đặng tiến

 

Hành Tŕnh Xuân Diệu

 

 
 

Xuân Diệu, đi vào làng thơ qua cửa báo Phong Hóa, 1935, sẽ trở thành đoàn viên thứ bảy trong nhóm thất tinh Tự Lực văn đoàn. Là người của Cơi Thơ, đă đem thơ về lại Cơi Người: đó là hành tŕnh ảo diệu của một mùa xuân, qua khúc quành Cách mạng tháng Tám.

 

Cơi Thơ Xuân Diệu, thuở ấy, là một hành tinh riêng, long lanh ngôn ngữ và d́u dặt âm giai trong quy luật tuần hoàn và sinh hóa riêng. Những vườn thơm và những con đường nhỏ, những đêm trăng và những buổi chiều, những cành tơ hoa mới. Và rất nhiều, rất nhiều trai trẻ yêu nhau1.

Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi chẳng biết ǵ

V́ sao, tr.68

 

Chàng trai "ngu ngơ" ấy đă lả lướt buông tay người đẹp xuống một mùa Xuân Huyền Diệu, mùa thơ Xuân Diệu.

Hăy tự buông cho khúc nhạc hường
Dẫn vào thế giới của Du dương,
Ngừng hơi thở lại nghe trong ấy
Hiển hiện hoa và phảng phất hương [...]

Hăy uống thơ tan trong khúc nhạc,
Ngọt ngào kêu gọi thuở xa khơi.

Huyền Diệu, tr.70

 

"Ngừng hơi thở lại": là điều khách phải biết, v́ thế trong giới huyền diệu đó, không ai thở, v́ không thở vẫn sống, vẫn hưởng được hoa hương, mà khỏi làm vẩn đục không gian, khỏi làm loăng "âm điệu thần tiên thấm tận hồn".

 

Rồi giai nhân, trong hành tinh kia, cùng với người yêu, bước sang vườn bên cạnh:

Trong vườn đêm ấy nhiều trăng quá
ánh sáng tuôn đầy các lối đi
Tôi với người yêu qua nhè nhẹ
Im ĺm, không dám nói năng chi.

Trăng, tr.69

 

Nhưng khi rời Cơi Thơ ấy, khách lại phải về với Cơi Người, để nghe một cô gái khác:

Thấy anh em cũng muốn theo
Em sợ anh nghèo, anh bán em đi
Lấy anh em biết ăn ǵ
Lộc sắn th́ chát, lộc si th́ già
Lấy anh không cửa, không nhà,
Không cha, không mẹ biết là cậy ai?

Ca dao

 

Cô này không những phải thở, mà lại c̣n đ̣i ăn, đ̣i cửa đ̣i nhà, đ̣i cha đ̣i mẹ, lôi thôi quá! Yêu cô làm ǵ cho vất vả, mà chắc ǵ cô đă đẹp bằng cô trên kia!


 

Trong những người làm thơ, trước và sau Cách mạng, Xuân Diệu là một trong những người sáng suốt nhất. Sáng suốt trước cuộc đời, trong văn chương, và trước ḷng ḿnh, trước nghệ thuật của ḿnh, anh luôn luôn minh mẫn. Trong bài Mời yêu anh nói thẳng:

Ta tưởng tượng một t́nh duyên mới nụ
Người được nói, tôi được nghe, là đủ
Thực càng hay, mà giả dối lại sao?
[…]

 

Tôi lắng đợi! Nhịp ḷng tôi đứng lại!
Tôi cần tin, tôi khao khát được nhầm!
Cho tôi mơ một ảo tưởng âm thầm,
Và mặc kệ đó là dối trá
Mở miệng vàng! Và hăy nói yêu tôi!
Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi.

Tr.112

 

Khi đă nói ngay ra là ḿnh "khao khát được nhầm""mơ ảo tưởng" th́ con người không c̣n "dối trá" nữa, dù là dối ḿnh hay dối người. Chẳng qua là ở một giai đoạn nào đó. Xuân Diệu phải làm thơ như thế.

Tôi réo rắt chẳng qua trời bắt vậy
Chiếc thuyền ḷng, nước đẩy phải trôi theo
Gió đă thổi, cho nên buồm phải dậy
Hồn vu vơ, tội ấy ở mây đèo.

Lời thơ vào tập "Gửi hương cho gió", tr.104

 

Thơ Xuân Diệu, trước Cách mạng, đă thành công mỹ măn v́ một lư do, anh đă bắt đúng mạch thời đại, đă tận dụng tâm hồn phong phú và ngôn ngữ thần t́nh của ḿnh, để tạo cho một thế hệ thanh niên "cái ảo giác tự do và cái ảo ảnh hạnh phúc".


 

Vấn đề đặt ra có vẻ mông lung, nhưng thực tế th́ đơn giản. Tự do, ở phạm vi này, chỉ là tự do yêu đương, đưa đến hạnh phúc trong nghĩa hẹp: hạnh phúc lứa đôi. Câu chuyện của tôi sẽ được thu vào một kích thước nhỏ: thơ Xuân Diệu đă đáp ứng lại nhu cầu sâu xa của các thế hệ, một giấc mơ b́nh thường: t́nh yêu và hạnh phúc.

 

Xuân Diệu sinh năm 1916, một năm sau khi thực dân Pháp băi bỏ thi hương ở Bắc Kỳ và hai năm trước khi bỏ thi hương ở Trung kỳ. Chính quyền bảo hộ, sau khi đă xây dựng vững vàng nền thuộc địa, đă bắt đầu khai thác tài nguyên, cô lập triều đ́nh Huế, t́m cách bôi xóa truyền thống Việt Nam qua các chế độ khoa cử, v́ khoa cử là một thành phần của nền móng phong kiến Việt Nam. Nói khác đi, Xuân Diệu là thế hệ thanh niên Việt Nam đầu tiên bị bắt buộc học chữ Pháp, học trường Pháp - Việt v́ không c̣n một sự lựa chọn nào khác. Thời đó, ai c̣n học chữ Hán, là học thêm (trường Bưởi năm 1927 dạy một giờ chữ Hán mỗi tuần); đó cũng là thời khai sinh ra Đông Dương tạp chí (1913) và Nam phong tạp chí (1917)

 

Thế hệ thanh niên Xuân Diệu, ở cái tuổi dậy th́, chịu ảnh hưởng của văn nghệ phương tây trong sức hấp dẫn lớn của nó, là nhu cầu tự do (với gia đ́nh), t́nh yêu (nam nữ) và hạnh phúc (lứa đôi). Giữa ba khái niệm này, hạnh phúc là hiền lành nhất, phát triển mạnh trong thơ, không phải v́ t́nh cờ, mà chính bản thân "thơ là ngôn ngữ của hạnh phúc"

 

Tiểu thuyết, thời đó, là phương tiện tranh đấu, c̣n thơ, là ngôn ngữ hóa giải.

 

Khi thế hệ thanh niên tân học phát triển, th́ xă hội cũng thay đổi. Chính quyền thực dân phục hưng những thị trấn cũ, khuếch trương những thành phố mới – với một số nghề nghiệp liên hệ, thu hút một số dân quê về các đô thị. Lớp trí thức tây học xuất hiện từ những gia đ́nh công chức, hay giai cấp tư bản và tiểu tư sản thuộc địa. Lớp thị dân tân học đó, tách rời khỏi đồng ruộng và văn hóa cổ truyền, đang đ̣i hỏi một nền văn hóa mới, văn hóa phương Tây. Hoài Thanh đă ghi lại giai đoạn này bằng những nét sắc bén: "Một cái đinh cũng mang theo nó một chút quan niệm của phương Tây về nhân sinh, về vũ trụ Cái ngày người lái buôn phương Tây thứ nhất đặt chân lên xứ ta, người ta đă đem theo, cùng với hàng hóa của phương Tây, cái mầm sau này sẽ thành thơ mới"2.

 

Và thành quả của ngần ấy biến chuyển về chính trị, xă hội và văn hóa đă được phản ánh qua sự phát triển của phong trào thơ mới, từ 1934 đến 1940 mà Thơ thơ (1938) của Xuân Diệu là điểm cao.

 

1932 - 1935, thời Xuân Diệu bắt đầu làm thơ, là thời phát triển rất mạnh của văn chương quốc ngữ và nhất là qua báo chí. Một thế hệ độc giả thanh niên cùng ùa đến t́m những văn đàn, và những nhà thơ, nhà văn của họ.

 

Lưu Trọng Lư, trong Người sơn nhân năm 1933 đă nói: "Người thanh niên Việt Nam ngày nay đương bơ vơ đi t́m thi nhân của ḿnh như người con đi t́m mẹ"3.

Và dĩ nhiên, lớp độc giả mới đ̣i hỏi trong thơ những thể loại mới, những t́nh ư mới, một ngôn ngữ mới.

 

Thật thà mà nói, th́ Xuân Diệu không phải là người sáng tạo ra ngôn ngữ đó. Anh đă thừa hưởng công tŕnh xây dựng đầu tiên của những Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Vũ Đ́nh Liên, Nguyễn Nhược Pháp. Hay, xa hơn nữa, của Tản Đà, Đoàn Như Khuê, Đông Hồ, Tương Phố. Thơ mới h́nh thành trong quy luật tất yếu của xă hội văn học, chính thức từ 1932 với sự trùng hợp: bài T́nh già của Phan Khôi đăng trên Phụ Nữ Tân Văn và năm khai sinh báo Phong hóa, in ở Hà Nội, của nhóm Tự lực văn đoàn, ngay số đầu (22-9-1932) đă khẳng định "thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ư tưởng".

 

Phái tân học phần đông đều nghĩ như vậy. Nhưng muốn thơ mới thành công th́ phải có người làm thơ (dễ có thôi) và làm thơ… hay (điều này không dễ).

 

Khi Xuân Diệu gửi những bài thơ đầu tiên cho báo Phong hóa, 1935, th́ thơ mới, thẳng thế về lư thuyết, vẫn nghèo về tác phẩm. Mươi bài thơ của Lưu Trọng Lư in chung với truyện ngắn trong tập Người sơn nhân3. Thế Lữ, con chim đầu đàn, vừa làm những bài thơ vững vàng nhất, vừa phê b́nh, giới thiệu thơ và bàn về kỹ thuật thơ trên Phong hóa, Ngày nay, năm 1935 cho in Mấy vần thơ rồi sau đó, hơi thơ đuối sức. Do đó, nhiều lần Thế Lữ đă ca ngợi, chào đón thơ Xuân Diệu với tấm ḷng nồng nhiệt lạ thường - điều ít khi xảy ra trên báo của nhóm Tự lực, thường ít khen người ngoài nhóm. (Măi về sau này, Xuân Diệu mới là thành viên của Tự lực văn đoàn, khi anh đă nổi tiếng. Anh là thành viên thứ bảy, trong nhóm thất tinh (Pleiade), theo một tư liệu viết tay của Nhất Linh4).

 

Công bằng mà nói, th́ sự thành công – không dễ dàng, nhưng rực rỡ, của thơ Xuân Diệu ít nhiều nhờ vào uy thế của nhóm Tự lực thời đó. Độc giả của các báo Phong hóa, Ngày nay, là tiềm lực của quần chúng Xuân Diệu.

Xuân Diệu cần độc giả của Tự lực văn đoàn th́ ngược lại nhóm Tự lực cũng cần Xuân Diệu, về cả hai mặt: về tư tưởng nói chung và về sức sáng tác thơ.



 

Về tư tưởng, khi thơ Xuân Diệu ra đời (khoảng 1935 - 36) th́ nhóm Tự lực đă cạn đề tài. Những tư tưởng cải cách gia đ́nh th́ Nhất Linh đă nói hết trong Đoạn tuyệt (1934) hay Lạnh lùng (1936), Khải Hưng đă nói hết trong Nửa chừng xuân (1934). Họ t́m về với nghệ thuật thuần túy: cũng với hai nhân vật Dũng và Loan, Nhất Linh sẽ viết Đôi bạn mô tả t́nh bạn, t́nh yêu, hạnh phúc (hiểu theo nghĩa rộng và sâu hơn trong thơ Xuân Diệu). Khái Hưng sẽ viết Tiêu sơn tráng sĩ, Thế Lữ viết truyện trinh thám, hoặc Trại Bồ Tùng Linh.

Các nhà văn trong nhóm Tự lực rất ư thức chỗ mạnh, chỗ yếu của ḿnh. Họ biết là không có khả năng đặt những vấn đề xă hội, và cũng không có khả năng viết tác phẩm theo khuynh hướng xă hội, nên một mặt họ xoay sang hoạt động xă hội với những đoàn Ánh Sáng, mặt khác họ tặng giải thưởng Tự lực cho những tác phẩm có tính cách xă hội như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Kim tiền của Vi Huyền Đắc, Cái nhà gạch của Kim Hà. Nghĩa là Xuân Diệu đến với nhóm Tự lực rất đúng lúc: giấc mơ t́nh yêu và hạnh phúc của Xuân Diệu là Hồn bướm mơ tiên nối dài của Khái Hưng, là mùi hoa khế hay tiếng gió reo trên đồi thông trong Đôi bạn, là tia Nắng trong vườn của Thạch Lam. Và cái nhu cầu t́nh yêu và hạnh phúc đó là một đặc tính của giới thanh niên thời 1935 - 40, khi chính quyền thực dân đưa ra phong trào "vui vẻ trẻ trung", với những chợ phiên, phong trào thể thao…

Hoàn cảnh khách quan, không khí xă hội lúc đó, giải thích tiếng vang của tác phẩm Xuân Diệu – người yêu người ghét – và nói được là thành công nhanh chóng: tập Thơ thơ do Đời nay xuất bản cuối năm 1938 (in một ngh́n cuốn thời đó là thường), năm sau đă thấy tái bản. Thơ Xuân Diệu được đưa vào chương tŕnh giáo khoa, sách giáo khoa của Dương Quảng Hàm: chàng trai mới ngoài hai mươi tuổi ngồi bên cạnh các cụ Tố Như, Yên Đổ. Thành công đó, trước hết là do giá trị nội tại của thơ Xuân Diệu, nhưng nó cũng nhờ hoàn cảnh đưa đẩy. Sinh thời, Hàn Mạc Tử (1912 - 1940) chỉ xuất bản được một tập Gái quê (1936) và chết trong nghèo nàn, bệnh tật.

Cái may mắn của Xuân Diệu cũng là cơ hội của cả phong trào thơ mới. Sở dĩ Thế Lữ nhiều lần nói "tôi rất mừng đă có một Xuân Diệu trong thơ ta lúc bấy giờ"5 là v́ Xuân Diệu xuất hiện khi thơ Thế Lữ, và thơ mới nói chung, đang yếu sức (1935). Nhưng khi xuất bản và tái bản Thơ thơ (1938-39) th́ chính thơ Xuân Diệu cũng bắt đầu ṃn mỏi. Và ngay lúc đó, 1938, trong nhóm, có thêm Huy Cận nhảy vào đưa vào thơ mới một kích thước mới, rung cảm con người trước vũ trụ. Tập Lửa thiêng (1940) in hai ngh́n cuốn, cũng do nhà Đời nay xuất bản, đă gây một âm hưởng sâu xa trong văn giới.

Nhưng ngay sau đó, nguồn thơ Huy Cận lại phân vân, tập văn xuôi Kinh cầu tự (nhà xuất bản Mới, Hà Nội, 1942), tạo cảm giác hoang mang, anh tiếp xúc với phong trào Việt Minh (1942) và chuyển ḍng thơ lăng mạn về một chân trời khác. Nhưng khi đó th́ thơ mới lại tiếp thu những nguồn thi hứng khác với ít trụy lạc của Vũ Hoàng Chương Thơ say, 1940; Mây, 1943), một ít chán chường của Thâm Tâm, Trần Huyền Trân. Phong trào thơ mới là vệt lửa dài, một ngọn đuốc tiếp nối từ 1932 đến 1945 - từ T́nh già đến Gửi hương cho gió, nó có cái may mắn là lúc nào cũng có những hồn thơ tiếp nối, Chế Lan Viên, Tế Hanh và nhất là Lưu Trọng Lư với tập Tiếng thu (1939) và Hàn Mạc Tử mà chúng ta chưa từng được đọc trọn vẹn tác phẩm.

Nói tóm lại, trong mùa hoa nở rộ khoảng 1932 - 1945, Xuân Diệu là một trong năm ba đóa hoa rực rỡ nhất – và có lẽ là đóa hoa sặc sỡ nhất.



 

Sau khi gợi lại bối cảnh xă hội và văn học đă làm nổi bật thơ Xuân Diệu, chúng tôi xin đi vào thi giới Xuân Diệu, theo một vài chủ đề, qua những biến chuyển của anh từ khi anh bước vào đến khi anh vĩnh biệt làng thơ, 1985.

Đề tài đơn giản nhất là tuổi trẻ, trong thơ văn Việt Nam chưa bao giờ được ca ngợi như ở Xuân Diệu.

Ôi thanh niên, người mang hết xuân th́
H́nh ngực nở, nụ cười tươi, màu tóc láng

Và liền theo đó, anh miệt thị tuổi già:

Già sẽ đến, giơ tay xua ánh sáng
Đuổi bướm chim, làm sợ cả hoa hương
Và dần dà càng rơ rệt bộ xương
Mà bạn hữu sẽ đặt nằm dưới đất.

Thanh niên, tr. 141

Những lời lẽ như vậy đi ngược với quan niệm Việt Nam vốn trọng tuổi già, và khi ca ngợi tuổi trẻ th́ cũng rất kín đáo. Trần Quốc Toản, vị anh hùng mười bốn tuổi, được mô tả như là "tuổi trẻ chí cao" cái quư là chí cao, người chinh phu th́ "chàng tuổi trẻ vốn ḍng hào kiệt" nghĩa là quư ở cái lư lịch. Cho đến hai chị em cô Kiều:

Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai

Họ được quư ở đức hạnh, chứ tuổi trẻ tự nó không phải là một giá trị. Thơ Xuân Diệu, trước Cách mạng chỉ giới hạn trong những đam mê của tuổi trẻ.

Sau Cách mạng, anh nh́n các thế hệ bằng con mắt khác, mỗi lứa tuổi đều có chỗ đứng của nó trong xă hội. Anh làm thơ về những người già, cảm động nhất về người "Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng trong" về một người chị họ Chị Bốn Nhữ, về Cụ Muỗi, về Ông cụ trồng cây, về Bà má Năm Căn, Bà cụ mù ḷa.

Thêm vào một chi tiết: thơ Xuân Diệu trước Cách mạng không có trẻ con. Nếu có một lần anh nhắc đến là để mỉa mai người bạn trói cuộc đời vào lụy thê nhi.

Cơm xong chén nước chờ bên cạnh
Em bế thằng con được mấy năm

Tặng bạn bấy giờ, tr. 116

Sau Cách mạng, nhất là về sau này, thơ Xuân Diệu ríu rít tiếng trẻ thơ. Anh mừng khi Một em bé ra đời, cảm động nh́n Mẹ tắm cho con, anh thèm thuồng Cho chú xin một quả si và, trong bài đó, anh đă nói đến " thế giới thiên đường của tuổi nhỏ" (mà dường như Baudelaire đă nói đến: "le vert paradis des amours enfantines"). Anh ước mơ có Đứa con của t́nh yêu, anh âu yếm nh́n cảnh bố dạy Con làm toán, lo lắng khi nh́n các Em nhỏ ở Hương Khê lúc vào trường học dưới những phi vụ oanh tạc của Mỹ. Trong t́nh cảm nhân đạo và dân tộc ấy, anh đă làm được nhiều bài thơ hay, nhiều đoạn cảm động như bài Các cháu đi sơ tán, (tr.305):

Cái tuổi lên mười ăn háu háu
Thích ngồi nh́n miệng nó nhai ngon
Mười ba tính nết c̣n nhanh nhảu
Mười bốn xem chừng đă biết khôn
Nay chúng rời xa cha mẹ chờ
Nhất là mẹ nhớ bé c̣n thơ
Ban ngày công việc lo mê mải
Đêm ngủ xa c̣n mới thẫn thờ…

Anh tả t́nh cảm mẹ con rất hay. Ban ngày th́ dù không mải việc, mẹ cũng ít nhớ con, v́ thường chúng nó đi học. C̣n về đêm, trong điều kiện ăn ở chật hẹp của Việt Nam, con có khi ngủ chung với bố mẹ. Người mẹ Việt Nam thương con có khi c̣n hơn cả yêu chồng, đêm vắng con mới thẫn thờ.

Với Cách mạng, bạn đọc thấy Xuân Diệu đă đi một con đường rất xa.

Hăy đốt đời ta muôn thứ lửa
Cho bừng tia mắt, đọ tia sao.

Ngọn lửa đam mê của Xuân Diệu đă đốt lên tại Quy Nhơn cách đây già nửa thế kỷ – mấy câu thơ trên làm năm 1933 – đă tắt ngấm với hơi thở Xuân Diệu tại Hà Nội ngày 18 tháng 12 năm 1985. Giờ này tia mắt của anh đă vĩnh viễn "đọ tia sao".

Khó có ai tổng kết được một đời người, dù khiêm tốn đến đâu. Huống hồ là một đời phong phú và sôi nổi như Xuân Diệu. Tuy nhiên, trong chút t́nh riêng với anh tôi mạn phép tượng trưng sự nghiệp Xuân Diệu như một chuỗi dài cống hiến. Tôi mường tượng đời anh như một chuỗi cườm, đồ trang sức của các bà mẹ quê, mà mồ hôi thời gian làm sáng long lanh từng hạt một. Chuỗi hạt huyền ấy, tôi chia ra làm ba giai đoạn.

Trước hết, là những đóng góp của anh vào phong trào thơ mới. Tập Thơ thơ xuất bản một ngày Nô-en 1938 là thịnh thời của thơ mới, xuất hiện trước đó không lâu và Gửi hương cho gió xuất bản năm 1945 là cao điểm, đồng thời là dứt điểm. Về ư lẫn lời, Xuân Diệu là người tạo sinh lực cho thơ mới – hiểu theo nghĩa một trào lưu trong lịch sử văn học.

Những đóng góp của Xuân Diệu, trước 1945, có tính cách tự nhiên như một quy luật của bản năng sáng tạo, của con chim ngửa cổ hát chơi.

Giai đoạn hai: với Cách mạng tháng Tám 1945, anh là nhà thơ lăng mạn nổi tiếng đi tiên phong vào thơ cách mạng, thơ kháng chiến, với Ngọn quốc kỳ (1945) và Hội nghị non sông (1946), cùng nhiều tập thơ khác tiếp theo.

Những cống hiến ở giai đoạn giữa này là một cố gắng vượt bực về ư thức, t́nh cảm, một hy sinh của con người cho một lư tưởng, giải phóng đất nước và phục vụ nhân dân.

Giai đoạn ba: sau 1954, về Hà Nội, anh vẫn tiếp tục làm thơ như trước, nhưng lại dành nhiều th́ giờ nghiên cứu, theo hai hướng chính: thơ văn Việt Nam cổ điển và văn học dân gian, bên cạnh một số bài về thơ hiện đại và thơ nước ngoài.

Những cống hiến của anh giai đoạn thứ ba này là sức lao động không ngừng nghỉ. Anh nghiên cứu trước hết là để bồi dưỡng trí tuệ và t́nh cảm của riêng anh. Đă là người Việt Nam th́ ai cũng có tính chất Việt Nam, nhưng tính chất ấy đậm hay nhạt là tùy người, tùy lúc, tùy sinh hoạt và chúng ta có thể giới hạn hay phát huy tính chất đó, tùy nhu cầu.

Xuân Diệu dư biết tài năng và địa vị của ḿnh. Nhưng nhà thơ lại có thêm tham vọng làm nhà thơ của dân tộc và nhân dân. Muốn đạt đến hoài băo đó, anh phải hiểu biết sâu rộng về dân tộc và nhân dân. Lăn lộn trong quần chúng sau Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu thấy rơ những hạn chế của ḿnh, của người nghệ sĩ trí thức tiểu tư sản, lỡ thành danh trước Cách mạng. Chúng ta thấy điều này qua những bài nghiên cứu của Xuân Diệu về ca dao: anh rất thiết tha, rất cố gắng, mà vẫn không xuất sắc như khi nghiên cứu thơ cổ điển.

Về Xuân Diệu, bạn đọc có nhiều tư liệu. Bài Tựa của Hoàng Trung Thông đầu Tuyển tập Xuân Diệu (tập I, Thơ)6 là một bài hay, nghiêm túc, uyển chuyển, tế nhị, thuộc loại hiếm hoi trong ngành phê b́nh hiện nay. Trong bài này, tôi chỉ nhấn mạnh ở những cố gắng của một nhà thơ để mỗi ngày một gần quần chúng, để có thể nói Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi.



 

Trong các nhà văn, nhà thơ đi kháng chiến sau 1945, Xuân Diệu là một trong vài người hy sinh nhiều nhất, Hoàng Trung Thông, trong bài Tựa nói trên7, và Vũ Quần Phương trong một bài báo Nhân Dân kỷ niệm 50 năm làm thơ của Xuân Diệu8, cho rằng sự tham gia cách mạng của anh có tính cách tất yếu. Chữ tất yếu của hai nhà thơ – trong hai bài phê b́nh và ư Xuân Diệu – có tính cách đề cao Xuân Diệu, qua bản chất cách mạng của anh, đưa anh đến con đường cách mạng.

Tôi ngờ lắm. Nói rằng người này tất yếu cách mạng, th́ có nghĩa là người kia tất yếu phản động, v́ bản chất phản động. Nói thế, không tạo thêm hào quang cho ai. Lấy cái ǵ để đoán trước là một người yếu đuối như Lưu Trọng Lư, ham vui như Nguyễn Tuân th́ gắn bó với kháng chiến đến cùng, trong khi người hùng Lê Văn Trương bỏ về thành? Tại sao, cùng trong nhóm Tự lực, Thế Lữ là người không chịu được văn Kim Hà, nhà tôi là một cái nhà gạch lại chấp nhận văn nghệ hiện thực, khi Khái Hưng, người bênh vực Kim Hà, người chủ trương cải tạo xă hội, lại chống lại cách mạng? Cái ǵ giải thích tại sao Nguyễn Bính, trước Cách mạng làm thơ với phong vị b́nh dân, và khi kháng chiến, gắn bó với nhân dân, lại làm thơ … tiểu tư sản?

Nhân đây, cũng nên nhắc là Xuân Diệu rất thích bài Cô hái mơ của Nguyễn Bính, v́ nó đáp lại nhu cầu mơ mộng của tuổi trẻ, và anh chua thêm Khi cách mạng kêu gọi th́ không phải kẻ thực tế hưởng ứng mà những người mơ mộng, nhiều t́nh cảm, yêu người yêu đời, đáp lại trước nhất (trong bài Đọc thơ Thế Lữ9 ). Tóm lại, về tâm lư, tôi rất hoài nghi về những công thức tất yếu.

Chỗ mạnh của thơ Xuân Diệu trước Cách mạng là những h́nh ảnh tinh tế, những âm điệu gợi cảm, tiêu tao:

Trong gặp gỡ đă có mầm ly biệt
Những vườn xưa nay đoạn tuyệt dấu hài

Những đặc điểm ấy, có giá trị của nó, nhưng không thể đưa vào thơ chiến đấu. Đối với một nghệ sĩ, không có ǵ đau khổ hơn là phải nhượng cái thế mạnh, giữ lấy thế yếu. Và Xuân Diệu đă chấp nhận đau khổ đó, một cách rất ư thức. Càng đi sâu vào cách mạng, sự sáng tác càng gian nan. Từ trước tôi viết cho những người "có học", tức là trên những nét lớn, những người tiểu tư sản trở lên trong xă hội cũ. Bây giờ, những con người "vô học" cũ, nhờ cách mạng, họ đă có học, họ đă đọc sách và họ biết cả phê b́nh nữa […]. Những người "có học" lớp trước kia, bây giờ cũng đă thay đổi yêu thích cũ, chính họ cũng đ̣i hỏi nói về những người lao động. Mà đó cũng lại càng là cái nhược điểm rất sâu sắc của tôi. Gian khổ, khó khăn không phải chỉ ở đằng xa, nơi quần chúng vẫn chịu và gánh mà đă đụng chạm ngay bản thân tôi. Tôi không thể "kháng chiến vui vẻ, cách mạng vui vẻ" nữa […]. Sáng tác cái mới thường bị thất bại, tôi quay về dựa lưng vào các thứ "của ch́m"" tác phẩm ngày trước của ḿnh. Kỳ t́nh tôi vẫn biết đứng vào chỗ cũ không thể được nữa, tuy nhiên lại ngại sang đứng chỗ mới, tâm trạng tôi như người bị chẹt, tâm thần bất ổn, vẫn gần với quá khứ, vẫn xa vợi với tương lai. Cứ chạy sang bên này rồi chạy sang bên kia, thật là đau đớn10.

Tôi tưởng tượng Xuân Diệu như một người thợ sơn vác một cái thang dài trong một căn pḥng hẹp, không va bên này th́ cũng chạm bên kia, mỗi va chạm là một lần nhói trong tim. Chúng ta cảm ơn những tâm sự chân thật của anh: theo cách mạng không phải dễ dàng, lúc nào cũng Đi trên đường lớn. Nguyễn Đăng Mạnh, trong một bài rất phong phú về Xuân Diệu đă có lư cho rằng Xuân Diệu là cả một kho kinh nghiệm lớn, có ích lâu dài cho những ai muốn đi vào cái nghề rất đỗi khó khăn này.11


 

Đặng Tiến



 

Buổi nói chuyện tưởng niệm Xuân Diệu (1916-1985)
tại Paris,1986



 

Ghi chú nhân kỷ niệm 80 năm xuất bản báo Phong Hóa.

Xuân Diệu, họ Ngô, theo hiểu biết của chúng tôi, sinh ngày Nhâm th́n, tháng Nhâm th́n, năm Bính th́n, tính theo dương lịch là ngày 25 tháng 4 năm 1916, không trùng hợp với thư tịch trong sách báo hiện hành.

22-9-2012



 

1 Những đoạn thơ trong bài này trích từ "Tuyển tập Xuân Diệu, I, Thơ", nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1983. Mỗi lần, tôi ghi tên và sổ trang để người đọc dễ t́m lại. Có khi tôi chua thêm thời điểm sáng tác, trường hợp tôi biết và cho rằng cần thiết.

2 Hoài Thanh "Thi nhân Việt Nam", 1941, Thiều Quang, Sài G̣n, tái bản 1967, tr.10 và 12.

3 Lưu Trọng Lư "Người sơn nhân", Ngân Sơn tùng thư, Huế, 1933. Lưu Trọng Lư thời đó phụ trách nhà xuất bản này.

4 Văn hóa Nghệ thuật, tạp chí, California, số 3, tháng 7-1985, tr.309. Bài báo chỉ độ một trang khổ nhỏ, nhưng tài liệu chính xác nhất về các thành viên nhóm Tự lực và cộng tác viên báo Ngày nay, với bút hiệu và tên thật.

5 Thế Lữ Tuyển tập, nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1983, tr.17, do Lê Đ́nh Kỵ trích dẫn trong lời tựa.

6 Tuyển tập Xuân Diệu, nxb Văn học, Hà Nội, 1983, tập I, Thơ, tuyển thơ Xuân Diệu từ 1933 đến 1979.

7Hoàng Trung Thông, Tuyển tập Xuân Diệu, sách đă dẫn, trang 18.

8 Vũ Quần Phương, Nhân dân, Hà Nội ngày 28 - 8 - 83.

9Tuyển tập Thế Lữ, nxb Văn học, Hà Nội, 1983, trang 597.

10Tuyển tập Xuân Diệu, sách đă dẫn, trang 33 - 34.

11 Nguyễn Đăng Mạnh, Văn nghệ, Hà Nội, số 29 ra ngày 20-7-85.

 

 

art2all.net