Đặng Tiến

 

Tưởng niệm Nguyễn Mộng Giác

VỀ THỂ LOẠI

Tiểu thuyết trường thiên

 

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác - Tranh Đinh Cường

                                   (Nguồn : tác giả Đặng Tiến)

 

 

Trường thiên tiểu thuyết là thuật ngữ Nguyễn Mộng Giác đă dùng để gọi thể loại mà ông sử dụng khi viết Mùa biển động: một tiểu thuyết dài nhiều lần hơn mức trung b́nh, chia thành nhiều tập, đưa ra một tuyến nhiều nhân vật, sống trong một giai đoạn lịch sử dài, và những hoàn cảnh khác nhau.

Có thể nói Nguyễn mộng Giác là «  chuyên gia » về thể loại này : ông c̣n là tác giả bộ tiểu thuyết lịch sử, lấy thời kỳ Tây Sơn làm bối cảnh, bộ truyện Sông Côn Mùa Lũ, bốn cuốn, dài khoảng 2000 trang, viết tại Sài G̣n từ tháng 5-1978 đến tháng 3- 1981, tu chính tại Hoa Kỳ 1990, và nhà An Tiêm của Thanh Tuệ xuất bản, cùng năm, tại Cachan- Paris và California. Sách được tái bản trong nước, tôi không nhớ xuất xứ, v́ tôi có một bộ nhưng đă gửi tặng…tác giả ! Sách, v́ ấn hành trong nước, đă gây tai tiếng và phiền hà cho người viết tại Mỹ.

 

Như vậy, mấy chữ trường thiên tiểu thuyết đă mất nghĩa đầu tiên của nó: trước kia, nó chỉ là truyện dài, khác với trung thiên tiểu thuyết là truyện vừa, và đoản thiên tiểu thuyết là truyện ngắn. Từ ngày báo Phong Hóa, năm 1932, đưa ra từ truyện ngắn, th́ dần dần người ta chỉ c̣n dùng hai chữ truyện dài, truyện ngắn. Cũng cần thêm rằng, hai chữ truyện ngắn mượn của người Anh, dịch từ short story, chớ người Pháp và người Trung Quốc, thầy ta lúc ấy, không có khái niệm truyện ngắn, hiểu theo quan niệm bây giờ.

Tiểu thuyết trường thiên không phải là một phát minh son trẻ.  Đông Châu liệt quốc hay Tam quốc chí đă là truyện trường thiên hay, đọc lại không chán và không thấy dài. Người Pháp có truyền thống tiểu thuyết trường thiên từ Rabelais đến Balzac, Zola, Jules Romain, v.v.

Ở Việt Nam, người thí nghiệm tiểu thuyết trường thiên đầu tiên có lẽ là Nhất Linh, phần nào dưới ảnh hưởng của các tác gia Pháp nói trên, và một số tác phẩm bề thế khác của Tolstoi mà ông rất hâm mộ. Ông tŕnh bày quan niệm và dự tính sáng tác qua lời giới thiệu bộ truyện Xóm Cầu Mới, khởi thảo từ 1940 viết dang dở và in năm 1973: «Xóm Cầu Mới là bộ trường giang tiểu thuyết gồm một loạt truyện dài, đặt dưới tên chung Xóm Cầu Mới. Mỗi truyện dài lại có tên riêng. Những truyện dài có liên can hoặc xa hoặc gần đến cái xóm Cầu Mới, mà các nhân vật chính hay phụ phần nhiều lấy ở số người tới ngụ cư trong xóm. Tuy có cái tên chung, và tuy các nhân vật có thể có mặt ở trong hết cả hay một số lớn các truyện, nhưng độc giả có thể đọc một truyện mà không cần đọc truyện khác cũng không bị thắc mắc hay ngơ ngác […]. Tôi mong viết độ hai chục cuốn nữa thành một bộ gần vạn trang mới đủ để tả đầy đủ sự phức tạp và muôn mặt của cuộc đời.».

Đoạn trích dẫn dông dài, nhưng nói lên được những nét chính của thể loại tiểu thuyết trường thiên – thời  đó gọi là trường giang – như các tác gia phương Tây đă quan niệm. Ư định Nhất Linh chỉ thực hiện được một phần mười: hai tập Xóm Cầu Mới chỉ ngoài 700 trang là đi trước ; nhà Phượng Giang đă xuất bản mười năm sau khi Nhất Linh quá cố, ngày nay gia đ́nh đă in lại, có phụ lục hồ sơ sáng tác, nxb Văn Mới, 2002, California,  Xóm Cầu Mới là một tác phẩm hay, hành văn giản dị, các nhân vật được mô tả tinh vi trong dáng điệu, lời nói, nếp suy nghĩ và rung cảm. Đời sống hàng ngày của những con người tầm thường trong một xă hội tầm thường, đó là nội dung nghệ thuật Nhất Linh mà ít người đạt tới.

Bộ Ḍng sông Thanh Thủy gồm ba cuốn: Ba người bộ hành, Chi bộ hai ngườiVọng quốc, tổng cộng hơn 600 trang, Nhất Linh viết rất nhanh, ba bốn tháng ǵ đó (1960-61). Tác phẩm kể lại hoạt động chính trị của một số cán bộ Việt Quốc và Việt Minh sang hoạt động tại Côn Minh khoảng 1944. Tuy có h́nh thức một tiểu thuyết trường thiên, nhưng Ḍng sông Thanh Thủy chỉ là một truyện dài, v́ chỉ mô tả số phận một vài nhân vật chính, chứ không gợi ra được một khung cảnh xă hội lớn lao. Điều đó nhắc lại rằng: tiểu thuyết trường thiên, hay chu kỳ, không phải do số trang, mà c̣n do cơ cấu nội tại. Những kẻ khốn nạn (Les missérables) của Victor Hugo hay Jean-Christophe của Romain Rolland, thậm chí Đi t́m thời gian đă mất (A la recherche du temps perdu) của Marcel Proust, tuy là dài, vẫn không phải là tiểu thuyết chu kỳ. Ở Việt Nam, hai tập Băo biển (1969) và Đất mặn của Chu Văn, Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn (1985) là truyện dài, nhưng Vỡ bờ hai tập (1962 và 1970) của Nguyễn Đ́nh Thi, tuy gọi là tiểu thuyết, lại mang vóc dáng một tác phẩm trường thiên, v́  tính cách sử thi đă làm sống lại cả xă hội miền Bắc trong năm năm chuyển ḿnh, chuẩn bị cuộc Cách mạng tháng Tám. Vỡ bờ  thuộc vào tác phẩm lớn lao, đă được tác giả ôm ấp và sáng tác trong hai mươi năm, từ 1948. Những tiểu thuyết riêng lẻ của Tô Hoài, từ Quê Người, 1941, Giăng Thề , 1944 đến Mười Năm 1957, lấy làng dệt Nghĩa Đô làm khung cảnh, cũng mang dáng dấp tiểu thuyết chu kỳ ; trong ư tác giả, dường như Người ven thành, 1972, và Quê Nhà, 1981, cũng nằm trong chu kỳ này.

Ở miền Nam trước 1975, Khu rừng lau của Doăn Quốc Sĩ là một bộ trường thiên quan trọng v́ ghi lại tâm trạng một lớp thanh niên theo kháng chiến chống Pháp rồi bỏ kháng chiến, di cư vào Nam. Những truyện của Vơ Hồng gom lại, cũng có tính cách trường thiên tiểu thuyết về đời sống tại miền nam Trung bộ thời kháng chiến chống Pháp.

Tiểu thuyết trường thiên tiêu biểu của văn học Việt Nam là bộ Cửa biển của Nguyên Hồng, khoảng hai ngh́n trang, chia ra làm bốn cuốn: Sóng gầm (1961), Cơn băo đă đến (1967), Thời kỳ đen tối (1973), Khi đứa con ra đời (1976), mô tả đời sống cay cực của lớp người nghèo tại thành phố cửa biển Hải Pḥng trong mười năm 1936-1945, đă vùng lên làm cuộc Cách mạng tháng Tám.

Bộ sách viết trong mười lăm năm (1959-74), thời gian đó Nguyên Hồng không làm việc ǵ khác, và đi đâu cũng khệ nệ tập bản thảo, sợ … mất. Trong hồi kư Những nhân vật ấy đă sống với tôi (1978), ông đă kể lại kinh nghiệm sáng tác Cửa biển, sự thành h́nh những nhân vật nhô lên từ kư ức hay thực tại, quá tŕnh tái sinh những sự kiện, những h́nh ảnh. Đây là một hồ sơ sáng tác quí hiếm, nếu không phải là duy nhất giúp ta t́m hiểu sự thai nghén và khai hoa một tác phẩm nghệ thuật. Nguyên Hồng đă thổ lộ nỗi vất vả và vật vă của kẻ «đă thai nghén và mang rất nặng, đẻ th́ đau quá sức lẽ ḿnh, vậy mà lại đẻ ra người giấy, nhân vật giấy»: «Năm 1959, tôi bắt đầu viết tập đầu là tập Sóng gầm trong bộ Cửa biển. […] Sang năm 1960 th́ được hơn 150 trang bản thảo, giấy là mặt sau của trang sổ khổ rộng, giấy màu hồng hồng, của một công sở hay nhà buôn ǵ đó hồi Pháp thuộc bỏ lại […]. Bốn, năm chương của tập đầu đă thành chữ với hơn 150 trang kia, chính ḿnh đọc mà cũng chán ngấy. Chán v́ nó nhạt hoét, giả khượt. Mà nó nhạt hoét, giả khượt v́ sáo ṃn, dễ dàng, nông choèn […]. Tôi bỏ hẳn tập bản thảo đầu với hơn 150 trang khổ rộng, giấy màu hồng hồng nọ. Tôi viết tập bản thảo hai, bản thảo ba. Nhà tôi chép lại, tôi lại sửa và đưa đăng báo mấy chương. Đánh máy, đăng báo rồi (Báo Văn nghệ 1961), tôi lại sửa. Đưa nhà xuất bản, đánh máy duyệt in, vẫn sửa. Thành trang đưa đọc để máy chạy trọn vẹn, cũng vẫn sửa… Vẫn sợ nhạt loăng, vẫn lo sự giả tạo, vẫn phải sao thật tỉnh táo với chính ḿnh nếu có chút ǵ gian dối. »

Ấy là Nguyên Hồng đă sáng tác trong hoàn cảnh ưu đăi của xă hội mà ông phục vụ, v́ đă đăng kư đề cương sáng tác với Hội nhà văn, kư giao kèo sáng tác trong mười năm… Chứ thật ra Cửa biển đă được ấp ủ từ 1941. Từ khi khởi thảo tác phẩm, đến Khi đứa con ra đời ( !), 1976, là 35 năm, thời gian dài hơn hai cuộc kháng chiến cộng lại. Và phần gian lao ắt cũng tương đương. Kết quả đáp ứng xứng đáng với công lao động ấy: Cửa biển của Nguyên Hồng là tác phẩm quan trọng hàng đầu trong ngành tiểu thuyết Việt Nam, ở tầm vóc của nó, và ở giá trị nhân đạo, xă hội, lịch sử và nghệ thuật nữa.

Gần đây hơn, Phan Tứ đă viết bộ tiểu thuyết trường thiên Người cùng quê, về xă hội tại địa phương vùng nam Trung bộ, chủ yếu là Quy Nhơn, đă xuất bản ba tập (1985, 1995, 1997) khoảng1500 trang. Chúng tôi không biết những tập sau. .

 

Tiểu thuyết trường thiên đ̣i hỏi sức lao động bền bỉ, và hoàn cảnh sáng tác thuận lợi, dù ở mức tương đối.  Nhưng công tŕnh có khi bạc bẽo: trong xă hội nhiều đột biến như Việt Nam từ mấy mươi năm nay, có khi tác phẩm viết xong rồi – hai mươi năm sau – th́ không c̣n đáp ứng với sở thích người đọc, như trường hợp Xóm Cầu Mới của Nhất Linh. Khối độc giả mới, đa số là thanh niên, không c̣n thư thái để nhâm nhi những tinh vi, tế nhị của Nhất Linh, nhưng tác phẩm cũng gây một ảnh hưởng nào đó trong tiến tŕnh tiểu thuyết, mà ta gặp lại trong tiêu đề Bèo giạt của Nguyễn Mộng Giác, là một trong những tên cũ của Xóm Cầu Mới.

Vỡ bờ của Nguyễn Đ́nh Thi, Cửa biển của Nguyên Hồng cũng chịu số phận lao đao, v́ những lư do khác. Nguyên Hồng, Nguyễn Đ́nh Thi là những người cộng sản trung kiên, đă đi theo cách mạng từ thời kỳ trứng nước, đă vào tù, ra khám, đă trưởng thành trong chiến đấu, đă quán triệt mọi lập trường, quan điểm, yêu cầu giai cấp. Thế mà khi tác phẩm in ra th́ bị các nhà phê b́nh tuyên huấn hạch sách trăm thứ bà dằng, đến độ bố Thi cáu sườn, trả lời đại khái là: tôi là người buôn ngựa, các anh là kẻ lái trâu, nên đă chê ngựa tôi… không có sừng.

Những truyện của Tô Hoài, người đă theo cách mạng rất sớm, viết về những người thợ dệt làng Nghĩa Đô, quê ông, ở ngoại thành Hà Nội, thu vén lại cũng thành trường thiên tiểu thuyết: đó là hoài băo của ông khi ông viết truyện Mười năm (1957) mà ông đă thai nghén trong … mười năm. Khi sách xuất bản, bị đập tơi bời – v́ sai lập trường cách mạng, không nêu lên được «con người mới». Tô Hoài chán, một thời gian, không viết nữa. Những người lănh đạo Việt Nam phải chịu trách nhiệm về sự bế tắc của tiểu thuyết Việt Nam.

 

Tiểu thuyết xưa nay vẫn là niềm an ủi của quần hùng chiến bại, là tiếng kèn bi thảm của hiệp sĩ Roland từ đèo Roncevaux đáp lại lời kêu cứu thất thanh của Quan Công khi thất thủ Kinh Châu, là tâm sự của Từ Hải, chết rồi c̣n đứng giữa trận tiền để đợi chàng Julien Sorel rụng đầu bên máy chém. Tiểu thuyết, nơi hẹn ḥ của những Hạng Vơ khi biệt Ngu Cơ. Ngược lại lịch sử là triều đ́nh của những người chiến thắng, của Tần Thủy Hoàng, Lưu Bang, Câu Tiễn, Trần Thủ Độ, Đặng Trần Thường, tiểu thuyết là lối về của người chiến bại, những Kinh Kha, Ngũ Tử Tư hay Ngô Thời Nhậm. Trong đám tàn quân ră ngũ đó, có cả nhân vật Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác – và có lẽ có cả Nguyễn Mộng Giác.  Tiểu thuyết hiện thực xă hội chủ nghĩa, ở một chân trời khác, th́ lật ngược quy luật: các nhân vật chính và chính diện – con người mới – sau khi chiếm đoạt lịch sử th́ chế ngự luôn cả nghệ thuật; họ làm anh hùng hai lần, chỉ với một mũi tên; họ xe duyên với Thúy Vân rồi ép duyên cả Thúy Kiều, họ có cái vẻ vang luộm thuộm lẫn cái hạnh phúc lúng túng của những người đàn ông hai vợ.

Ngày nay, mấy chữ tiểu thuyết trường thiên nghe nó xa xôi quá. Cứ gọi là bộ truyện Cửa biển, Mùa biển động, Sông Côn mùa lũ, nghe gần gũi hơn, và đúng hơn. V́ khái niệm tiểu thuyết, du nhập từ phương Tây, từ thời kỳ này sang thời đại khác, đă nhiều lần biến chất, và hiện nay là một văn loại đang tự hủy hay băng hoại trước những thể loại khác và phương tiện truyền thông mới. Cái c̣n lại là cốt lơi, là phần « truyện », hiểu theo nghĩa nôm na: truyện Tam Quốc, truyện Thạch Sanh. Khi mọi người đều nói truyện Mùa Biển Động, th́ Nguyễn Mộng Giác có quyền sung sướng.

 

Đặng Tiến

Orleans, 05 tháng hai 1990, đọc lại và cập nhật 02-7- 2012,

 để tưởng niệm Nguyễn mộng Giác