Hoàng Cầm

Phạm Duy Và Tôi

 

 

Nhà thơ Hoàng Cầm và nhạc sĩ Phạm Duy, ngày gặp lại
Ảnh: NGUYỄN Đ̀NH TOÁN

Một ngày giữa năm 1947 - Tôi và vợ tôi, Tuyết Khanh, đang c̣n ngơ ngẩn tiếc những đêm diễn kịch thơ Kiều Loan ở Nhà hát thành phố bị đứt đoạn v́ những tṛ khiêu khích của bọn mũ nồi xanh, lính của tướng Leclerc, hai vợ chồng đă xông lên một vùng rừng núi đang rất xa lạ với ḿnh, nhập luôn vào vệ quốc đoàn chiến khu 12, rồi mày ṃ, t́m bạn, thành lập ngay một đội văn công đầu tiên của Quân đội, gồm 12 anh chị em, 3 nữ 8 nam với một cậu y tá mang túi thuốc nghèo nàn, cứ khăng khăng xin với ông Lê Quảng Ba, chỉ huy trưởng quân khu, được đi theo đội văn nghệ để trông nom sức khỏe cho mọi người nay đây mai đó, đến với từng trung đội, đại đội vệ quốc quân, dân quân, du kích khắp bốn tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Ninh, Lạng Sơn để biểu diễn đủ loại kịch ngắn, kịch nói, kịch cương, ngâm thơ, hát tốp ca, đơn ca, múa vài ba điệu dân dă học được của đồng bào miền xuôi, miền ngược. Tóm lại là một tốp nhỏ anh chị em hăng hái và sôi nổi phục vụ một cuộc “trứng chọi với đá” thật kỳ thú trong lịch sử một dân tộc không bao giờ chịu khuất phục bất cứ một loại giặc xâm lược nào, giặc to đến đâu, sức ḿnh bé đến mấy cũng đánh, mà đă đánh là phải thắng. Hồi đầu kháng chiến ấy, những “tiết mục” rất xoàng xĩnh, thậm chí có khi ngô nghê nữa, mà sao các anh nông dân mặc áo lính c̣n chưa đọc thông viết thạo lại say sưa thưởng thức đến thế! Nửa đêm nay tiểu đội A đánh phục kích ư? Trung đội C đi quấy rối địch ư? Chập tối họ vẫn được nghe giọng ngâm thơ sang sảng...

   Đêm liên hoan, bạn ơi, đêm liên hoan
   Đầu nhấp nhô như sóng bể ngang tàng
   Ta muốn thét cho vỡ tung lồng ngực
   V́ say sưa t́nh thân thiết vệ quốc đoàn.

(Đêm liên hoan, thơ H.C.)

Nhiều khi họ lại “đồng ca” luôn theo đội văn nghệ:   

   Đường ta ta cứ đi
   Nhà ta ta cứ xây
   Ruộng ta ta cứ cày
   Đợi ngày...
  

   Say sưa, họ c̣n vỗ tay nhịp theo điệu hát:   

   Ngày mai ta tiến lên
   Diệt tan quân Pháp kia
   Cười vui ta hát câu tự do...

(Nhạc tuổi xanh - P.D.)
 

Vào một buổi chiều cuối thu 1947, trên đường đê sông Máng đi từ đập Takun (tiếng Pháp đặt thay tiếng Việt: tên gọi đập Thác Huống) có 3 người, 1 quàng guitare, 1 đeo accordéon, 1 cầm clarinette, ngơ ngác hỏi thăm chỗ đóng quân của đội văn nghệ tuyên truyền khu 12. Đó là các anh Phạm Duy, Ngọc Bích và Ngọc Hiền, đang t́m về với đội văn nghệ của Hoàng Cầm sau khi đoàn kịch Chiến thắng của các anh giải thể. Tối hôm đó, trong căn nhà ấm cúng ven rừng Yên Thế, trong ánh sáng ngọn đèn măng sông, ông Lê Quảng Ba giới thiệu ba chàng văn nghệ sĩ này với tôi. Ồ, có ǵ lạ nhau đâu, Phạm Duy đây mà, với giọng nói cố làm ra vẻ trịnh trọng: “Tôi ở trên ban văn nghệ trung ương, nghe tin anh Hoàng Cầm mới lập một đội văn nghệ lưu động, tôi và hai bạn tôi đây nhất quyết về với các bạn khu 12, v́ toàn là trẻ trung cả”.

   Rồi qua cặp kính trắng rất tài tử, Phạm Duy chớp chớp đôi mắt lẳng lơ nh́n các nữ diễn viên trẻ đẹp của tôi: Tuyết Khanh, Thúy Nga, Kim Oanh, đến nỗi cả ba cùng ngượng nghịu, đưa mắt nh́n nhau, tủm tỉm. Tôi với Phạm Duy quen biết nhau từ sau Cách mạng Tháng Tám. Chỉ biết qua loa về gia cảnh anh, h́nh như có chuyện éo le ǵ đó. Mới 15 tuổi anh đă bỏ nhà đi theo những bậc đàn anh như Nguyễn Xuân Khoát, Lê Thương, Đàm Quang Thiện, học được cách ghi xướng âm và những điều cơ bản về âm nhạc, chẳng bao lâu tài năng bộc lộ, anh chịu khó chắt lọc, sử dụng tinh hoa dân ca miền Bắc. Vốn thông minh, học một biết hai, anh đă có thể đi đàn ở các tiệm nhảy để mưu sinh. Vốn là một cậu con trai có ḍng dơi văn hóa nghệ thuật lại sớm đa t́nh, miệng cười rất có duyên, tán chuyện với những cô gái cũng rất hóm hỉnh, quyến rũ, nên anh chàng bảnh trai này sớm có những chuyện dập d́u yến oanh. Sẵn có một trái tim đa cảm, nhiều cánh vỗ vào bầu trời lăng mạn, vào không khí trữ t́nh, vào cả gió băo thất thường của những năm thế chiến mà xứ xở Việt Nam không thể không bị cuốn vào cơn lửa khói hỗn độn, anh chưa bao giờ ở lâu một chỗ, tuổi trẻ của anh bềnh bồng gió Bắc mưa Nam, và ánh sáng nhấp nháy của những đô thị náo động cũng cuốn anh vào những xập x́nh của cuộc sống phồn thực, mà khoái cảm là một phương thuốc hiệu nghiệm để trốn chạy thực tế băo táp phũ phàng. Nghèo, nhưng mang cái máu như của thi sĩ Tản Đà đă tự thú nhận: “Giang hồ mê chơi quên quê hương”, anh chỉ khác Tản Đà ở chỗ tâm hồn không neo vào một bến quê nào nhất định, hồn anh từ 16 tuổi đă phiêu bạt và phiêu diêu với nhiều đam mê. Lắm khi chao đảo, anh không lúc nào muốn buộc ḿnh vào một sợi dây vướng víu, kể cả sợi dây tơ t́nh đẹp nhất, anh cũng chỉ choàng lên cổ tự ngắm vuốt, tưởng như thích thú lắm, nhưng rồi chỉ mấy ngày bướm đậu rồi bướm lại bay thôi, anh có thể lại bứt đi mà tiếp bước giang hồ nhẹ tênh.

 

Nhà thơ Hoàng Cầm bên sông Đuống.

Ảnh: NGUYỄN Đ̀NH TOÁN

Tôi rất thích khi có bộ ba “xe pháo mă” ấy, một bộ ba mà Phạm Duy là cái xe không lúc nào muốn dừng bánh. Từ cuối năm 1947 ấy các anh đă thành côpanh (bạn chia nhau từng mẩu bánh) của tôi. Ngọc Bích th́ vui tính thường viết những bài hát vui, giản dị cho bộ đội dễ thuộc, Ngọc Hiền ít nói hơn nhưng với chiếc kèn clarinette lắm lúc cứ nỉ non thiết tha như mời gọi, anh lại hóm hỉnh, lúc nói chuyện đă pha tṛ là có duyên hấp dẫn ngay.

   Riêng Phạm Duy, trong khoảng 13 tháng sát cánh bên nhau tôi cần phải nói rằng có anh trong đơn vị, người tôi như mọc thêm cánh. Đóng quân ở đâu độ bốn năm ngày là anh đă sốt ruột rồi, lúc nào anh cũng ham cảnh vui, người lạ, những cuộc “kỳ ngộ” trên đường rừng, lối ṃn Thái Nguyên, Lạng Sơn. Bắc Giang, Đồng Mỏ, rồi Phố B́nh Gia, Văn Mịch, rồi từ sông Thương đến sông Kỳ Cung, từ đèo Nong “ngh́n thước lên cao, ngh́n thước xuống” (Quang Dũng) nối đất cụ Đề Thám với xứ sở Cai Kinh, Đèo Đồng Mỏ thấp hơn, nhưng lại t́nh tứ hơn v́ trên đỉnh đèo có mấy quán cà phê, trứng, sữa, bán cả phở ḅ, cháo gà, mà chủ nhân phần lớn là mấy chị em người thành thị tản cư, áo phin nhuộm nâu, quần lĩnh tía, vẫn c̣n thướt tha cái “dáng kiều thơm”, chưa quen nỗi truân chuyên trong khói lửa loạn ly.

   Tôi thường chiều ư Phạm Duy, v́ biết hễ cứ xê dịch luôn có cảnh đẹp lạ mắt, có những cô gái xinh tươi th́ thế nào anh cũng bật ra được những giai điệu say mê, trữ t́nh, mặc dầu đề tài nhiều bài ca nổi tiếng của anh không phải là chuyện t́nh nam nữ hoặc chuyện xa cách nhớ nhung, thở ngắn than dài như một số ca khúc buồn trước cách mạng. Tôi cứ chuyển quân liên miên, nay đơn vị A, mai sang đơn vị B, nay vừa biểu diễn ở Nhă Nam, mai đă sang Bố Hạ, ngày kia đă tưng bừng tiếng ghi ta thánh thót trong đêm lạnh chân núi Mẫu Sơn, rồi chỉ vài hôm sau, đội của tôi đă hát vang trong bóng núi Chi Lăng, nơi gần 600 năm trước, tên giặc Liễu Thăng chết gục dưới mũi kiếm của đoàn quân do B́nh Định Vương Lê Lợi chỉ huy và thiên tài Nguyễn Trăi bày mưu tính kế. Có thể nói chúng tôi đi không biết mỏi. Ngày đi, tối biểu diễn, có khi trên sàn nhà đồng bào Tày, có khi đốt lửa trong hang đá lạnh thấu xương hát cho tiểu đoàn của anh Thế Dũng vừa thắng trận Bông Lau trở về. Thường những đêm như thế đội văn nghệ chúng tôi đặc biệt là Phạm Duy tha hồ mà thưởng thức loại cà phê thượng thặng và hút thuốc lá “Craven A” cao cấp trong hàng đống chiến lợi phẩm mới thu về.

Sáng ra lại xuất quân. Phạm Duy mê man đi, vừa đi vừa lẩm nhẩm thầm th́ sáng tác th́ chợt đến khi bắt được một giai điệu đẹp, tha thiết, là anh ngồi ngay xuống tảng đá bên đường, lấy bút giấy ra ghi. Nếu chỉ qua được một đoạn đường mà xong được một bài, anh lập tức kêu tôi và các bạn dừng lại, túm tụm trên vệ cỏ, nghe anh hát.

   Đường Lạng Sơn âm u (ù u)
   Giờ b́nh minh êm ru (ù u)
   Vẳng nghe tiếng súng trong sương mù
   Đường Thất Khê bao la (à a)
   Rừng núi ta xông pha (à a)

   .......

   Thường những lúc như thế, nhân thể tôi cho toàn đội nghỉ, t́m một xóm nhà dân nào đó gần nhất, xin trú quân, thổi cơm ăn, đồng thời bảo mấy tốp ca học thuộc ngay bài hát anh vừa hoàn thành. Cứ như vậy, toàn đội, đặc biệt là Phạm Duy đă truyền cho tôi sức mạnh dẻo dai để vừa đi vừa sáng tác. Ghi ngay thành thơ hoặc chủ đề kịch ngắn những cảm xúc, những ư tứ bất chợt lóe lên trong tôi. Sáng tác đến đâu biểu diễn luôn đến đấy, anh chị em lại động viên tôi say sưa với nhiệm vụ của người đội trưởng tháo vát, biết tổ chức đời sống, chỉ đạo phương hướng làm việc đạt hiệu quả cao nhất trong các đơn vị bộ đội đóng rải rác khắp bốn tỉnh và trong các làng bản mà nhân dân tuy chưa hiểu kháng chiến được bao nhiêu, nhưng do những lời ca tiếng hát, nên đă yêu mến và hết ḷng ủng hộ bộ đội, nuôi chiến sĩ và làm nghĩa vụ với chiến trường. Chỉ trong ṿng chưa đầy 12 tháng, Phạm Duy đă liên tục sáng tác hàng chục ca khúc, có nhiều bài chỉ hát đôi ba lần, bộ đội đă thuộc ḷng, chúng tôi c̣n phân công nhau dạy hát cho các đơn vị từ trung đội đến trung đoàn và cả nữ dân quân, dân công tải đạn, cáng thương bệnh binh. Ǵ chứ về cái công việc này th́ Phạm Duy hăng hái, sôi nổi nhiệt t́nh số một, v́ bất cứ ở đâu có nhiều chị em, thể nào Duy cũng th́ thầm cho đội trưởng biết: cô kia có đôi mắt đẹp quá, chị này thật lẳng lơ, cô nọ sao lại có nụ cười quyến rũ thế kia, tôi cũng thừa biết cái thú say mê ấy của Duy đă đẩy ng̣i bút xúc cảm của anh ghi nhanh nhiều giai điệu nồng nàn uyển chuyển, với lời ca thắm thiết, với bao nét nhạc khí phách hào hùng hay hào hoa phong nhă nữa kia, nên bao giờ tôi cũng đồng t́nh với Duy về một loại công việc mà Phạm Duy thường nói đùa là “việc sinh sự, sự sinh” ấy. Tôi nhớ măi một chuyện ở phiên chợ Bó Tuổng, dưới chân đèo Đồng Mỏ, có ba chị em người Nùng thấy Phạm Duy ngồi ở một cái quán nước tay đàn miệng hát. Thế là các cô cứ xán đến, rất bạo dạn, kéo vai áo anh nhạc sĩ đẹp trai này và ân cần, nài nỉ mời anh và cả “đồng chí chỉ huy nữa vớ!” về nhà chúng em chơi đi, gần đây thôi vớ, đàn hát cả đêm nay đi, hay lắm vớ. Ṕ noọng chúng em thích bộ đội đàn hát lắm đấy mà!

Phạm Duy nháy mắt với tôi như muốn bảo: đội trưởng đồng ư chứ? Chuyến công tác ấy, vợ tôi v́ có thai đă được 6 tháng, cấp trên bắt tôi phải để vợ nghỉ an dưỡng trong một quân y viện ở huyện Hữu Lũng, do vậy tôi cũng được rảnh rang hơn, nhưng trước sự mời mọc quá tha thiết, ân cần của ba cô gái người Nùng tôi phân vân do dự, bối rối vô cùng. Ngày hôm ấy chúng tôi c̣n phải đi gần 20 cây số nữa đến điểm hẹn biểu diễn phục vụ một trung đoàn sẽ có mặt cả ông Lê Quảng Ba, ông Phan Phúc Tường, Chính ủy Quân khu và nhiều cán bộ đang chuẩn bị những trận đánh lớn dọc quốc lộ số 4, một con đường chiến lược huyết mạch của địch nối liền từ Quảng Ninh lên đến Cao Bằng. Ông Quảng Ba đă có liên lạc hẹn trước với tôi rồi. Không thể về nhà ba cô gái kia được. Bây giờ đă gần 9 giờ sáng, chơi chợ một lát rồi phải đi ngay, chiều đến nơi, ăn cơm xong, nghỉ một lát là biểu diễn luôn. Vậy rẽ ngang mà du hí thé nào được. Hồi đó tuy quân phong quân kỷ c̣n sơ sài, kỷ luật cũng chưa chặt chẽ lắm, nhưng tôi rất lo trách nhiệm của ḿnh, không thể làm lỡ việc của anh Ba, để bộ đội phải chờ đợi văn công. Tôi khăng khăng từ chối. Phạm Duy cứ thuyết phục năm lần bảy lượt, th́ thầm những lời đường mật “Bộ đội vẫn ở đây, không ở chơi với gia đ́nh đồng bào Tày Nùng lấy một ngày, với ba cô bé xinh đẹp của xứ Lạng thế này, tao thấy tiếc, tiếc lắm. Đồng ư đi mày, mai anh Ba có phàn nàn ǵ, mày cứ bảo tao bị sốt rét dọc đường, là được”. Tôi càng bối rối v́ trong tôi: trách nhiệm và thích thú cá nhân đă giằng co nhau mănh liệt, lại phải cái tính cả nể, nên có lẽ mặt mũi tôi lúc đó chắc là trông buồn cười lắm. Rồi cả ba cô tiếp đến chín, mười cô và dễ thường đến một nửa cái chợ Bó Tuổng ấy mỗi lúc một xúm đông quanh chúng tôi và Phạm Duy. Họ cũng đoán tôi là “cấp chỉ huy” ǵ quan trọng lắm đây, nên các cô gái cứ vây lấy đồng chí chỉ huy à! Về nhà chúng em vớ, vui lắm vớ! Trừ có vợ chồng nhạc sĩ Văn Chung là không có ư kiến ǵ, c̣n hầu hết anh chị em trong đội của tôi đều tán đồng với anh chàng “đầu têu” họ Phạm: - Nên đi cho biết anh Cầm ơi! Bộ đội th́ quen quá rồi c̣n đồng bào miền núi, ḿnh đă biết ǵ lắm đâu! Đồng ư đi, anh đội trưởng! Cuối cùng tôi cũng đành nhượng bộ và quả thật, từ lúc đến nhà ba cô, cuộc vui thật là “đầy tháng” (tuy chỉ có nửa ngày và một đêm) và “trận cười suốt đêm” (Nguyễn Du).

   Sáng hôm sau, lúc chia tay với gia đ́nh ấy trông Duy ỉu x́u: dùng dằng măi không quàng nổi cái dây đàn lên cổ, c̣n riêng tôi khi xuống cái cầu thang nhà sàn, sóng đôi với cô chị lớn tuổi nhất ra đến đầu ngơ, tôi cảm thấy hồn ḿnh đă bị ai buộc chặt vào cái cột nhà sàn mất rồi, chỉ c̣n cái xác vật vờ, chệnh choạng mà vào phút cuối cùng chia tay với cô chị (tôi c̣n nhớ tên là Ché Mai níu chặt cánh tay tôi, đưa vạt áo chàm lên lau nước mắt, tôi th́ nghèn nghẹn, không nói được ǵ, nước mắt cứ ứa ra, nḥe hết núi đá, rừng cây và con đường đá trắng quanh co trước mặt.

   Khổ! Cái anh chàng nhạc sĩ họ Phạm này, cũng y hệt ḿnh thôi, cứ đến “chuyện ấy” tưởng được vui hóa ra lại chuốc lấy cái sầu li biệt. Với Duy nó cũng nhẹ thoảng qua thôi, chứ với tôi, cuộc chia tay ấy nặng như núi đá cứ xanh thẫm cái màu chàm quái ác và đằng đẵng măi đến khi kết thúc công tác phía Lạng Sơn, về xuôi rồi thậm chí đến hôm nay nữa, khi ngồi viết ra mấy trang hồi ức này tôi vẫn không nguôi nỗi nhớ.

Quả vậy, tôi rời cái bàn của Ché Mai, nặng ḷng bao nhiêu th́ khi ra đến mặt đường tỉnh từ Đồng Mỏ lên Phố B́nh Gia, Phạm Duy lại phơi phới bấy nhiêu. Anh ta vẫn nhẹ tễnh cái hồn say sông núi, cỏ cây xứ Lạng. Rồi mấy anh trong đoàn lại vừa đi vừa hát, nhiều khi làm thơ kiểu “nối điêu” nhưng bắt buộc một câu bảy chữ phải cùng một âm cốt, ví dụ: Đường đá đưa đoàn đi đến đâu để quên cái đoạn đường đá lởm chởm đang nhức gan bàn chân. Văn Chung xướng ra câu đầu tiên: Đường đá đưa đoàn đoàn đi đến đâu. Một lát Phạm Duy nối: “Xa xưa xam xám xuống sương sầu”. Tôi quên mấy câu do Trúc Lâm, Ngọc Hiền, Ngọc Bích làm tiếp theo, riêng tôi là người làm thơ th́ lại chẳng bật ra được chữ nào v́ đang lo việc về chậm nơi tập kết, và cứ nao nao nhớ Ché Mai. Mới biết về chuyện ân t́nh nam nữ th́ Phạm Duy khá nhẹ nhơm, anh ta như gió thoảng qua trên hoa lá, lẳng lơ t́nh tứ đấy mà quên ngay đấy, rồi ngọn gió ấy lại thổi tạt con bướm non sang cḥm hoa lá khác. Có lẽ do cái bản chất tênh tênh ấy, mà càng lưu diễn qua nhiều nơi mới lạ, th́ anh lại càng sáng tác được nhiều chăng? Mà không biết có phải cũng v́ thế mà phần lớn ca khúc anh viết ở Việt Bắc 1947-1948 đều như thiếu một khoảng ǵ (không cần sáng lắm) để chạm ch́m vào ḷng người những nét suy tư sâu sắc? Bài nào anh viết ra đều nhẹ nhơm, dễ thuộc, cũng có thể nhớ lâu, nhưng nhớ lâu chưa chắc cùng một vần với nhớ sâu. Ở những tác phẩm của anh hồi đầu kháng chiến, tôi ít thấy cái da diết thắm thiết đến khắc khoải như một vài ca khúc của Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao... Nhưng quả thật Phạm Duy là người viết ca khúc được hầu hết các chiến sĩ bộ đội, cán bộ và thanh niên nam nữ khắp Việt Bắc lúc bấy giờ yêu mến nhất, nhắc nhở nhiều nhất, vượt xa các nhạc sĩ nổi tiếng khác cùng thời.

   Đến khi cuộc sống kháng chiến đi vào chiều sâu th́ anh đă không c̣n ở bên tôi nữa. Như con chim ưa t́m xứ lạ, anh đă bay đi và để lại trong tôi một cái ǵ giống như tiếng sáo vi vu, giàn giụa t́nh nghĩa xóm quê xa với những nẻo đường cũng đă quá xa, tưởng chừng khó c̣n khi gặp lại.

Mười ba tháng tṛn bên nhau, ăn cùng một rổ khoai sắn, chia nhau từng cái bắp ngô nướng bếp nhà sàn, từng đọt măng mai măng nứa, đắp chung nhau cái chăn trấn thủ mỏng dính, hụt hẫng như ca dao của Lê Kim “Đắp dọc th́ hở hai bên, đắp ngang th́ lạnh như tiền cái chân...” rồi cùng chia nhau cả những dây tơ t́nh vắt thoáng qua lướt nhẹ hai vai, rồi đến cả mấy bài hát sáng tác ngay bên cạnh tôi, anh cũng cho phép anh đội trưởng điếc đặc âm nhạc này được hoan hỉ nhập vào một tốp ca do anh bố trí người đàn người hát, ngược lại mấy bài thơ “dài ḍng văn tự” của tôi (Đêm liên hoan, Bên kia sông Đuống, Tâm sự Đêm giao thừa, Tiếng hát sông Lô) anh cũng xin cho tôi được “đồng ngâm”. Tôi đă chia đoạn mỗi bài thơ ấy như để đối xướng và giao cho anh những phần có thể ngâm nhiều hơn đọc. Anh thích ngâm thơ và cũng đă thành một “cây ngâm thơ” không phải hạng xoàng. Vậy th́ tôi đă giúp ǵ được anh? Có lần trong chuyến đi công tác dọc tả ngạn sông Cầu, đi đường, một bên là Phạm Duy, một bên là vợ tôi, không biết từ đâu và do cảm hứng ǵ, thật bất ngờ tôi đột nhiên cất cao giọng “hát” trọn vẹn một bài thơ của Lưu Trọng Lư mà tôi rất thích.

   ...Ai có nghe tiếng hát chị đ̣ đưa
   mà không nhớ thương người quả phụ...
   Nằm ấp bóng trăng thưa...

   Tôi hát thật (hoàn toàn không phải “ngâm” như vốn là “nghề” tay trái của tôi, mà cũng là “cao tay nghề” “nhà nghề” lắm lắm, nghề ngâm thơ).

   Dẫu chỉ là ngón sở đoản của tôi, Phạm Duy cũng rất thích rồi... ngược đời thật... Phạm Duy lại “học hát” ở một anh bạn “mít xoài” âm nhạc. Đầu tiên, chỉ là những tṛ chơi cho quên vất vả dọc đường, nhưng dần dà lại ngấm sâu vào cả tôi và anh. Tôi biết Phạm Duy say mê dân ca, anh luôn luôn lắng nghe và t́m hiểu để thụ nhập những lời ca điệu hát của biết bao trai gái quê Bắc Ninh, Bắc Giang, cả những anh chị người Tày, Nùng mà trong 13 tháng ấy anh luôn luôn được tiếp cận. Bởi thế nên hơi thở của dân ca xứ Bắc đă trở thành sinh khí trong các ca khúc Phạm Duy hồi đầu kháng chiến chống Pháp. Chỉ cần một phẩm chất ấy trong các sáng tác của anh thời đó là đủ cho tên tuổi anh thành thân thiết với bộ đội và nhân dân từ trung du đến biên cương phía Bắc. Từ khi chia tay với anh lần cuối vào khoảng sau tết âm lịch năm 1951, tuy xa cách, tôi vẫn nhận được nhiều tin về sáng tác của anh. Vào công tác ở khu Bốn dưới trướng thiếu tướng “Mạnh Thường Quân” Nguyễn Sơn, một ông “nhà binh” lại đam mê văn nghệ, Phạm Duy đă viết những ca khúc đặc sắc: Về miền Trung, Bà mẹ Gio Linh, Bên ni bên tê... chứa chan sắc thái miền Trung, Miền thùy dương bóng dừa ngàn thông, Thuyền ngược xuôi suốt một ḍng sông...dài... Chúng tôi nghe thấy rơ tiếng sóng bờ biển Quảng B́nh, tiếng xao xuyến những đợt mưa ngàn, mưa núi Quảng Trị, thấy cả một bầu trời xanh, rất xanh màu “hai châu Ô, Lư vuông ngh́n dặm" (Tản Đà) từ thuở Chiêm Thành, đă tưởng mất hút qua thời gian lặng lẽ và lạnh lùng. Phong vị dân ca quan họ đă theo anh vào nhiều ca khúc, đặc biệt là bài Khúc hát hành quân xa th́ giai điệu, âm sắc và tiết tấu nào có khác ǵ với bài thơ Lưu Trọng Lư mà tôi đă bất chợt hát trên đường hành quân bên bờ sông Cầu năm ấy?

   Ai có nghe khúc hát hành quân xa
   Mà không nhớ thương người mẹ già
   Chờ con lúc canh khuya
   Người con đă ra đi...v́ nước...

   (P.D)

Quan họ, dân ca miền Bắc, ḥ và dân ca miền Trung thấm vào người anh như nước tưới thấm nhuần cây cam cây bưởi, và anh đă trả lại cho đời những hoa ngát trái lành trên nền âm nhạc Việt Nam, với già nửa thế kỷ những khúc ca đến nay c̣n bịn rịn vương vấn ḷng người.

   Từ sau ngày giải phóng miền Nam, biết tin anh Phạm Duy đă ở xa, xa đất nước, xa quê, xa bạn, thú thật lắm khi  nhớ anh, tôi cứ tiếc... càng tiếc và nhớ khi thấy hai đứa bạn trẻ ngày xưa, bây giờ tóc đă cùng ngả màu sương tuyết. Gần nửa thế kỷ cách biệt giữa hai tấm ḷng tri âm, tri kỷ, không kể c̣n bao nhiêu cái éo le, truân chuyên của số phận mỗi người, hôm nay tôi cứ ước ao có một ngày nào chăng hai đứa ôm ngang lưng nhau đi bên “hồ trả Gươm” mặt hồ xanh “màu cốm đậm”, Phạm Duy và tôi tha thẩn cái tuổi ngoài bảy mươi, tóc trắng bay nhịp với lá bàng rụng tím bên hồ, đi mà sống lại, nhớ lại một thời ngắn ngủi bên nhau, sóng nước gợn lăn tăn h́nh như đang se sẽ gợi một khúc hát nào của anh xa xưa. Có thể có ngày ấy không hỡi những T́nh cờ và Hữu ư, hỡi những Hữu hạn và Vô hạn trên thế gian này?
 

Hà Nội, tháng 12.1993

HOÀNG CẦM
 

hoàng cm

art2all.net