Đặng Tiến Hữu Loan, đèo Cả
Hữu Loan là khuôn mặt văn học đặc biệt trong nền thi ca đương đại từ hơn 60 năm nay. Ông làm thơ hay, hiện đại, tân kỳ, nhưng tên tuổi thường xuất hiện theo thời sự. Màu tím hoa sim, làm trong thời chống Pháp, là bài thơ nổi tiếng nhất, nhưng được nhắc nhở, đôi khi không phải v́ lư do văn học, thậm chí c̣n làm nhiễu lư luận văn chương. Khắc họa chân dung văn học chân chính và phức tạp của Hữu Loan là việc khó nhưng trước sau cũng phải làm. Ông tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2.4.1916, tại làng quê, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, và qua đời cũng tại đây, ngày 18.3.2010. Qua non một trăm năm dâu biển, sinh và mất cùng một xóm quê, đă là nét đặc biệt, trong nhiều đặc biệt khác của Hữu Loan. Ông thường kể lại là ḿnh xuất thân từ một gia đ́nh nông dân, tá điền nghèo. Nhưng chắc là không nghèo lắm nên mới được học và đỗ tú tài năm 1938. Thời đó là học hàm cao : với văn bằng này Xuân Diệu đă đi làm Tây Đoan, Vũ Hoàng Chương đi làm thanh tra hỏa xa, c̣n Hữu Loan th́ không dính dấp ǵ đến quan trường. Thỉnh thoảng giận đời - năm ba lần trong đời - ông đă bỏ bút mực về quê cầy ruộng, đánh cá, từ 1958 th́ đi xe thồ chở củi, chở đá nặng nhọc. Cũng lại là điều không giống ai. Ông cưới vợ giàu và gia thế, dù cho bà ấy có mất sớm, th́ nếu muốn nhờ cậy, ông vẫn có nơi dựa, như là quan hệ với « ba người anh đi bộ đội », trước kia là học tṛ ông dạy kèm trong nhiều năm, về sau chức trọng quyền cao, nhất là trong Đảng. Cũng là nét đặc thù. Thêm nhiều chi tiết khác, tổng hợp lại, có thể vẽ lên chân dung Hữu Loan. Ông có ch́m nổi, có gian lao thật, nhưng là cuộc đời do ông chọn lựa làm một cây « gỗ vuông chành chạnh ». Lịch sử có eo ép thật, nhưng là lịch sử chung, c̣n hoàn cảnh riêng, có phần do Hữu Loan tạo ra, không phải là quy luật. Điều thiệt tḥi cho ông là : khi nhắc đến Hữu Loan, ít người quan tâm, bàn luận đến những đóng góp lớn lao của ông vào nghệ thuật thi ca từ thời 1945 đến nay. Ít nhiều cũng do chính bản thân ông không mấy quan tâm đến sự nghiệp văn học, dù ông là một trong những người đi tiên phong trong việc cách tân thơ Việt Nam.
~~000~~
Bắt đầu là bài Đèo Cả, làm năm 1946 :
Đèo cả ! Đèo Cả Núi cao ngút Mây trời Ai Lao Sầu đại dương Dặm về heo hút Đá Bia mù sương Bên quán « Hồng Quân » người ngựa mỏi Nh́n dốc ngồi than, Thương ai lên đường ! Chầy ngày lạc giữa núi Sau chân lối vàng xanh tuôn Dưới đây bên suối độc Cheo leo cḥi biên cương (…) Rau khe, cơm vắt Áo phai màu sa trường Ngày thâu vượn hú Đêm canh gặp hùm lang thang Trên báo Văn Nghệ, Việt Bắc, số 7, tháng 12-1948, trong mục Tiếng Thơ, Xuân Diệu đă giới thiệu trích đoạn này trong bài viết tại Vĩnh Yên, ngày 23.11.1948 : « Tôi yêu, tôi phục bài thơ hoang vu Đèo Cả. Một Đỗ Phủ của thời mới đă gọi cái đèo chênh vênh ấy, đứng trong đất nước ta, đứng giữa Phú Yên với Khánh Ḥa, mà lại hóa thành heo hút quá. V́ bên này là ta, bên kia là giặc. Nhất là khi chiến tranh chưa lan toàn quốc, từ Bắc Bộ, đi suốt vào Đèo Cả, lên Đèo Cả thấy bên kia giặc rắc tai ương. Đèo Cả biên thùy, đứng trên đầu bể thẳm đụng tới mây cao, Đèo Cả treo giữa biên thùy, mà cái đẹp trầm hùng ngang với ḷng chiến sĩ » (tr.35). Xuân Diệu viết hào hứng, v́ rung cảm trước bài thơ, chứng tỏ giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Ông không đề xuất tên tác giả, có lẽ v́ bài thơ không kư tên, được đăng trên báo Chiến Sĩ, của Quân khu IV, in tại Vinh, số 8, năm1947 ; lư do không kư tên có thể v́ chính tác giả Hữu Loan làm chủ biên tờ báo. Lại là một nét đặc biệt. Bài Đèo Cả, có lẽ làm trong chiến dịch Nam tiến ; không khí nhắc đến những bài thơ phá thể, tự do đồng thời, gắn liền với Cách mạng tháng Tám, là Nhớ Máu của Trần Mai Ninh, làm xong ngày 9.11.1946 tại Tuy Ḥa, hay bài Ngoại Ô Mùa Đông 46 của Văn Cao, cùng đăng trên báo Văn Nghệ, số 1 và 2, năm đầu tiên, 1948. Cùng một mạch thơ, khoảng cuối 1950, đầu 1951, Hữu Loan có bài T́nh thủ đô do bè bạn ghi theo trí nhớ, và tác giả đă duyệt lại :
Trên những chuyến xe ḅ đi về đường Trèm Vẽ Việt Bắc âm u Đường dài Thanh Nghệ Người Thủ đô tản cư Đoàn xe ḅ Chở nặng tâm tư Một góc nhà Một hè phố Mắt em biếc Một chiều xưa (…) Những người bắt sống Le Page và Charton Những chiến sĩ Cao Bằng - Đông Khê Những binh đoàn biên giới Đang chuyển về Trung Du Như đi từng dăy núi Kẹp ṿng quanh ngoại vi Thủ đô. (trích theo Dương Tường, phụ lục « Chỉ tại con Chích Cḥe », nxb Hội nhà Văn, Hà Nội, 2009) Bài này phảng phất ít nhiều hơi hướm, t́nh cảm lăng mạn, như trong Màu Tím Hoa Sim, viết về người thật và việc thật xảy ra trong đời Hữu Loan : người vợ trẻ mới cưới, tên Lê Đổ thị Ninh, chết v́ tai nạn – té xuống sông – ngày 25 tháng 5 âm lịch 1948, theo lời kể Hữu Loan. (Ngoài đề : bà Ninh là cháu gọi nhà văn Tchya Đái đức Tuấn bằng cậu )
Nàng có ba người anh đi bộ đội… (…) Tôi người Vệ quốc quân xa gia đ́nh Yêu nàng như t́nh yêu em gái Ngày hợp hôn nàng không đ̣i may áo mới (…) Tôi ở đơn vị về cưới nhau xong là đi Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại Lấy chồng thời chiến chinh mấy người đi trở lại (…) Nhưng không chết người trai khói lửa mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng (…) Sự việc, tự nó đă thương tâm. Nó c̣n bi thảm hơn nữa khi người đọc tưởng tượng ra cảnh người vợ chết v́ bom đạn, và qua lời thơ kết, lăng mạn, bi thiết :
Những chiều hành quân qua những đồi sim Màu tím hoa sim Tím cả chiều hoang biền biệt Nh́n áo rách vai Tôi hát trong màu hoa… Cái chết ở đây là do tai nạn, thời nào, nơi nào, cũng có thể xảy ra ; nhưng nó đă xảy ra trong thời chiến tranh ; và tác giả đă khéo lồng vào khung cảnh khói lửa :
Ba người anh từ chiến trường Đông Bắc Được tin em gái mất trước tin em lấy chồng… Do đó bài thơ có tính chất truyền cảm sâu, và biểu tượng mạnh, trên một đất nước đau thương, tang tóc v́ một chiến cuộc kéo quá dài ; giới văn học ngày nay gọi là « liên văn bản ». Điều này không loại trừ tính nghệ thuật của tác phẩm và tài năng của Hữu Loan, nhưng những tiếng khóc của thời đại cũng đă góp âm vang nỉ non vào tác phẩm. Chưa kể là bài thơ khi ra đời, đă bị ngăn chặn, v́ tính cách bi quan, « phản chiến » của nó, trong giai đoạn chiến đấu quyết liệt. Tác phẩm miêu tả sự thật, mà bị cấm đoán th́ càng được truyền tụng, truyền miệng, nhất là về phía « bên kia ». Câu chuyện dài ḍng – thậm chí ngoài đề – tôi sẽ trở lại trong một bài khác. Trong nguồn thơ kháng chiến, tháng 12 - 1956, bài thơ mừng xuân « Ôm Tết vào ḷng », phấn khởi sau chiến thắng và ḥa b́nh, nhưng vẫn c̣n tím bầm thương tích của chiến tranh :
Tết và mùa xuân Như mắt người ứa lệ Những người đầu tang c̣n Rối tóc rối khăn Ôm Tết vào ḷng Băng bó lại mùa xuân Cùng nói lên nói lớn một lần Không được giẫm lên mùa xuân Không được giẫm lên Tết nữa Không được giẫm chân lên ḷng người. (Giai Phẩm, Xuân 1957,Thơ Văn, tr 55-57, nxb Văn Nghệ, Hà Nộị, tháng 1-1957) « không được giẫm lên ḷng người » là một khuynh hướng trong tâm đạo Hữu Loan, thiết tha với tự do, thường xuyên phản kháng. Ông tham dự vào phong trào Nhân văn giai phẩm ; trên Giai phẩm mùa Thu, tập 2, có bài « Cũng những thằng nịnh hót », làm tháng 9-1956 :
Một điều đau xót Trong chế độ chúng ta Trong chế độ Dân chủ Cộng ḥa Những thằng nịnh c̣n thênh thang đất sống (…) Chúng nó ngụy trang Bằng tổ chức bằng quan điểm nhân dân bằng lập trường chính sách Chúng nó c̣n thằng nào Là chế độ chúng ta chưa sạch Phải làm tổng vệ sinh cho kỳ hết mọi thằng. Những người đă đánh bại xâm lăng Đỏ bừng mặt v́ những tên quốc sỉ Ngay giữa thời nô lệ Là người, chúng ta không ai biết cúi đầu. Trên Giai phẩm mùa Đông, tập 1, tháng 12.1956, Hữu Loan c̣n có truyện ngắn « Lộn ṣng » mô tả những tiêu cực trong đời sống khó khăn của giáo giới Thanh Hóa. Thời điểm này, ông phải đi tham gia Cải cách ruộng đất, chứng kiến nhiều cảnh ngộ bất nhẫn. Bà vợ sau của ông, gốc gác địa chủ lại là nạn nhân trực tiếp của chính sách. Ông bỏ biên chế tại nhà xuất bản Văn Nghệ, bỏ Đảng, bỏ Hà Nội, về quê Thanh Hóa sống lao động lam lũ và lầm than : lần này th́ đốn củi, thồ củi, thồ đá bằng xe ḅ bánh gỗ và bị áp bức mọi bề. Ông vẫn một ḷng dũng cảm và kiên quyết sống bất khuất, nuôi nấng đàn con mười đứa. Năm 1988, Hữu Loan 72 tuổi lại xuất hiện trong thời sự văn nghệ và chính trị, đột xuất và xung phong tham gia vào chuyến đi xuyên Việt do một vài anh em trong Hội văn nghệ tỉnh Lâm Đồng tổ chức, để đấu tranh, đ̣i hỏi tự do, dân chủ. Và có bài thơ Chuyện Di Tề :
Lịch sử là một tṛ hề diễn lại diễn đi chưa có ǵ mới mẻ chỉ có bọn Trùm Hề là nhiều ngón bịp mới hơn
Trong bối cảnh đó, ông tự chọn và khẳng định cách tồn tại :
Tôi là cây gỗ vuông chành chạnh suốt đời đă làm thất bại mọi âm mưu đẽo tṛn để muốn tùy tiện lăn lóc thế nào th́ lăn lóc. Chân tính đấy Hỡi Ŕu Bào Phó mộc Lưu ư : những chữ Ŕu, Bào, Phó mộc viết hoa. ~~000~~
Người xưa có câu « cái quan định luận » : đóng nắp quan tài, mới định luận được phẩm giá một người. Ngày nay sự việc có phần phức tạp hơn. Nhưng với Hữu Loan qua cuộc đời dài, « tuổi già non thế kỷ », sôi nổi, khói lửa, trầm luân, đánh giá từ đâu, kiểu ǵ đi nữa th́ chúng ta đều phải ghi nhận và đề cao hai nét son : tài hoa và tiết tháo. Làm nhớ đến một câu văn tế người xưa, thời nảo thời nao, nay đă xa xăm :
Ngọc dầu tan, vẻ trắng nào phai Trúc dẫu cháy, tiết ngay vẫn để.
Đặng Tiến Orléans, vào Xuân, 21.3.2010
________________________________
Phụ thêm của art2all :
Hữu Loan, cây gỗ vuông chành chạnh - Tiêu Dao Bảo Cự T́nh thủ đô, một kiệt tác đời hồ như quên hẳn - Dương Tường Ôm Tết vào ḷng - thơ Hữu Loan
|