Văn thơ miền Nam 1954-1975 được gọi là nền văn học bất hạnh. V́ nó đă bị
xuyên tạc, tuyên án, thiêu hủy và bôi xóa; các tác giả đă bị tù đày, đọa
đày và lưu đày. Trong số đó, có nhà thơ Vũ Hữu Định (1942-1981), từ 1972
đă xem ḿnh như một người lỡ vận:
Ta đă hát khúc hát đời lỡ vận
Hát âm u trong đêm tối một ḿnh (tr. 65)
Vũ Hữu Định tên thật là Lê Quang Trung, sinh tại Thừa Thiên, sống nhiều
nơi ở Tây Nguyên, lập gia đ́nh tại Đà Nẵng và định cư tại đây. Làm thơ
từ thập niên 1960, đăng báo rải rác. Năm 1975, đi học tập cải tạo một
thời gian ngắn v́ là cán bộ Xây dựng Nông thôn, rồi làm công nhân Nhà
Đèn. Đầu năm 1981, tại làng An Hải, Đà Nẵng, anh qua đời v́ say rượu té
từ lầu một, cái chết c̣n gây nghi vấn. Sinh thời, anh không có tác phẩm
xuất bản. Đến 1996 bạn bè mới đóng góp để nhà xuất bản Trẻ ấn hành thi
tập C̣n một chút ǵ để nhớ gồm 45 bài, lấy tên từ một bài thơ
được Phạm Duy phổ nhạc và thịnh hành một thời:
Phố núi cao phố núi đầy sương,
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn (tr. 5)
Hiện nay, sau khi tái bản thơ Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, truyện ngắn Y
Uyên, nhóm Thư Ấn Quán của Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn đă sưu tầm và in
lại thơ Vũ Hữu Định để tặng biếu, không bán, trong tinh thần bảo lưu và
truyền bá di sản văn học miền Nam. Chúng tôi đă có lần đề cao thiện chí
này; nay một lần nữa, xin công nhiên ca ngợi một việc làm tâm huyết.
Thơ Vũ Hữu Định lần này gồm 80 bài – chắc là c̣n thiếu – là một
tập thơ hay, tài hoa, trong sáng, đáp ứng được sở thích đông đảo người
đọc; một tác phẩm có giá trị cao về mặt tư tưởng, t́nh cảm, nghệ thuật,
lưu lại tấm ḷng của nhà thơ quá cố, ghi tạc niềm thủy chung của bằng
hữu, trong một hoàn cảnh lịch sử, xă hội nghiệt ngă và bạc bẽo.
*
Thơ Vũ Hữu Định quay chung quanh các chủ đề: quê nhà, t́nh bạn, t́nh yêu
trong khát vọng một không gian rộng răi. Trước khi đi vào các đề tài
này, chúng ta nên biết qua thân thế tác giả, qua những bài thơ tâm sự,
chủ yếu là "Bài thơ năm bốn mươi", làm dịp tết Tân Dậu, 1981, trước khi
qua đời, thơ "kiểm điểm" vô h́nh trung thành thơ tuyệt mệnh, như bài
"Di
chúc" của Nguyễn Khuyến:
Bốn mươi tuổi rồi đây
vợ năm con không no không đói
…
bốn mươi tuổi rồi
hai lăm năm uống đắng
(giỏi nghề rượu từ thuở mười lăm)
học hành th́ lăng nhăng
thân tự lập thân từ năm bảy tuổi
không nhớ hết nghề đă trải
bán báo, đánh giày, ở đợ
đánh trống pḥng trà, dạy học, làm thơ
phó giám đốc nuôi trẻ bơ vơ
c̣n cả chục nghề thôi không kể
ham đọc sách chẳng phải v́ ham học
thần thánh trăm ông chẳng phục ông nào
ông nào cũng tốt
ông nào cũng tào lao
có lắm thánh nhân th́ đời chỉ rối mù
nhiều triết học thêm tối mù đa sự
…
bốn mươi năm khoảng dăm lần tù… (tr. 86)
Trong bài "Ngựa hí đầu non", ta c̣n biết thêm:
Sinh nhằm tuổi Ngọ, đêm vừa hết…
Mới hai tháng đă biết mùi bom đạn
1942, thời chiến tranh Nhật-Đồng minh. Lên bảy tuổi:
Đă theo mẹ đêm đêm qua xóm
xách đèn rao khoai sắn cầm hơi (tr. 67)
Trong bài "Cảm ơn người vợ", 1972, ta được biết anh cưới vợ khoảng 1965:
Bảy năm t́nh chồng vợ
bảy năm em hẩm hiu
lần nào em sinh nở
ta cũng phải vắng nhà
đứa đầu ḷng tù tội
đứa thứ hai, đi xa (tr. 129)
Chúng ta không biết rơ anh tù tội v́ việc ǵ, làm ǵ đến nỗi dăm lần tù.
Theo chứng từ của bạn bè, Vũ Hữu Định là người cởi mở, vui chuyện, ưa
rượu, ưa bạn, đàn giỏi hát hay, nhẹ trách nhiệm gia đ́nh, vợ con đương
nhiên là phải khó khăn. Và anh cũng thừa nhận điều đó:
Năm đứa con như năm hạt ngọc
Nếu không có em sao khỏi cát lầm
C̣n anh th́ cứ lông bông… (tr. 88)
Tháng 3/1973, nhà thơ Tường Linh có bài "Gặp lại Vũ Hữu Định", ghi nhận
hoàn cảnh của anh:
Th́ ra ngươi chửa hết gian nan
Thôi hăy cầm như lửa thử vàng…
Chúng ta đă chấm phá được đôi nét chân dung Vũ Hữu Định. Chân dung ấy sẽ
rơ nét hơn khi quần tụ bạn bè, trên chiếu rượu:
Nợ nần chưa thoát nổi
càng nợ, càng hăng vay
thiếu cái danh, nhưng không thiếu bạn bè
đi đâu cũng có phần rượu tặng. (tr. 85)
Trong mọi t́nh cảm, có lẽ t́nh bạn là mang nhiều âm sắc thời đại nhất.
Đă xa rồi những "cố nhân" trong thơ Đường, thơ Tống. Xa rồi giọng u
hoài, trầm mặc của Nguyễn Trăi:
Bạn bè đất Việt ai thăm hỏi
nhờ nhắn: đời ta vẫn cỏ bồng
Hay giọng băn khoăn, xa xăm của Nguyễn Khuyến thăm hỏi bác Châu Cầu,
lụt lội năm nay bác ở đâu, giọng nhẹ nhàng, thơ mộng của Huy Cận
thương bạn chiều hôm sầu gối tay. Cũng đă xa rồi những
"Tống biệt
hành", "Vọng nhân hành" của Thâm Tâm. Tao loạn, th́ đất nước đă trăm lần
tao loạn. Nhưng chiến cuộc 1960-1975 mang một sắc thái đặc biệt, và t́nh
bạn sinh tử thời này ngân vọng một âm hao riêng, trong chất bi phẫn nặng
phần phi lư:
Trên non may có t́nh bằng hữu
tuổi trẻ đau chung một khúc ca
ôm nhau thức với vầng trăng lạnh
vượt lá t́m sao định hướng nhà.
có những ngày đi trong núi thẳm
tuổi trẻ nh́n nhau, nhớ xóm thương làng
thở chung một tiếng nghe sầu cháy
tâm sự chuyền nhau điếu thuốc quan san
cám ơn điêu đứng rừng sinh tử
cạm bẫy người giăng để giết người
tuổi trẻ gần nhau trong gió lửa
giữ dùm nhau những tiếng chim cười (tr. 45)
Bài "Chuyện người tuổi trẻ" này, Vũ Hữu Định làm tặng nhà thơ Trần Dzạ
Lữ, cùng một bài khác, mang rơ nét thời sự:
Ngày Huế giải phóng
mày lang thang trong Nam
…
xa nhau càng nghĩ càng thương
thằng bạn thơ cuộc đời bầm dập
trốn lính, đi lính, rồi th́ học tập
thương ơi câu nói "ở răng cho vừa đời"
…
nghe nói mày về quê đi bán bánh ḿ
vợ giặt mướn cho nhà thương đẻ
rồi nghe nói mày đi Nam trở lại
quê không dụng nổi đôi vợ chồng thơ
năm năm rồi mày sống xa quê
ôi cái làng quê Nam Phổ Hạ
thời chiến tranh mày quay quắt mong về (tr. 42)
Ḥa b́nh, thống nhất mà lại làm nhiều người xa quê – và xa nhau – hơn là
chiến tranh, chia cắt. Bài thơ này làm khoảng 1980, bắt đầu bằng câu ca
dao quen thuộc:
Gió đưa cây cải về trời
Rau răm ở lại chịu lời đắng cay
Ai hiểu sao th́ hiểu.
T́nh bạn, bao giờ cũng mang tính cách thời đại, xă hội. T́nh yêu có
không gian rộng răi hơn: tiếng sét ái t́nh có thể giáng xuống bất cứ lúc
nào và nơi nào. T́nh bạn có thuở, có th́, có nơi, có chốn. Yêu nhau rồi
mới ngồi vào chiếu; ngồi vào chiếu rồi mới ra t́nh bạn. Bá Nha, Tử Kỳ
cùng chiếu nhạc buổi Xuân Thu. Quản Trọng, Bảo Thúc cùng miếng đỉnh
chung thời Chiến Quốc. Montaigne và La Boétie cùng phất áo giữa ṭa án
Bordeaux. Nguyễn Khuyến, Dương Khuê áo măo đồng khoa… Vũ Hữu Định, Trần
Dzạ Lữ, Trần Hoài Thư, cùng nhiều bạn khác cùng gối đầu trên báng súng,
tai nghe trực thăng, đại bác… Cơn binh lửa tạo ra và củng cố t́nh bạn.
Cái quư là t́nh bạn c̣n lại sau cơn binh tàn, lửa tắt. Và quư hơn nữa,
trong t́nh bạn ấy, sau khi chắt lọc tiếng trực thăng đại bác nhiễu
nhương, c̣n lại tiếng đập cùng nhịp của những trái tim. Ấy là t́nh
người. T́nh yêu là định mệnh cá nhân; t́nh bạn là cơ duyên thời đại. Cao
quư thay ḷng chung thủy giữa những tâm hồn tự nguyện, trong t́nh yêu
cũng như t́nh bạn.
Vũ Hữu Định, người đă ra đi, t́nh c̣n ở lại.
*
Nói đến thời đại là nói đến quê hương. Vũ Hữu Định tha thiết với quê
hương, dù anh sinh một nơi, sống một nơi và giữa hai nơi là những bước
chân lang bạt kỳ hồ. Anh khẳng định:
Mùa lúa năm nay đ̣ng đ̣ng đă trổ
anh yêu mùa yêu đất yêu quê (tr. 29)
Nhưng quê anh nơi nào?
Những con lạch anh chèo ghe thăm lúa
thả lưới giăng câu, mười mấy năm ṛng
…
Cau với bưởi bây giờ thơm hương trái
em bên vườn da thịt có thơm không? (tr. 28)
Vũ Hữu Định là „kẻ chợ“, dân thành phố; ở đây anh thác lời
"kẻ quê", một
nông dân mười mấy năm cày sâu cuốc bẫm, nhà mới thay tranh mong đón
em về… Lời không thật nhưng t́nh th́ thật.
T́nh quê nơi Vũ Hữu Định, quyện với t́nh bạn và t́nh yêu là một khát
vọng hạnh phúc trong nguồn cội. Quê hương của Vũ Hữu Định không chính
xác như trong những „bức tranh quê“ mà ta đă gặp, những đồng chiêm trũng
miền Vụ Bản, Nam Định của Nguyễn Bính, hoặc thôn làng sơn cước Hà Tĩnh
trong thơ Huy Cận, hay làng Trung Phước dưới chân núi Quảng Nam trong
thơ Bùi Giáng, Tạ Kư, Tường Linh. Nơi Vũ Hữu Định, quê hương làm tâm
cảnh tượng trưng cho một giấc mơ. Giấc mơ Trở Về của đứa con biết ḿnh
lạc hướng, v́ cơn lốc của lịch sử đă đành, nhưng cũng có phần cố t́nh
lạc hướng. Phải hiểu như thế mới giải quyết được nhiều mâu thuẫn trong
thơ anh.
Và hiểu rằng nỗi nhớ nhà thường xuyên ám ảnh anh, không giống với nỗi
nhớ bất ngờ, bất chợt trong thơ
Nguyễn Bắc Sơn đồng lứa:
Qua cầu Sông Lũy nh́n quanh quất
Nước đỏ cầu đen chợt nhớ nhà
T́nh quê, đề tài cho nhiều bài thơ, có thể là nền thơ Vũ Hữu Định:
Mây c̣n bay nên đời c̣n mộng
tuổi trẻ ra đi sao lại nhớ nhà
ơi người tuổi trẻ sầu trong mắt
đêm trên rừng mộng gởi quê xa.
quê xa ta có em và mẹ,
nhớ ao bèo xanh bông tím thiết tha
nhớ người con gái bên hàng xóm
chiều thả thuyền vớt mộng nở hoa… (tr. 44)
Cảnh mơ hồ nhưng t́nh tha thiết. Quê xa đây là mộng tưởng. Vũ Hữu Định
không được hạnh phúc có một làng chính xác để ca ngợi như Huy Cận, Bùi
Giáng. Nhưng anh chẳng quan tâm đến điều đó:
nghĩ ra th́ ở đâu cũng vậy
ta vẫn là ta khinh bạc đắng cay.
có lẽ ta là thằng bất sá
cớ sao ở đâu rồi cũng bằng ḷng
thả trôi cái sống cho đời dạt
mẹ buồn ta tóc trắng lưng cong (tr. 76)
Quê hương, nơi Vũ Hữu Định là niềm u hoài khôn nguôi, hướng về cơi hạnh
phúc đă mất hay chưa đến, trong nghĩa "quê hương và lưu đày" trong Kinh
Thánh, hay Albert Camus.
U hoài bốc men cho những vần bay bướm:
Hoa dại ven đường gửi lại các em
Tiếng giă gạo gửi cho người mất ngủ
Trăng mười bốn gởi tâm hồn thiếu nữ
Trăng mười lăm gởi những kẻ yêu nhau
*
T́nh sôi nổi, thiết tha nhất trong đời người có lẽ là t́nh yêu. Thơ t́nh
yêu là lối thơ dễ làm và khó hay nhất. Một là v́ đề tài lâu đời trở
thành khuôn sáo, hai là người làm thơ t́nh khi thành thật th́ chủ quan,
đắc ư, tự nghĩ thơ ḿnh là hay, hóa ra dễ dăi, trong khi người đọc bên
ngoài, cho rằng lẩm cẩm. Thơ t́nh ngày nay, muốn thành công, phải giàu
lượng trí tuệ và chất nghệ thuật; nhưng thơ hoa mỹ lại mất nét thành
thực đơn sơ. Mà t́nh yêu chính là cảm xúc đơn sơ.
Thơ t́nh Vũ Hữu Định gây cảm xúc v́ chỗ tha thiết mà tự nhiên ấy:
Anh đang sống thiếu một phần thân thể
sống thiếu em nên anh thở không đều
thèm ngực trần, môi ngọt với tay yêu
đă trói chặt hồn trăm năm lăng tử
…
đă quen đau nên thấy được mặn mà
của tội lỗi mà anh kêu hạnh phúc
ôi vết chém đă qua thời đau nhức
đâm da non để thành sẹo muôn đời
anh thở đều để sống em ơi (tr. 31)
Hơi thở rạo rực đă phả vào bài "Tiếng dội của sương chiều", 5 chữ nhẹ
nhàng nhưng da diết, trong sáng mà hàm súc - một bài lư tưởng để phổ
nhạc (câu này viết nhắn gửi Phạm Duy):
Anh nằm đâu, ngồi đây
ngó nước nguồn reo vỡ
nước nguồn chảy bao năm
đá núi ṃn dấu nhớ
anh nằm đây, ngồi đây
một ḿnh anh vẫn thở
mười năm trong trắc trở
anh thở khác ngày xưa
nghe dội tiếng rừng mưa
nghe vang lời suối nhớ
…
anh nằm nghe lay động
đau của những nhánh cành
anh ngồi trong lá xanh
trên những hồn lá chết
tay anh nắm tha thiết
những chiếc lá c̣n tươi
thả xuống suối mà chơi
trôi đi c̣n tiếng dội… (tr. 33)
Nguồn thơ róc rách tuôn tuôn tự nhiên, u uẩn trong veo, thắm tươi đau
đáu, trầm lặng ngân vang. Một bài thơ t́nh hiện đại, rơ nét nếu ta so
sánh với "T́nh quê" đồng dạng của Hàn Mạc Tử, nửa thế kỷ trước. Đâu đó,
trong Thân phận làm Người, André Malraux đă định nghĩa t́nh yêu
là „cái phần ḿnh thay đổi ở người kia“, nghe sâu sắc, nhưng trừu tượng.
Vũ Hữu Định nói anh thở khác ngày xưa có cường điệu nhưng cụ thể,
và xúc động. Thể ngũ ngôn ngắn hơi, ít để lại tác phẩm hay. Bài
"Tiếng
dội của sương chiều" là một tác phẩm toàn bích.
Cùng một hơi thở - hơi thơ ấy c̣n có bài
"Rừng hương mật" đắm đuối. Cảm
hứng tuôn tràn một mạch,ào ạt, sung măn mà âm trầm, tao nhă. Thao thao
t́nh cảm, thao thiết ưu tư:
Anh đang sống - đang thở đều rất lạ
Thở yêu em yêu đau đớn của đời
Anh cảm được phút của mùa đang đổi
Giây của sông dừng lại đợi chiều trôi
Ở đâu đó rừng của Thu ảm đạm
Uống chút hương hoa của suối mà say
Mây của ngh́n năm mây vẫn là mây
Nhưng một buổi lạ như vừa mới có
…
Một ngày nào mặt trời kia rét lạnh
Máu đỏ trùng dương một lần chết cuối cùng
Giấc lạnh vang lời gió nhắn với rừng
Anh hối hả trở về mau cho kịp (tr. 82)
Nhịp thơ dập dồn, h́nh ảnh điệp điệp, ư tứ trùng trùng, tuôn tuôn từ một
hồn ứ chứa bao nhiêu t́nh rừng thẳm. Do đó mà thơ t́nh Vũ
Hữu Định ngày nay c̣n gây hào hứng.
Thơ t́nh, chứ không huê t́nh kiểu "áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc". Thơ t́nh xưa nay thường khệ nệ đèo thêm phần thuyết lư, dạy đời: thơ
Pháp từ Ronsard đến Aragon, thơ Việt từ Nguyễn Trăi
"đầm ấm th́
thương kẻ lạnh lùng" đến Xuân Diệu
"vội vàng lên với chứ". Thơ Vũ Hữu Định mang sắc phơi phới, hồn nhiên, đớn đau mà vẫn tin đời -
có lẽ do niềm tin ở trời đất, mà anh diễn đạt rất mănh liệt trong bài tứ
tuyệt:
Sướng quá, nâng ly, khà một tiếng
Mừng rằng sắc núi vẫn màu xanh
Đám mây bay thấp ngang nhà cỏ
Hương rượu nồng hơn mọi thứ t́nh (tr. 6)
Tâm giới hào sảng trước sắc giới ưu ái như trong đoạn thơ trên, được
định h́nh trong một thi giới bao la, biển rộng trời cao. Thơ Vũ Hữu Định
ít có giới hạn chật hẹp, nếu Pleiku phố xá không xa th́ cũng được
nấn rộng bằng sương mù, cây xanh, núi cao - và nhất
là có em!
Nơi Vũ Hữu Định t́nh yêu, t́nh bạn, t́nh quê, quyện vào niềm nhớ đất
thương trời mêng mang mênh mang mênh mang.
*
H́nh ảnh tạo tính nhất quán cho tập thơ, xuyên suốt, tiếp dẫn các bài
thơ, tự rừng núi đến thôn quê, ao bèo, thửa ruộng, lũy tre, mái nhà, là
con chim.
Một mặt chim là tri âm, chia sẻ tâm sự và ước mơ:
Có lẽ con chim rừng bữa nọ
Hát với anh là chia sẻ ngọn nguồn (tr. 74)
Chim là một ẩn dụ đa hiệu. H́nh ảnh thị giác, nó là không gian gần mà
xa, cảm nhận thính giác, tiếng chim là thời gian dội vào tim, có khi hẹn
ḥ hoan lạc thủy chung:
Con chim bỏ đi có bận quay về
Cất tiếng hát chào niềm vui của gió (tr. 108)
Có khi nhắc thân phận hiện thực chơ vơ:
Con chim lạ lùng năm nọ của tôi ơi
Hóa mấy kiếp mà sao tôi vẫn vậy (tr. 110)
*
Thơ Vũ Hữu Định là điển h́nh cho thơ trữ t́nh hiện đại. Nó không gai
góc, thách thức; ngược lại, nó kết thân, đằm thắm, quen thuộc. Lay động
người đọc bằng t́nh cảm trong sáng và thiết tha, bằng nét tài hoa vô
tội.
Đây là đoạn cuối trong bài thơ "Kiểm điểm", Vũ Hữu Định làm 1981, trước
khi vĩnh biệt trần gian:
Ta đang nhớ thuở sông dài núi rộng
đường thênh thang của một gă giang hồ
ta đang thèm đi để học làm thơ
chờ ta đến xin nhớ phần rượu tặng (tr. 89)
Câu thơ tuyệt mệnh thu gọn không gian, cuộc đời, tâm t́nh, hoài băo văn
chương và những khát vọng chưa nguôi của Vũ Hữu Định.
Trên chiếu rượu vui ít buồn nhiều hôm nay, bạn bè, trong và ngoài nước,
luôn luôn giữ phần rượu tặng, cho Định.
Định ơi,
Orléans, ngày 25/2/2006
Đặng Tiến
_______________