|
Vĩnh biệt Phạm Duy, 1921-2013 : nghe lại tổ khúc BẦY CHIM BỎ XỨ
Trên những mảnh đất cằn
cỗi miền Trung, người dân quê thường nghe câu hát: H́nh tượng đơn giản và bi thiết. Chim ǵ mà lại xanh? Ở đây chắc không phải sứ giả của Tây Vương Mẫu trong điển cố. Gọi là chim xanh để đồng hóa con chim với không gian của nó, màu trời bát ngát và sắc lá mượt mà. Màu xanh của sông biển, rừng núi, ruộng đồng giăng lả giăng la; thế giới mông mênh của cánh chim, ở đây, bị giới hạn vào băi cát nhỏ bé. Băi cát th́ có ǵ cho chim bươi chải? Thế mà chim vẫn ăn quanh, vẫn không bay xa theo tầm mời gọi của trời cao đất rộng. Con chim nhẫn nại, chịu đựng thủy chung với băi cát khốn khó, là h́nh ảnh con người Việt Nam, thời này qua thời khác.
Thế rồi một buổi sáng, những cánh
chim xanh, chim hồng, loài chim tóc trắng, những vàng anh và ô thước,
cùng một lúc vỗ cánh bay đi, thành một áng cầu vồng ngũ sắc. Dường như có giọng ḥ mái nh́ cất lên đâu đây, năo ruột như muốn níu lấy, muốn giữ lại năm sắc cầu vồng cho sông nước quê hương. Nhưng Bầy chim bỏ xứ đă bay xa, lưới đêm dầy đặc sập xuống, chỉ c̣n vọng trong sương đêm giọng ḥ nức nở và tiếng nước th́ thầm. Tổ khúc Bầy chim bỏ xứ mà Phạm Duy vừa hoàn thành sau mười lăm năm thai nghén, sáng tác và tu chỉnh là một trường ca đặc sắc về nhiều mặt nghệ thuật và tư tưởng. Muốn giới thiệu cần một bài dài, ở đây tôi chỉ nêu lên hai điểm ḿnh tâm đắc nhất. Trước hết là cái hồn dân tộc, qua những câu ca dao, đồng dao, những làn điệu dân ca mà Phạm Duy đă dày công sưu tầm và chuyển vào một nhạc phẩm hiện đại, một cách tài hoa và uyên bác. Chim là một biểu tượng nghệ thuật không riêng ǵ của Việt Nam, nhưng đặc biệt gắn bó với dân tộc ta, từ những cánh chim khắc họa trên trống đồng Ngọc Lũ, vật tổ của dân tộc ta, đến những tên Văn Lang,Âu Lạc, Hồng Bàng, Mê Linh, Trưng Trắc... dường như cũng là tên những loài chim. Cổ tích chúng ta từ xa xưa, có lẽ từ thời nhà Lư, đă rộn ră lời chim, con chim ăn khế trả vàng, con vàng ảnh vàng anh chui vào tay áo. Nay Phạm Duy đưa những lời chim muôn đời ấy vào chung một trường ca, mà anh gọi là Tổ Khúc trong hai nghĩa. Nhiều khúc hát được « tổ chức » thành chuỗi, chung quanh một chủ đề, hay là khúc hát những con chim cùng một tổ, hay cùng bay về một tổ. Một dịp để chúng ta suy nghĩ thêm về ư nghĩa hai chữ Tổ Quốc.
Đơn giản và cảm động bao nhiêu
khi được nghe hát lại một câu ca dao: Ngày nay khoa khí tượng tân tiến đă xua đi những loài chim báo băo, chúng ta được thông tin khoa học, nhưng lại mất đi những đàn chim én và những bờ ao, nghĩa là những cánh ước mơ và những bờ ḥ hẹn chênh chếch sao mai.
Phạm Duy ươm lại tuổi thơ của
chúng ta bằng những câu đồng dao ăm ắp t́nh người sau bao gian truân
vẫn biết che chở đùm bọc lấy nhau để bảo tồn cuộc sống, bên ngoài
những kỳ thị phân chia:
Cùng một dạng với câu này, chúng
ta c̣n có nhiều câu khác: Kỳ nhông là ông kỳ đà hoặc Bầu ơi thương
lấy bí cùng. Phạm Duy c̣n nhắc lại câu:
Câu đồng dao hóm hỉnh, có ư mỉa
mai ông chú bà cô, nhưng chủ yếu nhắc chúng ta thận trọng cử chỉ để
tránh đổ vỡ, v́ như một nhà văn đă nói: ở đời có những đổ vỡ không
hàn gắn lại được. Chúng ta cảm động khi nghe cụ Phạm Duy , 1991,vào
năm làm lễ thượng thọ bảy mươi, c̣n lo hàn gắn « khâu vá » những
tan vỡ do lịch sử và con người gây nên.
Đây là điều thứ hai tôi tâm đắc.
V́ nhạc Phạm Duy nhiều lúc bi thiết, do nhu cầu nghệ thuật, nhưng
lời hát không bi quan, không vuốt ve những vết thương và tiếc nuối
mông lung, mà mang sức cường tráng xô đẩy người Việt đến gần nhau,
ngồi lại với nhau, dù chỉ là để nghe nhau hát. Phạm Duy Liêm Pha*
truyền thụ cho đời sau niềm tin ở cuộc sống, con người và đất nước,
anh tin ở một ngày về, ngày Bầy chim hồi xứ. Niềm tin đó, cũng là
một đặc tính của dân tộc ta như câu phương ngôn C̣n da lông mọc,
c̣n chồi xanh cây :
Phạm Duy cho chúng ta một làn
điệu quan họ tuyệt vời:
Bầy chim bỏ xứ
dồi dào nhạc tính dân tộc, nhưng tác giả không dễ
dăi dừng lại ở những làn điệu cổ truyền, anh không lập lại những
điệu sẵn có dù hợp với đề tài như Lư con sáo, C̣ lả...Có lẽ
v́ thế mà con c̣ vốn thân thuộc với dân quê và đồng ruộng Việt Nam
chỉ xuất hiện thoáng qua. Người nghe mơ tưởng: Câu này , theo Vũ trung tùy bút của Phạm đ́nh Hổ, xuất hiện từ thế kỷ XVII khi quan quân nhà Lê phải đi đánh nhau với nhà Mạc ở các vùng biên giới phía Bắc. Và con c̣ hiện thân gầy guộc của người phụ nữ Việt Nam, ngày nay vẫn c̣n hiện đại, qua bóng dáng những người vợ, cuối thế kỷ XX, từ 1975,vẫn gánh gạo nuôi chồng, trong mươi, mười lăm năm với những gian nan và tủi nhục mà người phụ nữ thời Lê Mạc chưa hề biết đến. Dĩ nhiên bầy chim bỏ xứ là một tác phẩm nghệ thuật, ta không nên đ̣i hỏi tác giả phải thêm vào chuyện nọ chuyện kia. Nhạc cổ truyền do nhân dân sáng tác tùy hứng, để nâng đỡ lời ca, một cách hồn nhiên, do đó nó có những hạn chế nhất định về mặt ḥa âm, và tiết tấu, và khó tách rời khỏi lời ca. Phạm Duy phải giải quyết một khó khăn lớn: Lời ca trong tổ khúc phải hay, phải mang một thông điệp nhân đạo và lại phải bắt nguồn từ ca dao, trong khi đó nhạc cú cũng phải hay, hiện đại và phong phú. Thính giả ngày nay trong đó có người nước ngoài, không ai kiên nhẫn ngồi chịu đựng một nhạc điệu nghèo nàn, trong bốn mươi lăm phút.
Phạm Duy phải để ra non mười lăm
năm, đă sử dụng kiến thức kinh nghiệm và tài hoa của một nửa thế kỷ
sáng tạo và sáng tác để hoàn tất một tuyệt phẩm. Bầy chim bỏ xứ
bắt đầu khoan thai đằm thắm rồi trở thành bi thiết. Có đoạn hồn
nhiên, nhí nhảnh, rồi trầm lắng đắm say, trước khi bay bổng nâng cao
lời thơ :
Có lúc hào hùng, giục giă như
trống xuất quân, rồi lại trở về thanh thoát, bao dung. Bầy chim
bỏ xứ nay trở thành Bầy chim ngàn xứ; chim đă yêu ḿnh
nên nhớ yêu người mà vẫn chung t́nh với một gốc đa, một nóc rơm.
Con chim Đỗ Quyên qua kinh nghiệm xa nước và nhớ nước, qua kinh
nghiệm tử sinh, đă nhận ra được lẽ huyền đồng tạo vật, cho nên lời
hát thăm thẳm bao la, hóa giải mọi biên giới phù trầm :
Kết từ đẹp của một bài ca đẹp, và
một cuộc đời đẹp. Huy Cận, ở tuổi gần thất tuần c̣n có câu thơ trẻ,
khỏe :
Phạm Duy là cánh chim say mê
những chân trời, soải cánh không ngừng nghỉ, không mệt mỏi, và bóng
chim đă vẽ lên không gian đường bay của nghệ thuật và đường về của
tâm tư. Người xưa trên địa bàn, khắc h́nh chim để làm kim chỉ nam:
nhạc Phạm Duy là địa bàn cho nhiều thế hệ. Đặng Tiến Orléans, viết lại 05-10-2011, mừng thượng thọ 90 tuổi. Cập nhật ngày 27-1- 2013 , vĩnh biệt Phạm Duy.
----------------------------------------
Mời nghe
|