Đặng Tiến

HUẾ  THA  HƯƠNG

 

Nhân Festival Huế năm 2000, một đài phát thanh ngoài nước muốn ghi âm giọng Huế nguyên chất. Có người khuyên nên phỏng vấn những người Huế định cư ở Hoa Kỳ, nơi c̣n nhiều người giữ truyền thống. Lời khuyên nghiêm trang có vẻ như đùa.

 

Từ ngoài nước nói về văn chương Huế mà không nhắc đến những tấm ḷng hải ngoại c̣n hướng về cố đô, là vô t́nh và bạc bẽo. Ở hải ngoại có nhiều hội thân hữu, ái hữu, đồng hương Huế, nhiều hoạt động văn hóa tích cực, như ban tổ chức Ngày Nhớ Huế vào hôm 28-8-1994 tại Westminster, quận Cam, California.

 

 

HUẾ, MÙA BIỂN ĐỘNG

Trong văn học ngoài nước, người viết nhiều nhất - và có lẽ hay nhất về Huế - là Nguyễn Mộng Giác, người B́nh Định, đă dạy học và làm rể Huế. Trong bộ tiểu thuyết trường thiên Mùa Biển Động, năm tập, ông đă dành 2 tập đầu mô tả hoàn cảnh và tâm lư Huế những ngày biến động 1964-1967, khi quần chúng Huế, kéo theo một số tỉnh miền Trung, nổi dậy chống chính quyền Trung Ương: “Huế là ngọn cờ đầu cho một cuộc vận động dân chủ hóa chế độ, tự do hóa chính trị, dân tộc hóa quân sự...”(?) (tr. 291).

 

Hai tập Những Đợt Sóng Ngầm (1984) và Băo Nổi (1985) ghi lại những ngày hào hứng, sôi nổi của đường phố Huế “tưng bừng biểu t́nh như đi trẩy hội...” (tập II, tr. 245) hồi quang một số sự kiện lịch sử có thực với những địa danh, tên người cụ thể. Mùa Biển Động III kể lại mấy ngày Tết Mậu Thân 1968 với những trận đánh, những xử lư tàn bạo mà chúng ta đều biết. Suốt 800 trang, Nguyễn Mộng Giác làm sống lại một giai đoạn sôi động tại Huế, bằng kỷ niệm và rung cảm tha thiết, từ những điều nghe thấy, suy nghĩ, và tra cứu. Nhưng vẫn có một số người không vừa ư, cả bên này lẫn bên kia.

 

Riêng về thành phố Huế, Nguyễn Mộng Giác đă nhiều lời ưu ái: “Khắp miền Nam Việt Nam, Huế là nơi c̣n giữ được nhiều truyền thống lễ nghi dân tộc nhất (...) đă giữ được một nét biệt lập. Một thứ mơ mộng cổ điển pha lẫn nét kiêu hănh cô đơn (...). Cách ăn mặc hay cách cúng kính tổ tiên trong đêm giao thừa có cái ǵ... có cái ǵ lỗi thời một cách đáng cảm động (...). Dường như thời gian ở đây đă dừng lại từ lâu...” (tr. 511).

 

 

HUẾ, NIÊU CÁ BỐNG KHO KHÔ

Nhà văn, họa sĩ Vơ Đ́nh, gốc Huế, dời quê từ mười bảy tuổi (1950), hai mươi bốn năm sau trở về mái nhà xưa, một đêm cúng giao thừa, đă đứng giữa sân “̣a ra khóc”; “Khóc um lên! Nước mắt tôi cứ tuôn ra như suối! Tôi khóc đến nỗi ngă khuỵu xuống chiếu thờ...” (Chiếc Ṿng, 1978, trong Xứ Sấm Sét, tr. 63).

 

“Thật lạ, tôi xa Huế ngót một phần tư thế kỷ, mà khi trở lại Huế, tôi tưởng như đă không bao giờ bước chân ra đi (...). Thế mà xa ngôi nhà ở Mỹ chưa đầy ba tháng, khi về tôi lại tưởng như đă chết đi, đầu thai lại bao nhiêu lần, và nay ở kiếp này đang đưa chân vào một thế giới lạ lùng, cách biệt (...). Tôi đánh mất thời gian giữa ngày rời Huế lần thứ nhất cho đến ngày rời Huế lần thứ hai (...). Ḍng nhận thức trong tôi hiện vẫn c̣n xuôi đúng mức như ngày tôi rời Huế lần thứ hai. Như thể ngày tôi về Huế, một thứ nhiên liệu nào đó đă bốc cháy, thắp sáng trong tôi, và đến nay vẫn c̣n hừng hực...” (Xứ Sấm Sét, tr. 74).

 

Thành phố, và con người, trong tư cách Huế, như cắm sào ngoài thời gian. Có những con người, không cứ ǵ là Huế, dù đi bất cứ xứ nào, sau bao năm tháng, vẫn giữ đậm đà màu sắc của tuổi thơ và quê cũ, như lời thơ Bùi Giáng:

 

Hỏi rằng người ở quê đâu

Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà

 

Vơ Đ́nh lưu lạc giang hồ gần trọn đời, khắp bốn bể năm châu. Nhưng trọn đời vẫn là một tảng đá dưới gốc cây, bên một ḍng sông nhỏ. Lá rụng nước trôi, đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, ăn th́ vẫn “niêu cá bống thệ, trách muối sả, đọi nước tôm kho đánh” (Sao Có Tiếng Sóng, tr. 228). Nới rộng tâm hồn cho lắm cũng chỉ bao la đến “miếng cà bát hấp dằm nước mắm tỏi...” (tr. 233). Mặc dù mảnh áo nhà quê kiểu “nhật b́nh do mẹ may tay...” (tr. 245), “lỡ ra tôi có chết ở xứ người th́ hăy lấy bộ nhật b́nh mặc cho tôi trước khi đem di hài tôi đi hỏa táng...” (tr. 246). Về xứ Huế ngàn năm văn vật, đẹp và thơ, Vơ Đ́nh chỉ nhớ một “vũng bùn dưới chân thành cửa Thượng Tứ...” (tr. 79), thậm chí, nhớ một băi phân trâu ở An Ḥa, quê nội! (Sao Có Tiếng Sóng, tr. 235).

 

Nói về Huế, phải nghĩ trước tiên đến những tấm ḷng. Sẽ là “bất nhơn vô hậu” nếu không nhớ đến Vơ Đ́nh. Nhà văn Túy Hồng có lần “cam đoan không ai yêu Huế bằng tôi”. Tôi ngờ là có Vơ Đ́nh.

 

Có thể thêm một người nữa là Trúc Chi với tập tùy bút Đó Đây mới xuất bản (1999). Trúc Chi là người Huế, đồng lứa với Vơ Đ́nh, nhưng có vẻ tiếp thu cuộc đời uyển chuyển hơn. Nhắc tới Huế, Trúc Chi thường buồn đau v́ những mất mát “h́nh như Huế là nguồn buồn của tôi” (tr. 38). Buồn vui thường kiểu cách trưởng giả, dù khi ông nhắc lại, rất hay, những cảm nhận tầm thường. Ông dành một chương dài cho lối pha nước chấm của người Huế “Tao ớt với mỡ heo mà làm nước ruốc. thơm nhờ chút mỡ heo xưa nay của ḿnh đó (...). Trong một miếng thịt, vị ở trong nạc, mà hương phải t́m trong mỡ. Không phải nói phách tấu, chớ thiệt ra ôn mệ ḿnh cũng đă rành lắm rồi” (tr. 204).

 

“Vị trong nạc và hương trong mỡ” là kiểu nhấm nháp khề khà rất Huế và rất Mệ. những trang văn xuôi hay về đất Thần Kinh, ít khi tả cảnh lăng tẩm đền đài, mà chỉ dừng lại ở cảm giác riêng tư.

 

 

HUẾ, D̉NG SÔNG TÍM

Nhà thơ Trần Hồng Châu, học ở Huế gần với thời Huy Cận, cũng bắt đầu làm thơ ở Huế như Huy Cận. Ông đă ghi lại ở Thành Phố Trong Hồi Tưởng: “Tôi nhớ sông Hương. Nhớ đến đau nhói, ḍng nước như ngưng đọng trong thời gian ngưng đọng của một đô thành cổ kính, dường như cũng đứng bên ngoài cái trôi chảy không ngừng của lịch sử? Hương cỏ bồ và hồ huệ trắng... Hồi đó, những vần thơ đầu tiên chợt đến, hồn nhiên dung dị... Đó là ḍng sông của những tà áo vân vê, hay bước đi ngập ngừng, đánh dấu mối t́nh đầu của tuổi hai mươi” (tr. 19-20).

 

Trần Hồng Châu, bút danh giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, người Hải Dương, đă đi nhiều nước, dừng lại nhiều ḍng sông lớn lứng danh, nhưng ở đâu cũng giao cảm với hồi quang “màu thời gian tím ngát” từ ḍng sông tuổi hai mươi. “Sông vẫn lững lờ trôi. Nước xanh nhạt ngả sang tím hoa cà. Một con chim lạc đàn bay lượn (...). Nước sông từ màu hoa cà ngả sang đen nhạt. Xa xa một làn sương” (tr, 22-24).

 

Ḍng sông tâm linh. Ánh sáng mong manh của Màu Thời Gian.

 

Nhà văn Mai Kim Ngọc học mấy năm trung học tại Huế, đă ghi lại nhiều cảnh sắc êm đềm thắm thiết trong truyện dài Muôn Kiếp Cô Liêu. Nguyễn Xuân Hoàng, bà nội người Huế, đă sống nhiều mảnh đời bên bờ sông Hương c̣n giữ những kỷ niệm thiết tha:

 

“Huế, thành phố của tuổi mười sáu gắn chặt ta vào với Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. Ôi thỏi nam châm t́nh ái của con đường đi qua Đập Đá và ánh nắng mới lên trên những hàng cau hiu quạnh...

... Ôi Huế rêu phong buồn bă, thành quách cuồng tín, mưa dầm nắng cháy!

... Huế bạo động và trầm lặng như đêm,

... Huế cổ tích và hiện đại,

Xin chào thành phố buồn thiu, con sông lặng lẽ.

Xin nghiêng ḿnh trước một xứ Huế của những con người chịu đựng bền bỉ dẻo dai mănh liệt hơn bất cứ một người dân nào trên thế giơi<151>.

... Huế, xin hăy chờ ta...

Hăy làm bộ vĩnh biệt Huế, nghe!”

(Huế, mà ta sẽ trở lại, Căn Nhà Ngói Đỏ, 1989, tr. 160-170)

 

 

HUẾ, BUỒN CHI

Trong lớp các tác giả hải ngoại trẻ tuổi hơn, Nguyễn Bá Trạc đă có nhiều bài thơ hay về Huế, quê ngoại, tài hoa, tươi thắm:

 

Chao ơi cơn gió mùa đông cũ

C̣n thổi mưa lên mấy cửa thành

Vườn nhà ông ngoại thơm hoa bưởi

Khi tóc em vừa mới chớm xanh

Năm mười tám tuổi pha ngây ngất

Yêu một ḍng sông những chuyến đ̣

Trưa trên Văn Thánh thơm mùi gỗ

Anh chẳng cho ḷng chút đắn đo

Anh nhớ Thanh Long cầu nước chảy

Bao nhiêu nước chảy những cơn mê

Anh vô quê mẹ năm mười một

Huế hay Hà Nội cũng là quê

(Quê Mẹ, báo Văn Học, số 20, 1987)

 

H́nh ảnh cụ thể, nhạc điệu u hoài đan quyện vào nhau thắm thiết. Tâm cảnh và phong cảnh giao thoa, một bài thơ t́nh hay và Huế đẹp.

 

Thơ cũ có câu “yêu nàng bao nhiêu người làm thơ”. Yêu Huế, số người làm thơ c̣n nhiều hơn nữa. Hoàng Xuân Sơn ở Canada, nhà thơ Huế 100% đă dành nguyên một tập thơ cho cố quận. Huế Buồn Chi, nói chuyện Huế, tả cảnh tả t́nh Huế, bằng từ vựng Huế:

 

Huế buồn chi, Huế không vui

Huế o ở lại, Huế tui đoạn đành

O đau sương khói một ḿnh

Tui đi ray rứt nội thành tái tê

Huế buồn chi, tội rứa thê!

T́nh xưa nghĩa cũ ngó về tựa nương

Huế ơi mộng tới đường trường

Kim Luông Vỹ Dạ ḍng Hương có c̣n

 

Ḍng sông, Đông Ba, Gia Hội nhất định sẽ c̣n trên cố quận. Chỉ e nó mất đi trong ḷng chư vị cố nhân. “Cái mất mát đó làm cho tôi buồn. Tôi không lo Huế không nhận ra tôi, tôi chỉ lo ḿnh nhận không ra Huế”, Trúc Chi đă nói lên lời minh mẫn (Sđd, tr. 41). Cảnh xưa vẫn vậy, chỉ ngại ḷng xưa. Cứ nh́n con sông Hương lừng danh thiên hạ, chỉ một vũng nước mưa cũng chung thủy với Vơ Đ́nh những mấy mươi năm: “Ở chân thành cửa Thượng Tứ vũng nước thủy chung không biến dạng, đă chờ đợi tôi suốt một phần tư thế kỷ, để hôm ấy, rất t́nh cờ ngước lên chờ đón một kẻ quy cố hương. Trời!” (Xứ Sấm Sét, tr. 79). Vơ Đ́nh kêu Trời là phải. Kêu Người, sẽ không ai hiểu ông nói điều ǵ. Làm thơ kiểu Hoàng Xuân Sơn, dễ “tiếp thu” hơn. Và ông Hoàng-Thơ-Huế đă có những câu thơ hay:

 

Nước xiết chân rồi, đ̣ không lại

Thương thương này gửi gió qua bờ

Gửi màu mây xám giăng ô cửa

Cho nhớ nhung mềm những sợi thơ

 

Nguyễn Mộng Giác, sau khi ca ngợi, đă giải thích những sợi mưa thưa làm mềm ḷng người. Cũng là cách... “tiếp thu”.

 

 

HUẾ, NHĂN VÀ SEN

Thơ Huế hay, có rung cảm, lắng đọng và chắt lọc phải trích dẫn Nguyễn Xuân Thiệp, dù h́nh ảnh quê hương chỉ thoáng qua, len lỏi vào những đề tài khác, rộng hơn:

 

Mai mốt chị qua vùng thảo nguyên

Ngày reo vui. Vườn chim bay chim

Ḷng reo vui. Reo tà áo lụa

Chị gội đầu bằng nước hoa chanh

Hương tóc bay sang. Chiều vời vợi

Chị ơi. Mai qua vùng thảo nguyên

Mang cho em một chùm nhăn chín

Ôi. T́nh xưa như nhăn và sen

Dẫu t́nh phai khi chưa kịp hẹn

(Thảo Nguyên, trong Tôi Cùng Gió Mùa, tr. 89)

 

Bài thơ làm năm 1980, trong trại học tập cải tạo, mà “thảo nguyên” là một ẩn dụ. Trong trại giam, nhà thơ đă sống lại màu sắc, hương vị của những t́nh xưa. Nhăn và sen, và người chị xứ Huế ấu thơ, là những kỷ niệm có thật. Nguyễn Xuân Thiệp - nhà thơ Huế Châu Liêm ngày xưa - c̣n nhiều bài khác rất hay về sông Hương núi Ngự trong tập Tôi Cùng Gió Mùa, (1998).

 

 

HUẾ, TỪ VĂN HỌC ĐẾN T̀NH NGƯỜI

Không ai yêu Huế bằng người Huế, đă đành. Tuy nhiên, viết về Huế, hay nhất, chưa chắc đă là người Huế, và đó chính là niềm kiêu hănh của một địa phương. Người Huế hay hát, nhưng bài hát về Huế được phổ biến nhất là Tiếng Sông Hương của Phạm Đ́nh Chương, không phải là người Huế và không mấy hiểu biết về cố đô. Tiêu biểu cho Huế, theo hướng vừa phản ánh, vừa dự báo, có lẽ là bài Về Miền Trung của Phạm Duy, làm tại Đại Lược năm 1948.

 

Người Huế, khi viết hay về quê hương, là nhờ ở t́nh người chứ không phải màu sắc địa phương: Trường hợp Vơ Đ́nh. Nếu ông ấy sinh trưởng ở Lai Châu hay Rạch Giá th́ văn chương vẫn hay, và hay theo phong cách ấy, kiểu ông ấy.

 

Chưa kể người Huế, khi ca ngợi quê hương, một đôi lúc lấy cớ để ca ngợi bản thân hay ḍng họ. Dù không lá ngọc cành vàng th́ cũng mũ cao áo rộng. Nhớ Huế, với là nhớ những vàng phai son nhạt, có khi đi ngược chiều ánh sáng thời đại.

 

Nhắc lại văn chương Huế, đă đành là phải đi t́m những hương nhạt màu phai trong thời gian đă mất. Nhưng chủ tâm là ghi lại t́nh người. T́nh người với một mảnh đất. T́nh người với người.

 

Tấm ḷng người ăn ở với nhau vững bền hơn vàng son cung điện, cao quư hơn chữ nghĩa văn chương. Huế hay không Huế cũng vậy thôi.

 

Đặng Tiến

 

art2all.net