Đặng Tiến

 

NHỚ CỐ HƯƠNG XAO XUYẾN TẤC L̉NG

 

Chuyện Ḥn Vọng Phu nằm trong truyền thuyết dân gian, có ghi lại trong phần phụ lục Lĩnh Nam Chích Quái [i], một tập truyện dân gian bằng chữ Hán, xuất hiện rất sớm, có lẽ từ thời Trần. Riêng phần phụ lục, th́ người đời sau thêm thắt vào, có lẽ đầu thời Lê.

Theo truyện, núi Vọng Phu thuộc huyện Vũ Xương, ở cửa bể đạo Thuận Hóa thuộc tỉnh Quảng Trị bây giờ. Ngày xưa có hai anh em ruột, một trai, một gái, làm nghề đốn củi. Một hôm, người anh lỡ tay chặt trúng vào đầu em, rồi tưởng em chết, bỏ trốn. Cô em được người cứu, đem về nuôi, lớn lên lấy chồng lại kết hôn đúng ngay với anh ḿnh. Người chồng một hôm thấy vết sẹo trên đầu vợ, khám phá ra là em ḿnh, nhưng sợ, không dám nói ra. Anh lấy cớ đi buôn rồi bỏ nhà đi. Người vợ không rơ nguồn cơn, bế con ngày ngày trông đợi và biến thành ḥn đá, được dân gian gọi là đá Vọng Phu.

Ở Việt Nam có nhiều tích như vậy. Cứ ở đâu có đá lớn, mang dáng dấp mẹ bồng con là nhân dân gọi là đá Vọng Phu. Ở Lạng Sơn có sự tích nàng Tô Thị vọng phu :

Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa

Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh

 

Núi Vọng Phu tại Lạng Sơn đă được Nguyễn Trăi nhắc đến trong Dư Địa Chí là sách ra đời từ 1438, nhưng bị đời sau thêm thắt nhiều. Riêng chuyện Tô Thị, th́ Nguyễn Thiên Túng, người đương thời với Nguyễn Trăi, có lời giải thích sai, nhầm nàng Tô Thị Việt Nam với nàng Tô Huệ tác giả bài «Hồi Văn» bên Tàu (sử gia Hà Văn Tấn đă vạch ra điểm sai khác).[ii]

Dù sao đá Vọng Phu trên đỉnh núi Tam Thanh ở Lạng Sơn cũng đă bị sét đánh, sụp đổ từ lâu. Sử sách đời Tự Đức đă nói rơ ràng như thế [iii]. Gần đây, người ta phá núi để lấy đá xây cất, nhưng nói rằng «phá Ḥn Vọng Phu » th́ không chính xác. Nghe nói có xây tượng Vọng Phu bằng vôi.

Ở Quảng Trị có câu :

Mẹ thương con ngồi cầu Ái Tử

Vợ trông chồng đứng núi Vọng Phu

 

Núi Vọng Phu này, theo sách đă dẫn, thuộc huyện Vũ Xương thời Lê, đến thời Nguyễn đổi thành Đăng Xương, nay là Triệu Phong. Không rơ dáng Vọng Phu có c̣n không. Theo tên huyện có thể đặt truyện vào đầu thời Lê.

Tại B́nh Định, trên đỉnh núi bên cửa Đề Gi thuộc huyện Phù Cát có ḥn đá Trông Chồng, người địa phương cũng giải thích bằng truyền thuyết (đại khái) như đă kể, và có ghi lại trong Đại Nam Nhất Thống Chí.

Nhưng chính thức trên bản đồ địa dư, lập ra từ thời Pháp thuộc th́ Ḥn Vọng Phu thuộc thị xă Ninh Ḥa, tỉnh Khánh Ḥa, giáp giới Phú Yên – thuộc tỉnh Phú Khánh ngày nay. Trên bản đồ người Pháp gọi là La Mère et l’Enfant, độ cao được ghi là 2022 mét.

Cảm động là h́nh ảnh người vợ trông chồng hóa đá ; c̣n v́ đâu người chồng phải ra đi và đi đâu th́ ai muốn giải thích kiểu ǵ cũng được. Người xưa dựng chuyện anh em ruột lấy nhầm nhau là để bảo vệ phong tục, đề pḥng những quan hệ loạn luân – và sự việc nêu lên cũng hiếm. Đời sau cho rằng người chồng ra đi là v́ chinh chiến là một dự tưởng hợp lư, trên một đất nước thường xuyên bị chiến tranh suốt mấy trăm năm. Truyền thuyết Vọng Phu, từ đó mang kích thước tâm cảm và nhân đạo, dân tộc rộng lớn hơn.

Người nới rộng kích thước t́nh cảm ấy là nhạc sĩ Lê Thương.

*

Lê Thương tên thật là Ngô Đ́nh Hộ, sinh năm 1913 theo Phạm Duy, giấy tờ ghi sinh ngày 8-1-1914 tại Hà Nội, từ 1941 vào định cư tại  Sài g̣n, qua đời tại đây ngày 19-6- 1996, là một trong vài ba nhạc sĩ tiên phong trong trào lưu nhạc mới Việt Nam – thời đó gọi là âm nhạc cải cách để phân biệt với nhạc cổ truyền. Lê Thương là tác giả đầu tiên có tác phẩm được tŕnh diễn thành công, với bài Tiếng Đàn Trong Đêm Khuya, do ban kịch Thế Lữ tŕnh diễn tại nhà hát lớn Hà Nội, đầu thu 1938. Sau đó mới đến Con Thuyền Không Bến của Đặng Thế Phong (1918-1942) tại hội quán Trí Tri Hà Nội, cuối thu 1938 [iv]. Cả hai bài hát đều là tác phẩm đầu tay. Lê Thương c̣n là người có công đầu trong việc phổ nhạc vào thơ: Bông Hoa Rừng (1941) của Thế Lữ, thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư ; bài hát ngày nay c̣n nhiều người nghe là Thu Trên Đảo Kinh Châu, dựa trên một bản dịch bài Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của Đinh Nhật Thận. Sau đó, Phạm Duy mới phổ nhạc bài Cô Hái Mơ (1942) của Nguyễn Bính, cũng là nhạc phẩm đầu tay. Theo Phạm Duy, Lê Thương «là người soạn nhạc có nhiều tâm hồn thi sĩ nhất trong đám người tiên phong của nền tân nhạc. Lời ca của Lê Thương thật là vô địch, ngay từ lúc này cũng như măi măi về sau».[v]

Tác phẩm mới nhất của Lê Thương là ba bài Ḥn Vọng Phu sáng tác từ năm 1946, muốn gọi là trường ca, truyện ca, tổ khúc ǵ cũng được. Lời ca đặc sắc, một phần do Lê Thương sáng tạo từ khối vốn ngữ vựng phong phú, lối kết hợp h́nh ảnh mới mẻ, táo bạo và cách sử dụng âm hưởng tác phẩm Chinh Phụ Ngâm được truyền tụng. Sinh thời, Văn Cao khâm phục nhạc phẩm này.

Đặc điểm trong nhạc phẩm là phần III, Lê Thương đă cho Người Chinh Phu Về, trong khi trong truyền thuyết, người chồng không trở về, và trong nguyên tác Chinh Phụ Ngâm, người vợ chỉ mơ ước ngày chồng về để «giữ ǵn nhau vui thuở thanh b́nh».

Dường như phần I và phần II Ai Xuôi Vạn Lư được sáng tác đồng thời (1946), c̣n phần III làm sau, v́ ư thức chính trị của tác giả dường như có biến đổi. Phần I rền vang tiếng trống lệnh xuất quân, ṛn ră, phấn chấn, dồn dập :

Lệnh Vua hành quân trống kêu dồn

Quan với quân lên đường

Hàng cờ theo trống dồn

 

Đây là khí thế của những năm 1945-46 thời Nam Bộ kháng chiến, thời Nam tiến, Tổng khởi nghĩa. Nhưng sang đến phần II, không khí trở nên buồn thảm, bi quan :

Có ai xuôi vạn lư

Nhắn đôi câu giúp nàng

Lấy cây hương thật quư

Thắp lên thương tiếc chàng

Thôi đứng đợi làm chi…

 

Lê Thương tham gia kháng chiến tại Nam Bộ, rồi về thành rất sớm (1948), có lúc bị Pháp bắt giam. Thời gian này, ông làm bài Bà Tư Bán Hàng, giản dị, b́nh dân, nhưng có giá trị tuyên truyền cao. Phải chăng, ở Ḥn Vọng Phu, phần I và phần II được sáng tác tùy hứng như thơ Chính Hữu, Quang Dũng, Hoàng Cầm cùng thời. C̣n phần III, Người Chinh Phu Về, ông đă chín muồi về ư thức chính trị :

Tiếng núi non lưu luyến tấc ḷng bao ngh́n năm

Từ bóng cây ngôi mộ bên đường

Từ mái tranh bên đ́nh trong làng

Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống…

 

Và hơi nhạc rộn ràng, ngây ngất, mang khí thế hào hùng của đoàn quân chiến thắng :

Bóng chàng chập chùng vượt núi non cũ

Với hành lương độ đường

Chiếc hùng gươm danh tướng…

 

Tác phẩm Ḥn Vọng Phu là một bài hát yêu nước đậm đà, sâu sắc, ca ngợi đất nước và dân tộc, nhưng  sau khi công bố, vẫn không được hát tại các vùng kháng chiến như nó được phổ biến rộng răi tại các thành phố bị Pháp chiếm. Trước hết v́ cá nhân tác giả đă bỏ kháng chiến về thành. Sau nữa, h́nh tượng chờ chồng hóa đá không phù hợp với biện chứng cách mạng, với h́nh ảnh người phụ nữ «  ba sẵn sàng », nhất là sẵn sàng chiến đấu như những Út Sâm, Út Tịch, Bà Má Hậu Giang, Người Mẹ Cầm Súng ; v.v… Chưa kể đến ngôn ngữ gọt giũa mượn của Chinh Phụ Ngâm bị kết án lạc hậu, bi quan, phản chiến. Những câu «Bên Man Khê c̣n tung gió bụi mịt mùng» lấy từ Chinh Phụ Ngâm bị xem là vô ư thức v́ ca ngợi Mă Viện là … kẻ thù ! ( điều này Chế Lan Viên đă viết). 

Ḥn Vọng Phu của Lê Thương, khúc nhạc tuyệt vời, đă vươn lên từ những khắc bạc trong cuộc sống, những điêu linh của dân tộc. Trầm hùng, tha thiết, khi vút cao, khi sâu lắng, Ḥn Vọng Phu là những đau thương đă thăng hoa. Trong lịch sử, chiến thắng của bên này là thất bại của bên kia; trong nghệ thuật th́ khác: cái đẹp chiến thắng khổ đau – là chiến thắng của mọi người, của con người. Nghệ thuật là con người đánh ngă định mệnh.

T́m về Ḥn Vọng Phu là để lắng nghe những ấm lạnh, những ngọt bùi, giọt giọt chắt lọc từ cơi-người-ta u minh và bất hạnh ;

 

Đặng Tiến

Xuân 1994, đọc lại Giáng sinh 2008

 


 

[i] Lĩnh Nam Chích Quái, nxb Văn Hóa, 1960, Hà Nội, tr.116. Đọc thêm.

-Vũ Ngọc Phan, Truyện Cổ Việt nam, nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1957, tr.88. Sudestasie in lại, 1979, Paris, tr.65.

-Nguyễn Đổng Chi, Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam, tái bản 1993, nxb Văn Nghệ TP HCM, cuốn I, tr.182.

-Hữu Ngọc và François Corrrèze, Anthologie de la Littérature Populaire Vietnamienne, nxb l’Harmattan, 1982, Paris, tr. 136 có ghi các dị bản.

[ii] Nguyễn Trăi Toàn Tập, nxb Khoa Học Xă Hội, 1976, Hà Nội, tr.209, 239 và 651.

[iii] Đại Nam Nhất Thống Chí, cuốn 4, nxb Khoa Học Xă Hội, 1971, Hà Nội, tr.361.

[iv] Nguyễn Văn Tư, Kỷ Niệm Vui Đời Nhạc Sĩ, nxb TPHCM, 1993, tr.120.

[v] Phạm Duy, Tạp Chí Văn Học, California, số 2, tháng 3-1986, tr.80. Đọc thêm Hồi Kư II (1990), chương 20 và Hồi Kư III (1991), chương 2.