Đặng Tiến
HOÀNG TRÚC LY, NỤ CƯỜI TRONG VÀ ĐÔI MẮT SÁNG
B́a Trịnh Cung
Không có ǵ dễ, và không có ǵ khó, bằng vẽ chân dung một nhà thơ. Lư do giản dị là thi nhân không có chân dung.
Thi sĩ chỉ là một tiếng nói, thay âm độ qua từng giây phút và chuyển hóa không ngừng mỗi lần đến với chúng ta. Vẽ lại khuôn mặt của người thơ là tạo ra giữa không gian mênh mông những tiếng ŕ rào chung quanh tâm hồn và đôi khi phải vẽ thêm niềm im lặng giữa chiều sâu ư thức.
Mỗi câu thơ mang mùi hương, đến với chúng ta một lần để không bao giờ trở lại; mỗi bài thơ là một âm điệu lướt đi, lướt đi, về vĩnh viễn. Vẽ lại mùi hương đă thoảng qua, âm điệu đă ch́m trong tiềm thức, ôi có ǵ dễ, ôi có ǵ khó cho bằng!
Tôi sắp sửa làm một công việc phù du, dùng chiếc cọ vô h́nh để vẽ lên không trung một khuôn mặt chưa bao giờ có thật: khuôn mặt nhà thơ Hoàng Trúc Ly (1933–1983). Tôi bắt đầu vẽ ngay nụ cười, một nụ cười khoan dung, chấp nhận, lúc nào cũng hiền ḥa giản dị, nhưng lúc nào cũng xa vắng, mênh mông như từ bên kia cuộc đời gửi lại. Tôi sẽ vẽ thêm đôi mắt trong xanh và cái nh́n cũng hiền ḥa, dịu dàng như nụ cười, đôi mắt vuốt ve, lưu luyến. Tôi sẽ ngưng lại ở đây, v́ thi sĩ Hoàng Trúc Ly chỉ gửi vào thi ca có đôi mắt và nụ cười trong sáng, e ấp quan niệm sống, phản chiếu một ư thức nghệ thuật sau những ngập ngừng ḍ dẫm suốt hơn mười năm sáng tác.
Ở cỡ tuổi ngoài hai mươi Hoàng Trúc Ly đă tự chọn ngừng lại trước ngưỡng cửa công danh (hiểu theo nghĩa thông thường): chàng không muốn đi sâu vào đời, chỉ mến yêu những hè phố về khuya. Quyết định phản lệ ấy đẩy chàng xa gia đ́nh, lại một cái cớ để chàng đi dọc bên lề cuộc đời, cho đến khi tai nạn dồn dập đôi lần suưt đẩy Hoàng đến bờ cơi chết. Nhưng rồi chàng không chết… Trở lại cuộc đời, Hoàng Trúc Ly cho in tập thơ đầu: Trong cơn yêu dấu.
Thi phẩm đầu tay này không mang dấu vết thơ của tuổi hoa niên. Nhưng chúng ta sẽ ḍ thăm ấu thời của thi ca Hoàng Trúc Ly bằng cách lục lại các tạp chí cách đây tám, chín năm. Muốn ḍ thăm tương lai thơ của chàng, ta sẽ đọc qua đôi bài thơ Hoàng đang chuẩn bị xuất bản trong tập thơ sau. Sau khi t́m hiểu tâm hồn, quan niệm sống của thi nhân, ta sẽ nh́n qua kỹ thuật một nhà thơ, những đại lộ tôi muốn mời người đọc cùng giẫm chân lên.
Tôi xin đóng vai tṛ giới thiệu, v́ người giới thiệu có quyền hạn rộng hơn người phê b́nh, ví dụ như có quyền chủ quan, nh́n vào cái hay trong khi đợi chờ thử thách của thời gian.
Có e dè chăng nữa, là trên đời, không có hai người cùng đọc một bài thơ được đến hai lần. Lần sau, một lớp cát mỏng sẽ phủ nhẹ lên lớp phù sa c̣n đọng lại sau lần thứ nhất. Như thế, mỗi bài thơ dưới mắt mỗi người là một bài thơ riêng, duy nhất, chỉ đọc một ḿnh và chỉ đọc một lần.
Đọc thơ, là cùng cô đơn với thi nhân, một loại "cô đơn hai người" ấm áp. V́ Hoàng chỉ lo phải cô độc một ḿnh:
"Bước chân người thơ đôi khi hấp tấp quá, đến sớm quá và lịch sử mới chớm nở: cô độc. Đôi khi đến trễ quá và lịch sử đă qua một quá tŕnh trưởng thành: cô độc. Đôi khi họ đến trong thời kỳ mà người viết sử với thi nhân như chưa gặp bao giờ: cô độc. Và bao nhiêu bỡ ngỡ, bao nhiêu dồn ép khiến họ mặc cảm như ḿnh đang lạc địa dư, lầm thế kỷ… Bởi v́ đă đi trước… Bởi v́ đă đi sau. Và dù đi sau hay đi trước, vẫn chỉ đi một ḿnh." (Hoàng Trúc Ly, trích bài tựa tập Khát vọng của Chế Vũ)
TRƯỚC CƠN YÊU DẤU
Những vần thơ trẻ dại của Hoàng Trúc Ly mang h́nh ảnh quê hương tơi bời lửa đạn. Hoàng Trúc Ly xuất thân từ một gia đ́nh công chức nhưng hồi cư hơi muộn. Hoàng phải chạy giặc một thời gian quá lâu. H́nh ảnh nhàu nát của quê hương như in vết hằn trên tâm tưỏng, nhất là khi quê hương lại là miền Trung nghèo khó.
Những vần thơ b́nh yên, trong sáng nhất của Hoàng Trúc Ly cũng ngậm ngùi. T́nh yêu quê hương thường thể hiện qua h́nh bóng một cô gái, do đó, đằm thắm, thiết tha…
Gió lạnh mười năm lạnh lắm
rồi (“T́nh Đầy,” trích toàn bài)
Ấu thời ch́m trong khói lửa không để lại trong tác phẩm Hoàng Trúc Ly những hơi thở cuồng nhiệt của cuộc sống. Tâm hồn ông, hồi trẻ dại đă có khuynh hướng b́nh tĩnh, và chậm chạp gạn lọc những âm vang từ cuộc đời dội đến. Sau này, khuynh hướng ấy lại thể hiện rơ rệt hơn, như niềm chua xót của Hoàng Trúc Ly từ thuở xa xưa đă biết thở dài im lặng.
Chừng đây ai hát nữa
… Một đi là hết cả (“Gởi mùa thu”)
Dấu vết tàn nhẫn của chiến tranh là phân tán ư thức. Những chia ly, mất mát thường đào hố sâu trong t́nh cảm, chứa chất bao đắng cay, và thời gian không bao giờ lấp nổi. Những vần thơ không sặc sụa mùi máu lửa, nhưng có khi là chứng tích sâu xa nhất của chiến tranh:
Chia tay rồi đau đớn ǵ
không? (“Tiễn,” trọn bài)
Bài “Gió Lúa” trích nguyên vẹn sau đây, tượng trưng cho ư thức một thanh niên sống trong đọa đày của hoàn cảnh; ở đây, t́nh yêu quê hương vừa trong sáng vừa nhầy nhụa xen lẫn vào t́nh huynh đệ rách nát vẫn c̣n thiết tha, u uất. Hoàng Trúc Ly luôn luôn nghiêng về t́nh cảm, ở đây ảm đạm, thê lương. Chiến tranh không tàn nhẫn bằng những ǵ c̣n lại sau chiến tranh. Những đổ vỡ trong xă hội không là ǵ so với sự nhàu úa của linh hồn bên dưới đống tro tàn, gạch vụn:
Tôi thương người anh không
biết khóc
***
Sở dĩ khi gợi lại những cảnh thảm khốc kéo dài hơn mười năm trẻ dại, Hoàng Trúc Ly vẫn giữ được giọng nói hiền dịu, đằm thắm là nhờ được nuôi dưỡng trong một t́nh mẫu tử dịu dàng và thắm thiết.
Thuở nhỏ, Hoàng là một cậu bé thông minh và khiêm tốn, nhẫn nại mà kín đáo, sôi nổi nhưng tế nhị, Hoàng đă ấp ủ măi trong ḷng bàn tay dịu hiền của người mẹ suốt đời hy sinh v́ con. Có thể nói trong số sáu anh em, Hoàng Trúc Ly là người giống mẹ nhiều nhất, Hoàng Trúc Ly đă níu kéo cuộc đời trên tay người mẹ.
Trong thời loạn lạc, h́nh ảnh của mẹ già khổ hạnh đă in sâu vào kư ức Hoàng những kỷ niệm nghẹn ngào:
Bao nhiêu mắt biếc bao
nhiêu mộng đời, (“Giấc ngủ”)
Hoàng Trúc Ly rất kín đáo và không bao giờ gửi gấm rơ ràng một giai đoạn nào của đời tư vào tác phẩm. Nhưng ông đă dành trọn vẹn một bài thơ về hiền mẫu. Bài thơ giản dị và thắm thiết, như tiếng líu lo của một con chim non giúi đầu vào ngực mẹ. Âm thanh như lùa vào nhau. Khi rộn ràng, nơm nớp như tiếng nói của trẻ thơ, khi lại lắng ch́m như tâm hồn một kẻ trưởng thành trong tủi cực bỗng xa lánh đời để trở về trút đau thương trên vai mẹ:
Rồi một hôm tôi về xóm nhỏ
(“Nửa đêm về Mẹ,” trọn bài)
Ngày mẹ thương con ngày
con nhớ mẹ (“Chứng tích”)
Ngợi ca t́nh mẫu tử cũng là một lối trở về lại thiên đường xanh của ấu thời man dại. Luyến tiếc ấu thời không những là ước mơ mảnh hạnh phúc nhỏ bé đong đưa trong chuỗi ngày vô tư lự, nhưng c̣n là luyến tiếc thế giới trong sáng đang hiến dâng cả chiều sâu cho nhăn trường nhân loại. Ngây thơ biết ngạc nhiên, biết tin tưởng, biết mến yêu, biết tổng hợp. Trẻ thơ là kẻ ở gần nguồn, có lẽ trong Phúc âm không có lời nào đáng ngạc nhiên bằng câu nói về trẻ con: “Nếu các người không trở thành giống như những đứa trẻ này, các người sẽ không được vào xứ Trời.”
Trong văn chương, xứ trời là một vũ trụ thân ái và tươi mát luôn luôn nghiêng nguồn sinh lực về phía con người, khi con người c̣n giữ được cái "khí hạo nhiên" theo lời Mạnh Tử.
Hoàng Trúc Ly dưới đây, nhớ trẻ thơ, nhưng kỳ thật, là nhớ h́nh ảnh của ḿnh trong thời trẻ dại bên kia khoảng cách của một ḍng sông. Ḍng sông tượng trưng cho ḍng thời gian chảy không ngừng và không bao giờ trở lại: nước đi đi măi không về cùng non…
Tôi đứng bên này bờ dĩ
văng
Trong thơ Hoàng Trúc Ly, rồi đây ta sẽ c̣n bắt gặp nhiều lần đôi mắt luôn luôn điều tiết để tạo cái nh́n trong suốt của trẻ thơ.
Bếp lửa nhà ai lên khói
sương
Có lẽ không có từ ngữ nào diễn tả đầy đủ t́nh yêu của Hoàng Trúc Ly cho bằng chữ Mến Thương: không bao giờ trong thơ Hoàng người đọc bắt gặp những rạo rực cuồng bạo của xác thịt, cũng không có những đau thương da diết ṿ xé linh hồn. T́nh yêu nơi đây chỉ là nỗi niềm thương nhớ mông lung dịu nhẹ. Trong ư thơ và trong lời thơ cũng như trong không khí do h́nh ảnh và nhạc tính cấu tạo chung quanh một bài thơ, chỉ có một ít u hoài mơ mộng:
Mai mốt
em về đâu? (“Gửi người em,” trọn bài)
Thơ t́nh của Hoàng Trúc Ly phảng phất ít nhiều chất "t́nh và mộng" của Lưu Trọng Lư, và gần đây hơn, Quang Dũng. Thỉnh thoảng có thiết tha cũng chỉ nhẹ nhàng như Verlaine.
Từ buổi so le đến lứa đôi
(“Gọi một ḿnh”)
T́nh yêu là một nhu cầu gần gũi, nhưng nhu cầu ấy chỉ dừng lại ở những cảm giác êm ái, dịu nhẹ thoảng qua. Đôi khi có cả âm điệu thân ái của t́nh huynh muội:
Đời lê thê quá tôi về muộn
(“Em có là em”)
Sau những phút lo lắng cho người yêu, thỉnh thoảng Hoàng Trúc Ly lại đợi chờ một cử chỉ âu yếm, một lời nói ngọt ngào sưởi ấm những tháng ngày lạnh lẽo:
Những đêm dài heo hút
ngoại ô
Th́ vẫn một lo lắng: em ngủ một ḿnh… Tôi ngủ một ḿnh… Nhưng nhạc điệu ở đây mơ mộng, t́nh cảm ở đây đằm thắm, người đọc phải vượt qua những mốc ái ân thường t́nh để chia sẻ t́nh yêu với Hoàng. Không phải một lối viễn ái lư tưởng người ta vẫn gọi là "platonique", cũng không phải một thứ t́nh ngây thơ, trong trắng: v́ cả hai loại t́nh cảm ấy đều nảy sinh từ một hoàn cảnh bất lực. Trái lại khí hậu ân t́nh trong thơ Hoàng Trúc Ly nồng nàn quá, đầm ấm quá, người đọc không thể nghĩ đến hai loại t́nh cảm như của Lamartine với nàng Graziella hay Madame Charles. Có thể nghĩ tới t́nh của Baudelaire riêng với Marie Daubrun, nhưng trong thơ Hoàng Trúc Ly phần nhục dục nhẹ nhàng hơn. "Luyến ái huynh muội", có lẽ chữ ấy gần đúng… Sự thân ái vô cùng cảm động khi Hoàng Trúc Ly gửi gấm đến người yêu nguyên vẹn khối cô đơn đang đè nặng lên linh hồn:
Từng đêm từng đêm đời hấp
hối
Những lúc ngắc ngoải trong môi giới của cơi chết, Hoàng Trúc Ly vẫn sợ phải “ngủ một ḿnh.”
Buổi chiều rét mướt vào
chăn gối
Bài thơ trích trọn vẹn sau đây mang khí hậu vừa ướt át vừa nồng thắm như một bếp lửa ân t́nh trong đêm mưa gió; vừa mang tính chất mộng mị hoang đường, xen vào những kỷ niệm u buồn chua xót; và phần âu yếm luôn luôn vuốt ve h́nh ảnh "bé nhỏ người em gái". Nhịp điệu trầm buồn, giản dị, thầm kín như những tia nh́n im lặng; nếu chỉ nói đến nhạc t́nh, có lẽ không có bài thơ khúc nhạc nào êm dịu cho bằng, kể cả "Vạn lư t́nh" của Huy Cận:
Mùa mưa nghe trời ướt mắt
xanh Cũng có thể là thi nhân kiêu hănh, cái kiêu hănh dĩ nhiên và chính đáng của người thơ bị xua đuổi ra khỏi nền Cộng ḥa nhưng vẫn được cẩn thận tṛng lên một ṿng hoa theo đề nghị của Platon. Cái kiêu hănh của bậc trích tiên khi được tướng quốc cởi giày, mài mực như trường hợp Lư Bạch. Anh là kẻ hào hoa, vâng, đời biết anh là một bậc Tư Mă áo xanh rỏ lệ trên những ngón tỳ bà một đêm Giang châu trăng lạnh. Anh là kẻ t́nh si, vâng, đời biết anh là một Nerval đi t́m cái hôn hoàng hậu, từ bên này cuộc đời sang bên kia cơi chết. Anh là kẻ quyền uy, vâng, thời cổ La Hy, thiên hạ gọi thi nhân là kẻ mang tiếng nói của thần linh.
Nhưng niềm kiêu hănh của người thơ sẽ vĩnh viễn dừng lại nơi đây, trong địa lư mênh mông của khoảng trống. Đời biết, nhưng đời vẫn lạnh lùng; bởi vậy những kẻ hào hoa, t́nh si, quyền uy đă có lúc, đâu đó, trở thành thi sĩ côn đồ, b, những Villon, Sade, Rimbaud. Và từ một đầu lănh giặc Châu Chấu đến một cḥm sao sáng trong bảy cḥm Pleiade, những ngơ ngách thi ca dù có quanh co, sợi dây "ariane" nào thiếu chiều dài.
Thơ thường là phần thặng dư của tâm tư; lượng thặng dư tràn ra t́nh trạng thiếu dung tích. Người con gái trước mặt Hoàng Trúc Ly có thể là một định mệnh chưa đạt tới, cũng có thể là một nghệ thuật chưa hoàn tất . Thi sĩ do đó, ư thức được vị trí cao độ của ḿnh, vẫn đ̣i hỏi, mong đợi:
Cô đơn đỉnh núi gần trời
Nghệ thuật đạt đến đỉnh độ thường cô đơn. Cô đơn gần như là đặc tính của nghệ thuật và của thiên tài. Trong Hoàng Trúc Ly nỗi hoang mang kiêu kỳ của kẻ từ cao nh́n xuống, phải chăng là kư hiệu của thơ ông trong tương lai?
Đời biết anh là kẻ hào hoa, và anh biết anh là kẻ hào hoa.
Trong thơ, Hoàng Trúc Ly luôn luôn tỏ ra dịu dàng, lễ độ, đôi khi lễ độ một cách quá đáng, ngay với người yêu:
Mùa xuân c̣n ǵ, thưa em
(“Ca sĩ II”)
T́nh cảm Hoàng gói ghém kín đáo, gần như là lời tỏ t́nh nhiều hơn là t́nh tự. Tao nhă trong ngôn ngữ, tao nhă trong động tác:
Về đâu hoa nở má hồng
Hào hoa đến độ đỏm dáng; không phải là làm dáng trong thi ca, nhưng trước cuộc đời, thi sĩ muốn sống bằng nghệ thuật, đo lường cẩn thận những cử động của ḿnh như họa sĩ đắn đo từng vết cọ. Những cử động tạo trong thơ Hoàng Trúc Ly một sinh khí sống động, náo nức, và những cử động ấy lại tạo ra một trạng thái vừa tĩnh tại, vừa uyển chuyển một vẻ đẹp h́nh thể (1) tựa những tác phẩm điêu khắc của Hy Lạp:
Cô đơn đỉnh núi gần trời
(“Ca sĩ II”)
Con người ưa cử động ấy là một nhà thơ ưa xê dịch. Có thể nói Hoàng Trúc Ly là một thi sĩ lang thang: động từ "đi" hiện diện trong gần nửa số bài của "Trong Cơn Yêu Dấu".
Tôi nay đi giữa hoang
đường (“Hành tŕnh I”)
Ngoài ra c̣n nhiều chữ liên hệ đến ư niệm đổi vị trí như: về, dừng lại, con đường, bàn chân… dường như có thường xuyên trong thơ Hoàng Trúc Ly.
Và thơ ông bắt nguồn từ đại lộ. Không phải là thơ mô tả, nhưng thi sĩ ưa ghi lại nhận xét, suy tư, những cảm xúc, thường là êm đềm, dịu nhẹ qua những cảnh bắt gặp trên vỉa hè cuộc sống. Tiếng tỳ bà có lẽ từ một mái lầu khuya vọng lại, đưa ông trở về sống chơi vơi trên sóng nhạc Tầm dương; hàng cây bên đường mời mọc ông trở lại với kỷ niệm t́nh yêu; đôi mắt cô gái từ khung cửa sổ một đêm gọi ông về với những nhớ thương vạn cổ.
Quang cảnh trong thơ Hoàng Trúc Ly chỉ là cái cớ gợi cảm: tự nó, nó không có một giá trị thẩm mỹ nào. Ngoại cảnh ở đây tầm thường, giản dị, không quy định một vùng địa lư nào rơ rệt, cũng không ghi lại một khoảng thời gian nào đích xác. Quang cảnh ở đây chỉ là giao tiếp giữa nội tâm và ngoại giới. Hăy nghe Hoàng Trúc Ly tả một Hàng Cây Bên Đường:
Người yêu tóc xơa tṛn vai
Người đọc nghĩ đến ngay bức họa khoả thân, và gần đây một họa sĩ khi triển lăm tranh đă trích hai câu để dưới một bức họa loă thể. Hoàng Trúc Ly có thể trách họa sĩ hiểu lầm, nhưng họa sĩ có thể trách Hoàng Trúc Ly nh́n nhầm thiên nhiên. Có lẽ trong cái thế giới thực tế này mọi người đều nh́n đúng, ngoại trừ thi sĩ. Và mọi người đều có lư, trừ các nhà thơ. Nhưng chúng ta yêu mến cái nhầm của thi sĩ v́ họ nh́n khác chúng ta, họ cảm thông sự vật: có nhầm cũng phải là giữa bằng hữu mới nhầm. Chúng ta là kẻ mắt tục, nh́n chỉ thấy bề ngoài và không bao giờ hiểu hết kích thước của tạo vật. Thơ là môi giới giữa người và tạo vật. Và người thơ là người linh thị.
Mô tả hàng cây bằng h́nh ảnh nồng nàn da thịt là một biệt nhăn. Thơ Hoàng Trúc Ly là một loại thơ thân xác. Xin phân biệt thơ thân xác(2) và thơ nhục dục(3) theo gần đúng danh từ xưa kia Phạm Văn Kư đă dùng để gọi thơ Hàn Mặc Tử, khi đề tựa tập Gái Quê. Hoàng Trúc Ly ghi nhận nhiều cảm giác của cơ thể, nhưng không phải dục vọng:
Lắng nghe da thịt tan tành xưa sau (“Ca sĩ I”)
Xin gọi tên tôi dù xa vắng
(“Tuyệt bút”)
Cơ thể dường như nhắc nhở với Hoàng Trúc Ly rằng ḿnh đang sống. Trái tim, ngón tay, bàn chân, mái tóc, đôi môi thượng chuyển lên tác giả những cảm giác, rồi suy tư. Hoàng Trúc Ly thường xuyên lắng nghe cơ thể và âu yếm với thân xác. Jean Pierre Richard, một nhà phê b́nh mới của Pháp nói về anh em nhà văn Goncourt, đă gọi họ là "écrivain épidermique"(4) tưởng ta có thể gọi Hoàng Trúc Ly là thi sĩ của xúc giác.
Hoàng Trúc Ly, nhà thơ hào hoa, phong nhă, con người ưa xê dịch và ưa cử động, yêu ngoại cảnh và yêu cơ thể, con người ấy, đối với cuộc đời có thái độ của một người khách.
Ta hăy t́m hiểu tâm hồn nghịch lữ ấy nhiều hơn dưới ánh sáng t́nh yêu…
***
Người khách ấy không phải là khách lạ, gọi là khách quen chàng sẽ mỉm cười. Nhưng dù lạ hay quen, Hoàng Trúc Ly cũng vừa thân mật, vừa lễ độ, vừa nồng nàn, vừa xa cách.
Người yêu dưới mắt thi sĩ là một nét đẹp, trừu tượng, mong manh. H́nh ảnh người đàn bà ẩn hiện trong ảo giác, giữa những phút xuất thần, khi Hoàng Trúc Ly bắt gặp nghệ thuật, một thứ nghệ thuật hăo huyền, chợt biến:
Từ mùa xuân rụng trên vừng
trán (“Tiếp theo và Hết”)
Có khi người yêu là một tiếng hát; nhưng tiếng hát ngọt ngào, cao vút lại gói trọn niềm u uất của tâm tư. Trong tiếng hát mong manh, thi sĩ đă tiên cảm được những ngày cơ thể tan biến thành âm thanh:
Từ em tiếng hát lên trời
(“Ca sĩ I,” trọn bài)
Có khi người yêu chỉ là tiếng đàn, một tiếng đàn ướt át. Khi loang ra đại dương, khi bay vút không trung, khiến thi nhân ngậm ngùi cho những linh hồn cao cả nhưng cô đơn. Cô đơn như những âm thanh:
Mùa xuân c̣n ǵ, thưa em
Cũng có khi người yêu hiện đến với thi nhân, nhưng Hoàng Trúc Ly ngại ngùng, không muốn ôm thần tượng vào ḷng, sợ nhiệt độ thân xác sẽ làm tan ră tấm thân khói sương của lư tưởng:
Mùa này
em lắng tai đâu? (“Lá hoa duyên,” II)
Phải chăng v́ mặc cảm tội lỗi, v́ những dấu vết bùn nhơ do cuộc đời bốc lên mà Hoàng Trúc Ly từ chối người yêu? Hay Hoàng muốn giữ măi một thần tượng vô h́nh như xưa kia Baudelaire đă từ chối Madame Sabatier? Hoàng Trúc Ly đă chọn lựa xa cách:
Xin em dừng lại môi mềm
(“Lá hoa duyên,” I)
Hoặc có thể đă hơn một lần chết đi sống lại, Hoàng Trúc Ly muốn nh́n t́nh yêu từ một biên giới… Đă từng hấp hối trong cái ngắm nh́n hơn là cái dọc ngang chinh phục:
Ra về tiếng hát thùy dương
(“Lá hoa duyên,” IV)
Quư hóa chăng nữa, chỉ có một ít âm thanh sầu muộn sẽ theo đuổi con người xuống mồ hoang, sẽ đưa tiễn con người về với biên giới của bóng tối. T́nh yêu chỉ là xa cách mông lung, đo bằng một nỗi nhớ nhung dằng dặc:
Với em xa cách thêm buồn
(“Lá hoa duyên,” III)
Trước t́nh yêu, người lữ khách chỉ dừng lại để ra đi, để mang theo ít nhiều lưu luyến, tủi hờn. Hoàng đă từng đứng dưới một mái lầu cao, một đêm mưa, để nh́n lên h́nh ảnh người phụ nữ "chảy" xuống thành thơ:
Nh́n lên cửa khép lầu cao
Hoàng Trúc Ly lại ra đi, rồi anh lại ra đi như đă đến (thơ Hoài Khanh) nhưng sẽ vĩnh viễn mang theo kư hiệu cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên. Và ở đâu, chàng cũng nh́n thấy bóng dáng người yêu: mắt em ở bốn phương trời (thơ Vũ Hoàng Chương).
Qua đây từng giọt buồn
phiền (“Hành tŕnh,” IV)
T́nh yêu là phút im lặng nhiều hơn lúc tự t́nh. Hoàng chuộng khoảng cách của không gian và của âm thanh, khoảng im lặng trong ư nghĩa và trong cảm giác:
Anh mơ thượng đế khi yêu
dấu Những lời cầu nguyện trong giáo đường thiêng liêng v́ không bao giờ được đáp lại bằng ngôn ngữ.
T́nh yêu thiêng liêng là những khoảng im lặng bên nhau.
***
"Trong Cơn Yêu Dấu" c̣n giữ ít nhiều cảm hứng xa xăm: một quê hương êm ả thấp thoáng bên kia h́nh ảnh một người con gái, nhưng quê hương ở đây là kỷ niệm xa xôi, thức dậy trong tiềm thức sau những đau buồn, tủi cực của hiện tại. Quê hương là nỗi hoài mong, nơi trú ẩn, niềm an ủi trong trí tưởng tượng. Thi sĩ tựa hồ như muốn níu kéo những tháng ngày đă mất, muốn dùng những ảo tưởng quá khứ để khỏa lấp đau thương hiện tại:
Tháng chín ban mai cười
gió thổi (“Đường t́nh,” trọn bài)
Người đọc thấy rơ là đề tài quê hương đă bị vượt qua. Nhăn tuyến trong bài thơ đă xóa nḥa màu sắc địa phương. Những nhận xét về ngoại cảnh thân yêu dường như đă ch́m lắng, chỉ c̣n một ít xao xuyến trên diện tích của kư ức; và qua diện tích ấy, Hoàng Trúc Ly nh́n ngoại cảnh bằng đôi mắt trong sáng hơn.
T́nh quê hương đă bừng nở thành một ư thức vị trí. Cương giới sẽ mở rộng: thi sĩ biết tâm hồn ḿnh không chỉ nuôi dưỡng bằng màu xanh của băi sắn, nương dâu, mà c̣n bằng màu trắng của những cánh hoa sen bên bờ sông Hằng, bằng men rượu bồ đào nồng thắm bên kia sông Dương Tử, bằng cả màu đỏ những cánh hoa đào dưới chân Phú Sĩ sơn. Ngần ấy sắc hương sẽ ướp măi trang giấy của thi ca không biên thùy để phát triển những t́nh cảm nhân đạo chàng hằng nuôi dưỡng trong tâm hồn. Sông Hồng, Sông Hằng hay sông Dương Tử cũng sẽ đổ về một bài thơ mang trọn vẹn âm thanh rào rạt của Thái B́nh Dương:
Thái B́nh Dương Thái B́nh
Dương sóng vỗ
Một ư thơ bàng bạc trong thi phẩm là h́nh ảnh những lần chết dở:
Đường xưa trải nhớ nhung
thầm
"Trong Cơn Yêu Dấu" đă từ giă người đọc bằng một trang "Tuyệt Bút". Hy vọng là sau trang tuyệt bút vẫn c̣n…
Mai này tôi chết đi
Từ kinh nghiệm cơi chết, Hoàng Trúc Ly học được cái nh́n của đạo học huyền diệu Đông Phương. Địa dư hôm nay không c̣n những hoang vu, không c̣n sa mạc, không c̣n hải đảo, nhăn trường không c̣n phối cảnh. Nhưng chúng ta phải tạo một khoảng cách bên bờ cuộc sống.
Hoàng Trúc Ly sống được quan niệm ấy dễ dàng hơn người thường nhờ một biệt đăi của số mệnh: những lần chết dở, những lần giao thiệp với ma quái bên kia bóng tối, Hoàng Trúc Ly đạt đến một vị trí xa cuộc đời, vị trí của kẻ “ngoài đời“ , outsider theo tiếng Anh. Dường như Nguyễn Gia Thiều dùng chữ ngoại vật trong Cung Oán..
Từ vị trí ấy, Hoàng Trúc Ly đă cởi được cái nh́n sáng suốt(5) để đạt tới cái nh́n trong suốt(6). Đối chiếu hai trạng thái trong suốt và sáng suốt là đối chiếu hai khả năng thu nhận ánh sáng của tâm hồn.
Ư thức sáng suốt dựa vào niềm tin ở luận lư, và từ chối t́nh cảm, an ủi, nhớ nhung, từ chối u hoài. Một đồng tử sáng suốt không thu nhận vết bợn của t́nh yêu. Ư thức trong suốt, trái lại, làm bằng chiều dày của từ bi, khoan dung, tŕu mến; đối với một ư thức trong suốt, hay thông suốt, chân lư không phải là một công thức, mà là phương cách trả lời cuộc đời, một nghệ thuật sống.
Thơ Hoàng Trúc Ly có cái b́nh thản âu yếm của kẻ đă đạt tới đạo, hiểu theo nghĩa Đông Phương: y hồ thiên lư, nhân kỳ cố nhiên. Văn chương hiện đại là một thứ văn chương sáng suốt, nghĩa là một thứ gương phản chiếu. Thơ Hoàng Trúc Ly trái lại chỉ là một khối thủy tinh, không trả lại h́nh ảnh nào, không đón đợi mà cũng không phải là không đón đợi, chỉ biết thích ứng với tất cả những ǵ đến với ḿnh. Như thế tâm hồn Hoàng Trúc Ly đă đạt đến hạnh phúc tối cao, đă liên hợp được cái ngă và cái vô ngă trong sự thong dong không bờ bến.
Do đó, thơ Hoàng Trúc Ly, không mang những kư hiệu "tuyệt vọng" của thi ca thời đại. Thật ra, trên đời này không có "văn chương tuyệt vọng", v́ lư do giản dị là tuyệt vọng luôn luôn câm nín, không t́nh tự, không thở than. Tuyệt vọng chỉ là một trong những cái cớ của văn chương, ghép lại, "văn chương tuyệt vọng" lại là… mâu thuẫn danh từ.
Hoàng Trúc Ly thản nhiên, và c̣n mỉm cười:
… Nghiêng vai xin khoác nụ
cười áo xanh
Trong một cuốn sách nhỏ nhan đề là "L’ Humeur(Thần Thái")(7) R.Escarpit có phân tích nụ cười thành hai giai đoạn: yên nghỉ trước thực tại, và vượt lên để chinh phục lại thế quân b́nh, an ninh, ưu thắng; nụ cười là ư thức lướt tới, từ hoang mang đến tự chủ. Nụ cười trong văn chương hiện đại rất hiếm hoi và quư giá:
"Ôi nụ cười, cánh ưng vàng
trên cát bỏng" (Saint John Perse)
Trong bộ Thẩm Mỹ Học, Hegel đă cho tiếng cười như là thể hiện cùng cực của ư thức nghệ thuật, tiếp theo sầu muộn: trong sầu muộn c̣n luyến nhớ, ước mong. Vị trí nụ cười là bên kia nước mắt: "Đó là lúc những khả năng về h́nh thức và nội dung đều khô cạn, chỉ c̣n người nghệ sĩ muốn xác nhận sự hiện diện của ḿnh bằng một thể hiện cuối cùng" (Hegel). Nụ cười ghi nhận biên giới tuyệt đối không thể vượt qua, giới hạn sau những buồn đau và phẫn nộ: bên kia là quê hương yên lặng…
Tuy nhiên, nụ cười không phải là tâm trạng tĩnh tại của Hoàng Trúc Ly. Thi sĩ chỉ "khoác" nụ cười, hay chỉ "gửi" nụ cười: bao gồm cả những trạng thái của tâm tư, nụ cười vẫn chỉ là một ṿng tṛn ngoại tiếp. Nụ cười mới chớm đă ch́m vội trong hư không: dường như là biểu hiện của hư vô, rồi gió sẽ mang về trả lại cho hư vô.
Nụ cười sứ giả với ngoại giới - và sứ giả với chính ḷng ḿnh - sẽ mở rộng biên giới thanh b́nh: đi vào "Trong Cơn Yêu Dấu" là lạc vào một thế giới thân mật nồng nàn, âu yếm. Thế giới của h́nh người chan ḥa trong tạo vật.
V́ Hoàng Trúc Ly đă chọn vị trí ngoại vi: một khách đứng ngoài.
Đă phân tích khách tính, thái độ "outsider" của Hoàng Trúc Ly, tưởng cũng nên nhấn mạnh điểm này, đang là vấn đề sôi nổi trong thời đại:
"Chỉ nên trôi nhẹ trên cuộc đời và lướt theo cuộc đời, không nên ch́m sâu" theo bài học của Montaigne. Trong một số báo Nouvelle N R F, Maurice Blanchot có nhắc những ư tưởng tương tự của Valéry và Nietzsche, và gợi ư là văn chương hiện đại chỉ nên trôi theo chứ không nên đi sâu.
Dĩ nhiên một số cuồng tín của "chiều sâu", số "triết nhân chiều Chúa Nhựt" sẽ bĩu môi phản đối. Nhưng muốn nh́n trong suốt, hay thông suốt, chẳng những không nên đi sâu, mà c̣n phải đứng xa. Bàn về sự sáng suốt và trong suốt, J.Onimus viết: "Phải trải qua một cơn hấp hối thật sự của lư trí mới đạt tới cái nh́n thông suốt"(8) tưởng như câu nói này áp dụng rất sít sao vào trường hợp Hoàng Trúc Ly, v́ thi sĩ không những đă trải qua cơn hấp hối của lư trí, mà đă qua nhiều lần hấp hối toàn diện con người. Hơn ai hết Hoàng Trúc Ly thông hiểu lư tương đối của lẽ sống, Hoàng không quằn quại trong mặc cảm đen tối của Oedipe; trong ngôn ngữ, Hoàng không hung hăng đi cướp lửa mặt trời như Prométhée. Hoàng không cuồng nộ đi t́m Tuyệt Đối, v́ biết rằng con người không vĩnh cửu! Thi sĩ tự nhủ:
"Hồn ơi đừng khát vọng đời sống vĩnh cửu, hăy khai thác môi trường những khả thể" theo một câu cổ văn của Pindare, mà Valéry có trích dẫn một lần trên đầu thi phẩm "Nghĩa trang miền Biển (Cimet́ere Marin)" và Camus trích dẫn thêm một lần ở trang đầu tập tiểu luận "Huyền thoại Sisyphe(Le Mythe de Sisyphe)".
Nhờ đứng xa cuộc đời, Hoàng Trúc Ly tránh được những thời trang của văn chương. Có khi mỗi buổi chiều thứ bảy, những năm 1960 giới học thức trẻ Sài G̣n khi thức giấc ngủ trưa bỗng "trở thành hiện sinh". Hoàng là một nhà thơ trẻ tuổi mà vẫn c̣n tự chủ được ḷng ḿnh. Đó là một yếu tố giúp Hoàng Trúc Ly hiện diện thành thật trong tác phẩm.
Và sự hiện diện này vừa gần gũi vừa xa vắng…
SAU CƠN YÊU DẤU
Những bài thơ làm sau khi xuất bản "Trong Cơn Yêu Dấu" báo hiệu một sự đổi chiều trong ngôn ngữ. "Trong cơn yêu dấu" mang khí hậu lục bát trầm buồn, những sáng tác phần nhiều là thơ tự do.
Tuy nhiên vẫn một thể hiện tao nhă, lễ độ, và vẫn cái nh́n dừng lại bên triền cuộc đời, xem thực tại như "môi giới":
Xin mời em chối bỏ tên anh
Những âm vận trữ t́nh lần lượt chuyển sang một khí hậu hoài nghi. Vẫn thái độ trôi xuôi theo cuộc đời, để tâm hồn đong đưa theo những đợt sóng t́nh cảm lăn tăn và hạnh phúc chỉ là những viền bọt mỏng. Nhưng lần này Hoàng Trúc Ly giải thích thái độ buông xuôi của ḿnh bằng mối hoài nghi rộng lớn:
Câu hỏi giáo khoa (Theo "Quốc văn giáo khoa thư" lớp Ba)
- Em hỏi anh trốn học để
làm ǵ? Một ít bài thơ chưa giúp ta có được ư niệm rơ ràng về ư thơ và tiếng thơ của Hoàng Trúc Ly trong tương lai. Nhưng muốn biết một người sau khi nói đến dĩ văng và hiện tại, tưởng cũng nên hé mở khung cửa vào mai sau.
Từ một trái tim thanh niên giàu t́nh cảm đến tâm hồn nghịch lữ trưởng thành ngoài thềm cuộc đời, đế tư tưởng hoài nghi đang mỉm cười với thân phận, thiết tưởng Hoàng Trúc Ly đă gửi đến bằng hữu nguyên vẹn những biến chuyển trong tâm hồn. Tôi vẫn chưa tin là Hoàng Trúc Ly người khách quen thuộc của cuộc sống lại muốn giă từ "môi - giới":
Con số có tên kiếp người
có tuổi
CÂY ĐÀN MUÔN ĐIỆU
Trong văn học quốc ngữ và hiện đại, chỉ có thi ca là nhiều lần hóa thân nhất. Từ Hàn Thuyên đến Tản Đà, qua bảy trăm năm dâu biển, thi ca Việt Nam ít thay đổi hơn giữa khoảng năm mươi năm từ Tản Đà đến Thanh Tâm Tuyền.
Chỉ năm mươi năm, thi ca bao lần hưng phế. Ngày nay đọc văn xuôi của một Trọng Lang hay Tô Hoài c̣n thấy thích, chứ đọc thơ Anh Thơ hay Đoàn Văn Cừ có lẽ phải cực khổ lắm. Ngược lại nếu độc giả Nam Phong và Đông Dương Tạp Chí sống dậy, đọc tiểu thuyết Doăn Quốc Sĩ hay Dương Nghiễm Mậu họ c̣n chịu được, chứ đến đọc thơ Trần Thanh Hiệp hay Tô Thùy Yên chắc họ phát điên.
Sự kiện văn nghệ này không riêng ǵ ở Việt Nam mới có. Ở Pháp cũng vậy, người Pháp c̣n chuộng tiểu thuyết của Balzac hay Stendhal, nhưng nếu đề nghị họ đọc Lamartine hay Musset họ sẽ mỉm cười…
Qua những lần thoát xác, thi ca lại chịu những chu kỳ; ví dụ ở Tây phương, sau cơn sóng siêu thực xô bồ, hiện nay thi ca đang trở lại làm tiếng hát trong trẻo. Làm thơ rất khó từ chối ảnh hưởng những trường phái đồng thời. Phản ứng lại với đương thời đă là chịu ảnh hưởng.
Hoàng Trúc Ly rất trẻ, nhưng ít chịu ảnh hưởng những thi sĩ đồng thế hệ và luôn luôn t́m những giá trị mới trong h́nh thức cũ: "đôi giầy chật thường buộc phải khám phá những vũ điệu mới" theo lời Valéry. Nhưng thơ ông có ít nhiều hơi hướm thơ thời kỳ chống Pháp thời gian đầu, 1947- 1950.
Ví dụ thất ngôn là một thể thơ cũ, Hoàng Trúc Ly đă sử dụng một nhạc tính mới, ngay từ hồi mới tập làm thơ. Bằng cách xen kẽ nhịp thất ngôn luật 4/3 và nhịp 3/4 trong thơ dân gian, nguồn gốc thể song thất:
Ánh sáng hôm nay buồn thủ
đô
Thơ thất ngôn luật thường theo nhịp 4 - 3:
Qua đỉnh đèo Ngang/ bóng xế tà (Bà Huyện Thanh Quan)
Các thi sĩ làm thơ mới thỉnh thoảng có tạo được một nhạc tính lạ, vẫn tôn trọng tiết tấu cổ điển:
Nhị hồ/để bốc/niềm cô tịch
(Xuân Diệu)
Chỉ xin trích dẫn những câu bảy chữ tân kỳ nhất, chứ thật ra, trong thơ Việt Nam, những câu như trên khá hiếm. Trái lại, trong thơ Hoàng Trúc Ly, ngoài âm giai mới, c̣n có tiết tấu lấy lại nhịp song thất:
Người yêu ơi/nước mắt/chưa
lau
Nhịp so le này thường tạo nên cảm giác dang dở, trầm buồn như những câu thơ nhịp lẻ (vers impairs) của Verlaine.
Trật tự bằng trắc trong câu thơ cũng bị xáo trộn mà vẫn giữ nguyên nhạc tính dồi dào. Trừ bài "Nhị hồ" của Xuân Diệu mà tôi đă trích hai câu ở trên thường thường các nhà thơ chuyên lối thất ngôn rất trọng trật tự bằng trắc dù trong những bài có âm điệu mới mẻ nhất, như "Vạn Lư T́nh" của Huy Cận:
Người ở bên trời ta ở đây
Trong thơ bảy chữ, chữ thứ hai và thứ sáu, bằng trắc luôn giống nhau; một bằng, một trắc sẽ bị khổ độc, Hoàng Trúc Ly trái lại dùng âm thanh đối nhau mà vẫn êm ái:
Từ đêm qua mê sảng bắt đầu
Ở những vị trí bất luận (nhất, tam, ngũ) tuy là bất luận, âm bằng hay trắc luôn cân đối, Hoàng Trúc Ly trái lại dùng âm thanh lạ mà vẫn êm ái:
Mùa thu không gió em không về.
Cuối cùng là niêm, Huy Cận, trong bốn câu trên giữ niêm rất đúng, ít khi thi sĩ Việt Nam thoát niêm. Bài "Vỹ Dạ" của Hàn Mặc Tử là một trường hợp hiếm hoi, trái lại Hoàng Trúc Ly thường thoát niêm, dùng câu bằng nhiều hơn:
Ngày quen em phượng đỏ môi
son
Thơ bảy chữ Hoàng Trúc Ly từ âm thanh cho đến tiết tấu thường tạo ra những cảm giác mới mẻ và tươi mát nhờ những âm giai tinh tế.
Thơ tám chữ cũng vậy: nhịp cổ điển của thơ này là 3 - 2 - 3:
Em sợ lắm/giá băng/tràn
mọi nẻo (Xuân Diệu)
Hoàng Trúc Ly dùng nhịp giản dị hơn, không mới, nhưng lạ, êm ả
Ôi những đêm dài/heo hút
ngoại ô
Các nhà thơ tiền chiến thỉnh thoảng vẫn dùng một tiết tấu mới, nhưng cầu kỳ , bác học quá, nên giảm ít nhiều sự luân lưu tự nhiên của nguồn thơ. Ví dụ câu này của Xuân Diệu:
Tôi đi/giữa buổi đầu
ngày/đi giữa
Trái lại Hoàng Trúc Ly t́m những tác dụng vừa mới giản dị, b́nh thường. Ngôn ngữ trực tiếp hơn, gợi cảm hơn, tương tự như một bản đàn.
Và một bản đàn không câu nệ âm thanh, những câu bảy và tám chữ xen kẽ vào nhau, và âm giai tự nhiên đến nỗi không tinh ư sẽ không thấy sự xen kẽ:
Rồi một hôm tôi về xóm nhỏ
Tóm lại trong thơ Hoàng Trúc Ly, âm thanh mềm mỏng, dễ uốn nắn. Nhạc tính chơi vơi, uyển chuyển, nhờ Hoàng Trúc Ly khéo điều ḥa tác dụng thơ thất ngôn luật Đường và thơ bảy chữ dân tộc trong thể song thất, một biên giới mông lung, cho nên trật tự bằng trắc, niêm luật nhịp điệu cơ hồ co giăn một cách hài hoà.
Thi ca Việt Nam phải ghi nhận nơi đây một giai điệu mới.
Thơ tự do Hoàng Trúc Ly cũng êm ái như vậy. Nói đến thơ tự do là nói đến một nhạc điệu ương ngạnh, ngổ ngáo, phá phách. Nhưng thơ tự do Hoàng Trúc Ly êm ả như ca dao, điều ḥa như thủy triều:
Anh đến trường như người
yêu ngoan ngoăn
Nhưng Hoàng Trúc Ly thành công nhất trong thể thơ lục bát. Thơ sáu tám, cấu trúc cố định, nên káo co giăn như các thể thơ khác. Không thể kiến tạo một nhạc tính mới cho h́nh thức thi ca kiên cố ấy: chỉ có thể phổ những giá trị mới của từ vựng vào tiết điệu đă có sẵn, phải đi sang địa hạt từ pháp.
Tôi ơi tôi măi tôi c̣n
Kỹ thuật thơ lục bát của Hoàng Trúc Ly là không có kỹ thuật. Bốn câu thơ hầu như là không có mỹ từ pháp, âm điệu lục bát lại cổ điển. Nhưng không ai từ chối được giá trị của bốn câu này. Vậy thi tính ở đâu?
Có lẽ ở âm điệu vừa giản dị vừa tinh tế. Trong bốn câu chỉ có hai chữ giàu âm lượng là "buồn" và "liêu" c̣n là những âm thanh sáng sủa , b́nh dị, ngắn ngủi. Con người tự t́nh với chính ḿnh: ngôn ngữ trực tiếp, trong sáng.
Nhưng có lẽ chưa ai hài ḷng về lời giải thích này. Trong thi ca, mỗi chữ đều có một âm chấn, và những âm chấn cùng một tần số thường tạo trạng thái giao thoa: trạng thái ấy chính là chất thơ trong thi ca.
Những chữ: trái tim, vết cỏ, bàn chân, lối đi, đêm và bé nhỏ, thơ dại như mời nhau; và những chữ: nỗi buồn, chung thân, tịch liêu cũng gọi nhau, những từ ấy là những âm chấn đồng tần số. Và chạm nhau tạo thành một vùng âm hưởng êm đềm, âu yếm.
Mỗi âm thanh thường gợi một vùng âm hưởng đến những chữ chung quanh và khi những âm hưởng ấy ôm ấp lấy nhau, câu thơ trở thành một cơ thể với những tế bào sống quấn chặt lấy nhau: Chúng tôi gọi một cách cầu kỳ là đă đạt đến một "mạch lạc hữu cơ". Trong câu thơ:
Trời cao bóng nhỏ dặm ṃn chân đi
Những tế bào tạo thành một cơ thể. Nhất là câu này:
Nửa đêm da thịt quên cài áo khuya
Từ ngữ có âm chấn trong câu thơ, bài thơ và đôi khi trong cả một tập thơ hay trong thi nghiệp.
Hoàng Trúc Ly thích những khí hậu ẩm thấp, ướt át, nên trong thơ h́nh ảnh đều mang ít nhiều thủy tính, và Hoàng Trúc Ly thường dùng từ ngữ, mà nếu muốn viết theo lối chữ nôm phải kèm theo "bộ thủy". Như các chữ: mềm, chảy, ch́m, tan, ướt, ră mục, chơi vơi, lênh đênh…
Sáu dây rét mướt chưa mềm trăng khơi.
"Mềm" là trạng thái có khả năng đổi h́nh thể tự nhiên hay dưới tác dụng của nước. Lăo Tử viết "quí nhu", nghĩa là chuộng cái mềm dẻo, và "thủ hư", nghĩa là giữ cái hư không, và Lăo Tử đă nói thêm: "Thường khoan dung ư vật": b́nh thường khoan dung với mọi vật, chúng ta thấy Hoàng Trúc Ly đi rất gần với Đạo giáo: thi sĩ chuộng cái mềm, biên giới giữa chất đặc và lỏng, v́ dường như những vật mềm hứa hẹn một chiều sâu. Baudelaire trái lại chuộng những vật rắn như cẩm thạch, kim khí; Jean Pierre Richard bàn luận cho rằng một diện tích rắn tượng trưng cho bức tường bất khả xâm phạm, cả trí thức lẫn trực giác của con người không thể vượt qua, che giấu một thế giới tuyệt đối, hoàn toàn xa lại với con người(9). Chất mềm ngoài ra c̣n là một khả năng đổi dạng, v́ cái nh́n Hoàng Trúc Ly đă khám phá ra tương đối tính của h́nh thể.
Mùa mưa nghe trời ướt mắt xanh
"Ướt" khác với mềm ở chỗ chỉ là trạng thái của ngoại diện. "Ướt" là sự tương phản giữa chất đặc và lỏng; sự giao tiếp hời hợt dừng lại ở vị trí bên ngoài. Và "mềm", "ướt" là những trạng thái tĩnh tại. "Chảy", trái lại là luân lưu:
Bóng em chảy xuống vực sâu mắt buồn
Chảy là đổi cao độ, di chuyển vị trí từ cao đến chỗ thấp hơn, theo độ dốc của thiên nhiên: "thủy chi tựu hạ dă", nước chảy xuống chỗ trũng. Hoàng Trúc Ly c̣n viết:
Như ngày đêm ngọn thủy
triều lên xuống
Hoàng có khuynh hướng lướt xuôi theo thiên nhiên, gần giống như chủ trương "thuận vật tính, thượng tự nhiên" của Trang Chu.
Nhưng "chảy" trên ngoại vật, là di chuyển trên một mặt bằng. "Ch́m", trái lại là lắng xuống chiều sâu:
Giấc mơ thê thảm bóng ch́m đêm sâu
Ch́m: từ ngữ gợi một ư niệm mới: ư niệm về trọng lượng. Ch́m là di chuyển theo chiều đứng, t́m về đáy của sự vật. "Rụng" trái lại chỉ t́m một thế quân b́nh xuống mặt phẳng .
Tay xuôi mười ngón rụng sầu
Trong văn chương "ch́m" thường diễn tả thất bại (trong khoa học trái lại theo nguyên lư Archimède, là một ưu thế về trọng lực). Chỉ có thất bại mới đi sâu vào đáy tạo vật, phải chăng là kinh nghiệm đau thương của những kẻ thám hiểm chiều sâu cuộc đời ?
Tuy nhiên, "ch́m" vẫn c̣n giữ được h́nh thể. "Ră mục" trái lại là bị phân hóa, hủy diệt:
Xác thân ră mục lời thề
"Ră mục" là thất bại vĩnh viễn dưới tác dụng lâu dài của nước, một ngoại thể thấm đều vào nội chất.
Mềm, ướt, chảy, ch́m, ră mục, những từ ngữ thường gặp trong thơ Hoàng Trúc Ly, phản chiếu quan niệm sống, một lối nh́n vào tạo vật. Từ ngữ ấy, trở lại nhiều lần, tạo khí hậu cho thơ Hoàng Trúc Ly, một không khí kín đáo và nhất khí.
Có người sẽ trách chúng tôi chẻ sợi tóc theo chiều dài, nhất là đang nói về h́nh thức bỗng bàn sang nội dung.
Xin đáp: trong thơ, h́nh thức và nội dung là một. Phải dùng cái nh́n sâu lắng để t́m nội dung trong h́nh thức và h́nh thức trong nội dung, v́ một tác phẩm văn nghệ không có hai giá trị khác biệt, mà là một thể hiện duy nhất.
Hoàng Trúc Ly là một nghệ sĩ khéo lựa tiếng đàn. Trong thi phẩm từ ngữ luôn luôn tạo thành một ḥa âm tinh tế. Thường những bài lục bát của Hoàng chỉ có bốn câu, nhưng bốn câu ấy tựa vào những âm vọng, âm hưởng ḥa hợp lẫn nhau để tạo thành một sinh khí, một cơ thể, một năng lực.
Nghệ thuật diễn tả của Hoàng Trúc Ly đạt đến độ tài t́nh. Hoàng Trúc Ly phả hơi thở mới vào các h́nh thức đă già nua. Hoặc bằng nhạc điệu, hoặc bằng từ vựng, Hoàng Trúc Ly chứng tỏ rằng thi ca Việt Nam vẫn c̣n những kho tàng chưa khám phá.
Hoàng Trúc Ly đến với nhân gian dưới khuôn mặt hào hoa, phong nhă, với thái độ chừng mực của một khán giả, một khách lạ. Nhưng trong cô đơn, ông đă dùng cả tinh lực để pha chế từng màu sắc đậm nhạt, dung ḥa từng ánh sáng mờ tỏ, để tạo ra một thế giới thật hơn thế giới chúng ta…
KẾT TỪ
Tôi vẫn chưa muốn rời Hoàng Trúc Ly. Thơ Hoàng có chất nhựa giữ người, tâm hồn Hoàng mời gọi triền miên. Thi sĩ than thở:
Những tiếng nói chưa hề được nói
C̣n bao nhiêu lời tôi chưa kịp nói về Hoàng? Những đau thương u hoài bàng bạc trong thơ Hoàng, tôi chỉ nói sơ lược. Tôi cũng không nhấn mạnh đến ám ảnh bệnh tật. Và bao nhiêu lời tôi chưa kịp nói, Hoàng Trúc Ly đă trần t́nh:
"Tôi lớn lên giữa khôi hài của công lư, giữa tật nguyền của luân lư, giữa hủy hoại của linh hồn. Tôi không hề hổ thẹn khi gục đầu trên những ám ảnh cô độc, ma quái, thú vật, tự tử đang đe dọa đời tôi như những áng mây đen".
Trong thi ca Hoàng Trúc Ly giữ một địa vị đặc biệt. Địa vị của thi sĩ dường như vượt lên hẳn các trường phái thi ca; ngôn ngữ của ông tươi mát, mới mẻ, trong sáng, ở một giai đoạn mà Tây phương cũng đang biến thi ca thành tiếng hát…
Nếu trước Đệ Nhị Thế Chiến, thơ Tây phương phá phách, bí hiểm bao nhiêu th́ trong hai mươi năm gần đây, thi ca muốn bỏ tham vọng t́m tuyệt đối của Mallarmé, bỏ ư định đi "cướp lửa mặt trời" của Rimbaud. Trường phái siêu thực dần dần phá sản, trường phái bí hiểm cũng dần dần im tiếng. Nếu tiểu thuyết và sân khấu tiếp tục tra hỏi cuộc đời, thi ca trái lại ve vuốt cuộc đời bằng những âm thanh óng ả. René Chair, Alain Bosquet… ở Pháp; Eugenio Montalo, Umberto Saba… ở Ư; Rafael Alberti, Frederico Garcia Lorca… ở Tây Ban Nha đều góp công đưa thi ca trở lại thời kỳ giản dị, trong sáng…
Nhất là Frederico Garcia Lorca, người mà Hoàng Trúc Ly đă bỏ công nghiên cứu và chịu ít nhiều ảnh hưởng về quan niệm nghệ thuật cũng như về ngôn ngữ thi ca, Frederico Garcia Lorca vẫn chủ trương đưa thơ trở lại với dân ca b́nh dị.
Chỉ ngôn ngữ b́nh dị mới diễn tả được quan niệm nhân sinh của Hoàng Trúc Ly.
Trở lại bài học Hoàng Trúc Ly, chúng ta mến phục phong thái nghệ sĩ muốn vượt lên trên cuộc đời để nh́n cho "trọn vẹn".
Cô đơn đỉnh núi gần trời
Trước cuộc đời, Hoàng Trúc Ly chỉ đóng vai người khách hào hoa phong nhă. Thi sĩ đă trở lại đời sống thanh thoát của nhà hiền triết Đông Phương. Ngôn ngữ tân kỳ ảnh hưởng của Tây phương, nhờ đó, đă chắp cánh để bay vút lên cao.
Thơ Hoàng Trúc Ly là một miền siêu thoát.
Đọc thơ ấy sẽ học lại cái nh́n thản nhiên và tŕu mến, và nụ cười vừa hiền dịu vừa b́nh tĩnh.
Trong nhập đề, tôi đă hứa chỉ vẽ chân dung Hoàng Trúc Ly qua một nụ cười và cái nh́n. Có lẽ tôi đă đi quá, hoặc không làm trọn vẹn lời hứa.
Bây giờ, khi giă biệt thi nhân tôi xin tri kỷ giữ hai nét trên một nhân diện đă khắc sâu kư hiệu của Nghệ thuật và Định mệnh: nụ cười trong và đôi mắt sáng.
ĐẶNG TIẾN (Sài G̣n - 1964)
_____________
(1) Beauté plastique. (2) Poésie charnelle. (3) Poésie érotique. (4) Littérature et sensation, Edit, du Seuil, 1954. (5) Regard lucide. (6) Regard limpide. (7) Collection Que Sais-je, 1960. (8) Face au monde actuel, nxb Desclee de Brower, 1962. (9) Poésie et profondeur, Editions du Seuil, 1955.
_____________
Ghi chú: - Bài này viết cho một cuốn sách không được xuất bản, về sau đă đăng trong tạp chí Tân Văn, Sài g̣n, số 3, phát hành tháng 7.1968 - Gia đ́nh nhà thơ đă in lại trong thi tập Hoàng Trúc Ly: Khi người lớn từ biệt trẻ con, nxb Trẻ, Tp HCM, 2008. - Tập Trong cơn yêu dấu, nxb Hướng Dương in tại Sàig̣n, 1963. - Nhà thơ Hoàng Trúc Ly tên thật là Đinh Đắc Nghĩa, sinh tại Đà Nẵng, ngày 14 tháng 4 năm 1933, mất tại Sài G̣n ngày 23 tháng 12 năm 1983 sau một tai nạn lưu thông. - Đọc lại và ghi chú tại Đà Nẵng, Tết Kỷ Sửu, ngày 25 tháng 1 năm 2009.
|