm đầu 1955, Hoàng Cầm đ̣i
quyền độc lập đó, trong một “đề nghị chính sách văn nghệ’’
[3]
và tố giác thứ văn chương cung đ́nh:
Vịnh người đi cày bằng đá
Không nói năng ǵ sau đuôi trâu
(Bên kia Sông Đuống, tr. 107)
Đây là một khuynh hướng quan trọng trong thơ Hoàng Cầm, chúng tôi
chưa đào sâu, không phải là v́ không thấy hay né tránh, nhưng v́
khuôn khổ và tính cách của bài viết. Tôi sẽ trở lại vào một dịp khác.
Tiếng hát quan họ nêu lên vai tṛ, tính cách của văn nghệ
trong cuộc sống. Trước hết, nó nhận làm một thành phần nhỏ của cuộc
đời:
Chép hết bài ca chưa hiểu hết ḷng người
Dựng được bài ca chưa xây dựng cuộc đời
(Bên kia Sông Đuống, tr. 117)
Nhưng nghệ thuật làm cho cuộc sống cao lên, rộng ra và đẹp hơn:
Tiếng
hát quan họ
Và trai gái quê tôi trẻ đẹp vô cùng
Nhảy khỏi ṿng nia
Nhảy sang ṿng nong
Từ ḥn dá ném ao ṿng tṛn rộng măi
… Ṿng nhỏ
Ṿng to
Đến ṿng nào nữa
Chân mây mở rộng từng mùa
(Bên kia Sông Đuống, tr. 118)
Cuộc đời là những ṿng tục lụy, có thể quy định như những
ṿng nong, ṿng nia hay vô định và bất tận như khi ta ném
ḥn đá xuống ao. Nghệ thuật giúp con người nới rộng những ṿng
nghiệp chướng. Ṿng nong, ṿng nia là h́nh ảnh của nông
thôn mà nhà thơ đă tích lũy: động tác nhảy khỏi, nhảy sang
nhắc lại cảnh múa sạp của dân tộc Tây Bắc mà Hoàng Cầm đă
dày công nghiên cứu và cải biên thành nghệ thuật tŕnh diễn
chuyên nghiệp, thời anh chỉ huy Đoàn văn công Tổng cục chính trị.
“Tôi đă nâng số lượng sạp từ 2 lên 8 cây, từ 2 diễn viên gơ
sạp lên 8 và từng đoạn luân phiên với diễn viên múa, vào nhảy để
8 anh chị em khác ra ngồi gơ. Sau chiến thắng Na Sản Tây Bắc
1953 tôi lại bổ sung (…) Toàn bộ tiết mục đă trở thành một khúc
vũ hội tưng bừng (…) Múa quạt ở vùng xuôi ḥa với múa x̣e ở Tây
Bắc, lượn của Đông Bắc quyện cả với múa nón của Trung Du (…)
không nét nào trùng lặp với nét nào; các đường cong, nghiêng,
thẳng của h́nh thể, phải đi đứng khuôn nhịp, không một đường uốn
lượn nào được phép trật nửa bước ra ngoài”.
[4]
Nghệ thuật ở đây tạo điều kiện cho con người nhảy khỏi ṿng
nia, nhảy sang ṿng nong của cuộc sống. Quan họ cũng vậy
thôi, là một nét đẹp xưa, quyến rũ và mong manh:
Mẹ kể chuyện ngày xưa xa lắm
Tháng tám ao hồ mát lặng
Làng quê c̣n níu lại hương sen
Hai mươi gái trai
Thả một con thuyền
Song song mười đôi
Mắt nh́n trong mắt
Nón nghiêng tăm tắp
Ngày mai ai chắc được gần ai
Bấy nhiêu con mắt
Cùng hát một câu
Nghe giọng biết người chung thủy
(Bên kia Sông Đuống, tr. 98)
Quan họ, trước tiên, là t́nh bạn. Có ǵ đẹp bằng t́nh bạn thủy
chung ? Đôi bạn quan họ không được kết hôn với nhau. Năm mười
năm sau khi đi lấy chồng xa, cô gái vẫn nhớ giọng,
người gầy như nhánh mai:
Rồi chị Tư tay bồng tay bế
Mỗi năm một lần về quê hương
Đến thăm anh Năm so giọng cũ
Hát hết tuần trăng không hết thương
(Bên kia Sông Đuống, tr. 103)
Đẹp bao nhiêu những con người chung t́nh với một giọng hát, ngọn
gió qua cầu:
Mẹ xưa dối bà, con nay dối mẹ
T́nh không dối được nhịp cầu
(Bên kia Sông Đuống, tr. 100)
Làm thơ, rất khó mà nói dối được lâu.
Cuộc đời, ở đâu, thời nào cũng vậy, đan kết những tranh chấp,
bon chen. Tiếng hát quan họ giải thoát: so lời sánh giọng, người
hát không nề hà hai chữ được thua:
Hát thi ba mươi sáu giọng bổng trầm
T́m những anh chàng hát thua
… Chúng ta sẽ ướm làm chồng
Ngày hội năm sau
Anh sẽ bắc giàn hoa lư
Mời em về ngồi nghỉ
Khi nào em hát thua anh
(Bên kia Sông Đuống, tr. 99)
Nghệ thuật, trong một giây lát nào đó, giải phóng con người nhọc
nhằn và nhục nhằn, ra khỏi xă hội phong kiến đen ng̣m:
Trai gái trong xă
Rút ống chân khỏi mực đen ng̣m
Chạy ra bến sông khỏa ánh trăng mát rợi
Tiếng hát cất lên nhuộm mùi hoa bưởi
(Bên kia Sông Đuống, tr. 109)
Câu thơ Hoàng Cầm không hiện thực, không đúng với thực tế quan
họ xă hội. Không ai thoát thân chạy ra bờ sông mà hát. Hát quan họ
phải có nơi, có lúc, vào đám, vào hội, theo nghi thức, theo lề lối,
áo khăn, lời thưa tiếng gửi, làm ǵ có chuyện hát ào ào, chân khỏa
ánh trăng. Nhưng câu thơ đúng với biểu tượng văn nghệ: nhiệm vụ văn
nghệ là giải phóng con người ra khỏi áp bức của những chế độ hay
những hoàn cảnh, thực tại éo le. Trong chừng mực nào đó, quan họ
giải phóng giai cấp: cô gái quan họ dù có lúc trở thành Ỷ Lan phu
nhân hay Bà chúa Chè th́ bản thân quan họ vẫn khẳng định “Tiếng
hát không biết đi vơng đào” và công phá những thành lũy của
phong kiến:
Tiếng hát chiều nay đá lắng tai nghe
Muốn cựa ḿnh đổ xuống
Nghiến vụn ṭa lầu ngất ngưởng
Xây nên trăm bực gập ghềnh
Để em có đường lên núi t́m anh
(Bên kia Sông Đuống, tr. 114)
Vẫn là cái nh́n lư tưởng hóa. Tách rời ra khỏi xă hội, trong
khuôn khổ những hội hè, tiếng hát quan họ giải phóng con người về
nhiều mặt - kể cả giai cấp. Những liền anh liền chị là những nông
dân hay thị dân nghèo kết nghĩa bằng nghệ thuật, không phân biệt địa
vị. Giới khoa bảng, quan lại và tư sản không tham dự vào những sinh
hoạt dân dă, b́nh đẳng và phi giai cấp ấy. Người hát kết bạn, luyện
giọng, tổ chức, sáng tác, tŕnh diễn, thưởng thức và phê phán, làm
thành một xă hội khép với những lề lối, quy luật, tư duy, rung cảm
riêng: quan họ là một ốc đảo giữa xă hội nông nghiệp phong kiến, và
tồn tại lâu dài, phần nào, nhờ thỏa hiệp. Hoàng Cầm cũng thừa nhận
điều đó khi anh tố cáo gay gắt xă hội phong kiến qua cụ tiên chỉ
gian xảo và tàn ác.
Văn nghệ quan họ có giá trị nhất định và giới hạn nhất định. Nếu xem
thơ Hoàng Cầm là niềm u hoài, vọng lại một nền văn hóa đă vang bóng,
th́ chúng ta có được nhiều bài thơ hay, giữ lại và truyền đi những
t́nh hay ư đẹp về quê hương đất nước. Nếu xem Tiếng hát quan họ
như một hoài băo thậm chí một thông điệp văn nghệ, th́ chúng ta
cần cập nhật hóa nó, bằng nhiều tác phẩm khác. Thời điểm gian nan
1956 tại Hà Nội, Hoàng Cầm làm được những bài thơ như vậy là đầy sĩ
khí. Tôi không tiện nói nhiều về khuynh hướng phản kháng trong
Tiếng hát quan họ v́ không hạp với nội dung bài này. Từ ấy đến
gần đây, dù bị cô lập và cấm đoán in ấn, anh vẫn âm thầm sáng tác và
tạo được tác phẩm giá trị, làm giàu làm có cho ḍng thơ Việt giữa
hai bờ truyền thống và hiện đại. Bằng tác phẩm và bằng cả cuộc đời,
tác giả Bên kia Sông Đuống đă đóng góp vào cuộc đấu tranh
giải phóng văn nghệ, măi cho đến lúc “nghe lửa reo ṃn tuổi tác’’.
Men đá vàng: những mảnh đời rạn vỡ
Men đá vàng là tập thơ có sắc thái và địa vị riêng biệt trong
tác phẩm Hoàng Cầm. Truyện thơ về người thợ gốm Bát Tràng làm
năm 1973 in 1988, gồm phần dẫn nhập bằng văn xuôi thi vị, 13 trang
và 4 chương thơ tự do, diễn tả tâm t́nh bốn nhân vật, ba người thợ
gốm: cô gái Phong Kiều, người chồng, người cha và một người bạn đục
đá. Truyện kể người chồng mê chơi đi hoang, người vợ chờ mong hóa đá.
Chồng về hối hận khóc than, nước mắt thấm vào thân đá, bộ đá ḥa lệ
thành men đá vàng, người cha nghệ sĩ tạo h́nh nung lửa
tạo nên gốm, trên đó cô gái Phong Kiều hồi sinh dưới h́nh tượng nghệ
thuật: “Từ chiếc b́nh men rạn nổi h́nh con phượng muôn màu,
ngậm mặt trăng nghiêng, cô gái Phong Kiều vươn vai đứng dậy (…)
Trong bản t́nh ca ḥa tấu tuyệt diệu của âm thanh, màu sắc, đường
nét núi sông cây cỏ, Phong Kiều múa rẻo bàn tay làm hoa mưa hoa nắng.
Cụ Hồng Châu đắm nh́n công tŕnh sáng tạo tuyệt vời của con người
Việt Nam và của chính ḿnh” (tr. 20–21)
Dụng tâm tác giả khá rơ: một mặt ca ngợi nghệ thuật làm gốm lâu đời
của quê anh, qua đó, anh nêu lên quá tŕnh gian khổ của lao động
nghệ thuật. Mặt khác, anh muốn dựa vào hư cấu đậm màu huyền thoại để
thí nghiệm một ngôn ngữ thi ca mới, bằng cú pháp, nhịp điệu và h́nh
ảnh khác lạ khi dồn hết tâm can vào việc kiến tạo ngôn ngữ, Hoàng
Cầm cũng đă giăi bày nhiều t́nh cảm riêng tư: Men đá vàng có
lẽ là tác phẩm Hoàng Cầm mang nhiều ẩn ức và u uất nhất.
Trong việc suy nghĩ, biên khảo về thơ trước đây, trong một thời gian
dài đă xa, tôi có chịu ảnh hưởng nhà bác học Gaston Bachelard, về
những mạch thơ tuôn ra từ thể chất, từ không gian, từ tứ tượng
trong vũ trụ quan phương Tây: đất, nước, lửa và không khí. Khi
đọc thơ Hoàng Cầm về nghề gốm, tự nhiên, tôi nhớ lại Bachelard: gốm
là hợp thể giữa đất và nước, thành h́nh trong ngọn lửa bừng trong
không khí. Bachelard lại có những trang tuyệt vời về ngọn lửa t́nh
và lửa dục
[5]
thêm vào những suy nghĩ sâu sắc, độc đáo về thao tác khuấy bột, gột
hồ, nhào bột, dậy men
[6]
. Gốm, từ vô thể biến thể thành h́nh thể, từ chất liệu vô tri hóa
thân trong ngọn lửa trở thành đường nét, màu sắc, mang tâm t́nh, suy
tư, mơ ước của con người. Đẹp quá. Tôi mang ngọn lửa trần gian soi
vào thi phẩm Men đá vàng.
Tôi cũng có ít hành trang khác. Trong
Về Kinh Bắc,
Hoàng Cầm đă có những chùm thơ về lữ hành: kim, mộc, thủy,
hỏa, thổ. Lại có chùm thơ về thực vật: cỏ, cây, lá, quả về không
gian: Gió, Nước, Khói, Sương, chứng tỏ có lúc nào đó, nhà thơ
đă suy nghĩ về chất liệu, tư duy từ chất liệu. Trong cội nguồn thi
hứng của anh, phải chăng đă có những giấc mơ thành h́nh từ thể chất,
như Bachelard đă nói?
Và khi chọn nghề gốm để biểu trưng cho nghệ thuật, phải chăng lúc
đầu – hay trong tiềm năng - Hoàng Cầm muốn t́m về những chất liệu sơ
khai và “ánh lửa sơ sinh’’ để nhào nặn nên một tác
phẩm mới? Nghề gốm Bát Tràng là cơ hội lư tưởng, là truyền thống của
quê hương mà anh thuộc ḷng ngơ ngách. Nghề gốm đ̣i hỏi cần lao, kỹ
thuật, nghệ thuật và … may mắn, v́ những thành quả bất ngờ gợi nên
cơi huyền bí của thiên nhiên, chiều sâu tạo vật. Ḥn đất vươn lên
theo ngọn lửa, hóa thân thành chim muông, hoa lá, những rồng ch́m
phượng nổi, “màu son của đất pha ánh biếc của nước non (…) màu
vàng của ngô lúa pha ánh hồng của những rạng đông huyền thoại’’
(tr. 18). Có cả t́nh yêu và t́nh dục bập bùng trong ánh lửa. Cô gái
Phong Kiều, h́nh ảnh hoang tưởng của Nàng Thơ âu yếm với ba người
đàn ông cùng một lúc, cầm tay người chồng đă “ngày đêm canh sức
lửa”, kề vai người bạn thợ đá, “ôm cả hai vai anh, run rẩy
đặt môi hôn lên vầng trán’’, và “đằm thắm nở nụ cười quyến rũ’’
(tr. 21) với chàng tuổi trẻ ái mộ nàng trên con đường đi t́m t́nh
yêu và nghệ thuật.
Muốn đạt tới kết quả đó, bàn tay thao tác đă tư duy. Trí tuệ có khi
chỉ nối dài tư duy của bàn tay. Nhào nặn thể chất, rung cảm bằng thể
chất, bàn tay tiếp xúc, khám phá, mơ mộng và sáng tạo ngoài sự tham
dự của trí tuệ. Đây là bài học của người thợ gốm “mười ngón tay
chai tạc vó ngựa vàng cố lư’’.
Một tiểu phẩm thủ công, khi vươn đến nghệ thuật cũng đ̣i hỏi tâm
huyết:
Xương đất quánh ngà ngà pha lệ đỏ
Buồng gan hồng thạch
Dạ kim cương
… Nghe
lửa réo ḷ hồng
em níu vai anh mê ly
từng li ti mi li đất chín
(Men đá vàng, tr. 32-34)
Đến lúc người cha nghệ sĩ tạo h́nh truyền lệnh:
Men màu đâu? Lên ngôi!
Men nâu lên
ńnh nịch vóc lực điền
vuông ngô lúa
tṛn ao cá chép
vuông màu xanh
tṛn tiếp mùa vàng
… Men rạn lên ngôi
tia máu đan mành che băo táp
Nẻo người đi chằng chịt mấy muôn năm
ngang dọc nước sông Hồng
(Men đá vàng, tr. 46-48)
Từ chuyện gốm Bát Tràng, Hoàng Cầm đă sa đà vào phong cảnh đất
nước quê hương,qua địa lư, lịch sử, cho Văn Lang, Hồng Bàng, lớp
lớp cánh cung căng mùa dân tộc hát, tiếng trống đồng Ngọc Lũ
vang đến Sao Đẩu Sao Ngưu… Nhưng anh mỗi lúc một xa chủ đề trung tâm,
là… cái ḷ nung gốm.
Truyện người thợ gốm lẽ ra sẽ giản dị là chuyện hai bàn tay tạo tác,
đào luyện, nhào nặn, nung đúc một chất liệu dẻo dai, gắn bó, bền
chắc keo sơn, thành những đồ sành đồ sứ men ngọc men nâu nổi tiếng
từ thời Trần thời Lư. Nhưng người đọc không thấy được sự h́nh thành
của nghệ thuật qua những tác phẩm vững chăi, rắn rỏi với thời gian,
mà chỉ thấy sau nhiều đợt hô phong hoán vũ, những chia ly, tan tác
chủ yếu là tâm sự Hoàng Cầm, người cha xa con, người chồng ân hận,
người bạn hồi tâm. Những t́nh cảm đó đáng kính đáng trọng, lời thơ
tế nhị hơn những bài tâm sự sau này trong tập Lá diêu bông
(1993), những vẫn làm loăng men đá vàng trong chủ đề. Hoàng Cầm yếu
đuối, lạc đường vào tâm sự và lỗi hẹn với Đá Vàng; anh làm lỡ cuộc
t́nh bỏng rát giữa lửa hồng và đất mịn.
Điều c̣n lại trong Men đá vàng sẽ là niềm nhớ mong da diết
của người cha:
Thương con đứng thương
đá vàng men gọi ngồi thương
Con hỡi Phong Kiều về đó
Men màu mơ giọt đỏ đọng ḷng tay
rớm máu mẹ cha sinh
Thương con chín thương
đá vàng men gợi mười thương
Con hỡi Phong Kiều về đó
(Men đá vàng, tr. 50)
Hay bản t́nh ca tha thiết của người yêu:
Đá hăy lên men
Nổi khúc tiêu bồng cánh nhạn
Em nhớ thương ai
Ta làm mưa đưa trầm ngải
Trải ngàn xanh về hàn đắp hồn đau
Sớm đă da non hồng phấn dậy th́
Em xót thương ai
Ta làm ánh chớp (…)
d́u sợi tóc mai về thềm mai lất phất
Em mong chờ ai
Ta làm rơm ổ
Chiều thu ru lá đỏ ấm vai gầy
(Men đá vàng, tr.60)
Men đá vàng mong được hiểu theo nghĩa thứ hai: lớp men
nhớ nhung tráng lên kỷ niệm đau thương những cuộc đời tan tác,
hơi men đắng cay bốc lên từ cảnh đá nát vàng phai, b́nh tan
gương vỡ. Men đá vàng khô se manh áo tân hôn cuối giường em
gửi lại (tr. 39). Tác phẩm là những mảnh tan vỡ của ngôn từ,
rạn nứt từ cuộc đời ngang trái.
Noël 1993
[1] Geoges
Boudarel, Cent Fleurs écloses dans la nuit du Vietnam,
Nxb. Jacques Bertoin, Paris 191, tr. 26 đến tr. 46.
[2]Hoàng
Cầm, “Con người Trần Dần’’, Nhân văn số 1, từ 10
đến 20 tháng 9.1956, Hà Nội, tr. 2 và 4.
[3]Hoàng
Cầm, bđd.
[4]Hoàng
Cầm, “Tử Phác với điệu múa Sạp’’, Tạp chí Âm nhạc,
Hà Nội số 4–1993, Xuân 1993.
[5]Gaston
Bachelard, La psychanalyse du feu, Gallimard, Paris 1949,
chương 4
[6]Gaston
Bachelard, L’eau et les réves, Essai sur l’Imagination
de la matière, José Cortl, Paris 1964, tr. 142–154
hoàng
cầm
Hoàng Cầm - Cây tam cúc
Hoàng Cầm - Anh đưa em về sông Đuống
Hoàng Cầm - Mùa thu tỏa nắng
Hoàng Cầm - Men đá vàng
|