Đặng Tiến

Chuyện Trâu năm SU

(minh họa: họa sĩ Thanh Trí)

 

Trâu thiết thân với nông dân, thân thiết với nông thôn, là thành phần gia đ́nh Việt Nam trong cuộc sống suốt mấy ngàn năm :

 

Trên đồng cạn, dưới đồng sâu

Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa.

 

 

Câu ca dao giản dị mà hàm súc, hiện thực và trữ t́nh. Câu trên là một tiểu đối toàn chỉnh : trên/dưới, cạn/sâu. Câu dưới dàn trải, bắt đầu tiểu đối : chồng/vợ, cấy/cày, sau cùng con trâu bước ra, chậm chạp, ung dung, trong một nhịp thơ khoan thai hơn : chất trữ t́nh ưu đăi con trâu vào cuối câu.

 

Đây không phải là bức ảnh toàn cảnh, công việc đồng áng không diễn ra một lần như thế, mà tuần tự : cày xong mới bừa, bừa xong mới cấy, theo tục ngữ : trâu ra, mạ vào. Nhưng là một bức họa tổng hợp công tác nông vụ, với kỹ thuật khác nhau : đồng sâu là đồng chiêm, đồng cạn là ruộng bậc thang :

 

Ruộng thấp tát một gầu giai

Ruộng cao th́ phải đóng hai gầu ṣng

 

Một số sách, kể cả sách giáo khoa, trích dẫn ngược, do không hiểu kỹ thuật canh nông : ruộng cao gồm nhiều bậc, phải đưa nước từ bậc thấp lên bậc trên, rồi tiếp tục như thế, bằng gàu ṣng nặng, do một người lực lưỡng chuyển động. Gầu giai (giây) nhẹ hơn thường do hai phụ nữ vận chuyển, đưa nước từ hồ, ao lên ruộng thấp.

 

V́ thân thiết với đời sống hàng ngày, con trâu nhiều khi được liên hệ với người vợ :

Thứ nhất vợ dại trong nhà

Thứ nh́ trâu chậm, thứ ba rựa cùn

 

Câu ca dao hóm hỉnh, âu yếm kín đáo.  Khi đề cao, vẫn giọng dí dỏm mà thực tế :

Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà,

Cả ba việc ấy đều là hệ thay

 

Con trâu là đầu cơ nghiệp, của chồng công vợ. Trong một xă hội nông nghiệp ổn định, gia đ́nh Việt nam ổn định, dù cho khi đói khi no, trong đó địa vị và tư cách người phụ nữ được tôn trọng. Hạnh phúc con người, trong nông thôn Việt Nam, diễn ra dưới đôi mắt con trâu :

 

Sớm mai cắp nón ra đồng,

Một đôi vợ chồng với một con trâu.

 

 

Người thân mật, đằm thắm với trâu :

 

Trâu ơi ta bảo trâu này

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta.

Cấy cày vốn nghiệp nông gia

Ta đâu trâu đấy ai mà quản công.

Bao giờ ngọn lúa c̣n bông,

Th́ c̣n ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

 

Trâu chia sẻ thân phận con người. Từ “ai” xem trâu như người, như bạn, như một  “nhà nông” . Người có lúc đói, nhưng trâu ít khi phải đói. Gặp ngày cày bừa tận lực người phải cắt cỏ cho trâu, thậm chí cho trâu ăn thóc, hay... ăn cháo.

Pierre Gourou, nhà địa lư học chuyên về Đông nam Á, trong Đất và người tại Viễn Đông, 1940, có cho biết : nông dân Bắc Bộ có người chỉ tậu trâu trước mùa cày, rôi bán đi sau khi bừa xong, để khỏi nuôi tốn kém quanh năm ( tr 54), có lẽ do đó mới có câu ca dao:

Tháng tư đi tậu trâu ḅ,

Để cho ta lại làm mùa tháng năm.

 

Đây cũng là cách phân chia lao động giữa nghề cày ruộng và nghề chăn trâu. Và giữa hai nghiệp vụ ấy nảy sinh nghề lái trâu. Từ “ nói lái” thông dụng chỉ mật mă, tiếng lóng trong nghề buôn bán gia súc.

 P. Gourou c̣n thống kê : con trâu làm việc 60 ngày (trang 53), người làm 180 ngày trung b́nh trong năm( trang 217) ; ông c̣n nhận xét, trên đồng quê có khi thấy người lao động, gồng gánh cật lực, trong khi dưới bóng tre trâu nằm... chơi ( trang 53) !

Dưới gốc đa già, trong vũng bóng

Nằm mát đàn trâu ngẫm nghĩ nhai

(Bàng Bá Lân, Tiếng sáo diều)

 

 

Cùng một h́nh ảnh, xưa kia, Nguyễn Khuyến( 1835- 1909) có câu thơ hay :

Trâu già gốc bụi ph́ hơi nắng

 

Nguyên tác chữ Hán, không hay bằng câu thơ dịch ra chữ nôm :

Ngọa thụ b́ ngưu hư thử khí

(Đến chơi nhà Đặng Tự Ư)

 

Nói về thơ Hán Việt không thể không nhớ con trâu trong thơ Trần Nhân Tông (1285-1308). Ông vua thao lược, đạo hạnh này làm thơ thậm hay. Đàn trâu chỉ thoáng hiện trong bóng chiều đă để lại cho ngàn sau  ấn tượng sâu đậm v́ lời thật, cảnh thực.

 

Thiên Trường văn vọng

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên

Bán vô bán hữu tịch dương biên

Mục đồng địch lư ngưu quy tận

Bạch lộ song song phi hạ điền.

 

Ngô Tất Tố dịch : 

Cảnh chiều Thiên Trường

Trước xóm sau thôn tựa khói lồng

Bóng chiều man mác, có dường không.

Theo hồi kèn mục, trâu về hết,

C̣ bạch thi nhau liệng xuống đồng

 

ĐT dịch :

Thôn sau thôn trước mờ như khói

Có có không không, đạm sắc chiều

Trẻ giục trâu về c̣i thúc thúc,

C̣ nghiêng trắng ruộng cánh xiêu xiêu.

 

 

Thơ xưa, kể cả thơ Trung Quốc, hay đến như vậy, hiện thực, đơn giản, trầm mặc mà linh động đến như vậy, không nhiều lắm đâu. Nhất là để gợi lên h́nh ảnh đàn trâu về chuồng, ḥa nhập vào phong cảnh an tĩnh giữa trần gian, nơi cư trần lạc đạo.

 

Người xưa trọng vọng trâu; theo truyền thuyết trâu đă giúp vua Vũ nhà Hạ trị thủy. Thời Chiến Quốc, Tử Đồi con vua Chu Trang Vương nuôi hàng trăm con trâu cho ăn gạo thóc, mặc gấm vóc, lại có kẻ hầu người hạ. Họ ca ngợi nghề chăn trâu của những Sào Phủ, Nịnh Thích. Nhưng con trâu vẫn không mấy khi lê nổi bàn chân lầm than từ bùn lầy lên đến trang giấy văn chương, dù có xuất hiện nhiều lần trong nghệ thuật tạo h́nh như tranh, tượng.

 

Ở Việt Nam vào thời b́nh minh của thơ Nôm, Nguyễn Trăi (1374-1442) sống nhiều nơi thôn ổ, tả nhiều cảnh nông tang, mà chỉ tả con trâu vẽ trong nghiên mực “Đầm chơi bể học đă nhiều xuân” nghĩa là con trâu vẫn... nằm chơi.

 

Một lần khác Nguyễn Trăi nói đến con nghé, nhân sử dụng một tục ngữ răn đời : sảy giàn tan nghé :

Chúa giàn nẻo khỏi tan con nghé

Ḥn đất hầu làm mất cái chim

(Bài 23 trong Bảo kính cảnh giới)

 

Nghĩa là : con trâu đầu giàn (chuồng, ràn) phải giữa vị trí lănh đạo, để con nghé đừng chạy lạc. Câu sau, ngụ ư không nên làm việc phù phiếm, dựa theo tục ngữ :

 

Đất bụt mà ném chim trời

Chim th́ bay mất, đất rơi xuống chùa.

 

Vào thời Hồng Đức, thơ Lê Thánh Tông và nhóm Tao Đàn có nhiều bài tả người chăn trâu, nhưng không trực tiếp nói đến con trâu..

 

Đến Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), hiền triết, khi nhắc đến con trâu chỉ mượn tục ngữ để răn đời:

Người hàng thịt nguưt người hàng cá

Đứa bán ḅ gièm đứa bán trâu

(Bài 112,1983,1997)

 

Như vậy con trâu chưa phải là một mô h́nh tự lập trong câu thơ, mới làm cớ cho người ta nói chuyện khác.

Không hiểu v́ lư do ǵ, về sau, người Việt Đàng Trong quan tâm đến trâu nhiều hơn. Nguyễn Đ́nh Chiểu (1822-1888) đă an vị con trâu chính xác trong đời nông dân

Ấm lạnh trọn bề vài đám ruộng

Làm ăn giữ bổn mấy con trâu

 

Bài thơ cụ thể nhất về  trâu có lẽ là của Học Lạc (Nguyễn văn Lạc, 1842-1915)

 

Con Trâu

Mài sừng cho lắm cũng là trâu,

Gẫm lại mà coi thật lớn đầu.

Trong bụng lam nham ba lá sách,

Ngoài cằm lém đém một cḥm râu.

Mắc mưu đốt đuốc tơi bời chạy,

Làm lễ bôi chuông dớn dác sầu.

Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ,

Năm dây đàn khảy biết nghe đâu.

 

(Đốt đuốc : sự tích Điền Đan nước Tề, sử dụng một ngàn con trâu buộc đuốc vào đuôi rồi đốt cho trâu xông trận phá hàng ngũ đối phương.

Bôi chuông : ngày xưa, tại Trung quốc có lệ giết trâu để làm lễ bôi chuông. Có lần Tề Tuyên Vương thương hại, truyền lịnh tha mạng sống cho trâu.)

 

Cùng ở Nam Bộ, Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883) bài Trâu già, dùng chung một mạch điển cố :

Một nắm xuơng, một nắm da

Bao nhiêu cái ách cũng từng qua

Đuôi cùn biếng cột Điền Đan hỏa

Tai nặng buồn nghe Nịnh Tử ca

Sớm dạo vườn Nghiêu ăn hủng hỉnh

Tối về nội Vơ thở hi ha

Ngày xưa mắc phải nơi đường bệ

Ơn có Tề Vương cứu lại tha.

 

(Nịnh Tử : sự tích Nịnh Thích thời Chiến quốc chăn trâu, gơ sừng ca hát than thân, được vua Tề Hoàn Công nửa đêm đốt đuốc phong chức đại phu.

Nghiêu, Vơ : hai ông vua đời thượng cổ; theo truyền thuyết, trâu giúp các vua này cày ruộng và trị thủy).

 

Từ đấy trâu được trọng vọng : trên đồ đất nung từ thời Thương Chu, hai ngàn năm trước Tây lịch đă có hoa văn h́nh trâu. Đời Tiền Hán –  vài ba thế kỷ trước Tây lịch –  đă có nhiều tượng trâu bằng đồng, nhất là vùng Vân Nam. Có lẽ tục giết trâu tế thần có từ thời thượng cổ, ngày nay vẫn c̣n ở một vài nơi, như miền Tây Nguyên Việt Nam, c̣n tục đâm trâu, giết trâu tế Dàng.

 

*

 

Trong văn học Đàng Trong, h́nh ảnh và thân phận con trâu, hiện thực và đầy đủ nhất nằm trong truyện Lục súc tranh công, dài 453 câu, viết theo cách nói lối trong tuồng cổ (hát bội) một lối văn thịnh hành thời Tự Đức; có lẽ  tác phẩm làm tại Huế, nửa sau thế kỷ XIX. Truyện kể lại cuộc tranh công tị việc giữa sáu gia súc : trâu, chó, ngựa, dê, gà, lợn. Phần quan trọng nhất dành cho trâu, non một trăm câu, cũng là phần hay nhất, là tiếng nói thống thiết của nông dân phản ánh số kiếp lầm than không lối thoát.

 

Trước cổ đă mang hai cái niệt

Sau đuôi thêm kéo một cái cày.

Miệng đă dàm, mũi lại ḍng dây,

Trên lưng ruồi bâu, dưới chân đỉa cắn,

Trâu mệt đă thở dài, thở vắn,

Người c̣n hầm hét, mắng ngược mắng xuôi

(...)

Cày ruộng sâu, ruộng cạn cho no

Lại vườn đậu, vườn mè khiến chở :

Làm không kịp thở,

Ăn chẳng kịp nhai,

(...)

Lúa gặt cất lên đă có trâu xe,

Lúa chất trữ lại để dành trâu đạp.

(Niệt : giây buộc ách)

 

Sống cùng cực, chết c̣n chưa rảnh nợ đời : trâu lập tức bị phân thây xẻ thịt, tận dụng từ ngọn sừng đến móng gị, ninh nhừ làm nham làm thấu (hai món ăn) :

 

Người người đều bàn bạc với nhau :

Kẻ th́ rằng tôi lănh cái đầu,

Người th́ nói phần tôi cái nọng.

Kẻ giành bong bóng ép gối mà kê,

C̣n sừng đem về ép thoi, làm lược,

Kẻ th́ chuốc hoa tai làm ngạt quạt,

Người lại tiện chén rượu, bầu liều,

Làm tù và mà thổi cũng kêu,

Tiện con cờ mà đánh cũng tốt.

(Ngạt : nan quạt. Bầu liều : bầu dùng để đo lường)

 

Tục ngữ có câu tỏ khí phách can trường, hay sự lỳ lợm, “ trâu già không ngại dao phay”, có người gán cho chính khách Trần văn Hương, không rơ đúng không và, vào thời điểm nào.

***

 

Văn chương có quy luật riêng, làm bằng khuôn sáo, thời thượng, về sau lại thêm “đường lối” không được như trâu quá sá, mạ quá th́. V́ vậy con trâu dù thân thiết và thiết thân với nông dân cũng không mấy khi xuất hiện trong văn thơ hiện đại.

 

Trong văn chương quốc ngữ, chủ yếu là phong trào Thơ Mới 1932-1945, trâu xuất hiện như h́nh tượng nghệ thuật độc lập, lần đầu tiên, có lẽ là trong thơ Đoàn văn Cừ (1913-2004), mà tầm quan trọng về văn học dường như chưa được khẳng định công bằng và chính xác :

Những buổi chiều trong khoảng nắng hồng pha

Trên giải lúa mênh mông màu cánh trả,

Đàn trâu xám họp nhau về tất cả

Như bức tranh thêu, mặt vóc lam hồng.

 

Bài Đàn trâu, 1943, trích từ tập Thôn ca, 1944 gồm 26 câu, chỉ tả trâu, không mượn trâu để nói chuyện khác. Như trong một họa phẩm, trâu hiện ra trong vẻ đẹp và phong cách của nó, đơn lẻ hay trong bầy đàn, trong phong cảnh, ánh sáng và chân trời của nó – thêm tiếng chuông chùa nâng chân bước :

 

Trong ánh sáng hoàng hôn màu úa đỏ

Đàn trâu về thủng thỉnh bước trên đê.

Những cập sừng cúi thấp nặng nề lê,

Những chân bước lừ đừ như quá mỏi,

Những chiếc đuôi hiền lành se sẽ đuổi

Những con ruổi mê ngủ bám bên hông.

H́nh sao Hôm trắng toát hiện trên không,

Như giọt nước trong rơi trên luống cỏ.

Hơi suơng tím chân trời tha thướt phủ

Những h́nh đen lần lượt kéo vào thôn,

Tiếng chuông chùa gọi với ánh hoàng hôn,

Liềm trăng bạc đêm hè nâng lấp ló.

 

 

 

 

Thôn trang trong thơ Đoàn văn Cừ là một bức tranh lư tưởng và lăng mạn, cũng như ở những nhà thơ khác cùng thế hệ, mang hương đồng cỏ nội như Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh, Anh Thơ, Bàng bá Lân.

 

Nhưng không ở đâu con trâu được tô vẽ dưới nhiều nét đậm nhạt và thi vị như ở Đoàn văn Cừ trong Thôn Ca :

 

Con trâu đen chúi mũi đứng bên đồng

Cứ liếm măi nắng vàng trên cỏ biếc.

(Nắng Xuân, 1942)

 

Màu sắc ở đây đă được chắt chiu chắt lọc. Đoàn văn Cừ sáng suốt và ngay thẳng thừa nhận điều này :

Cảnh dân dă quê ḿnh như thế đó

Khi yêu rồi, đâu cũng đẹp như thơ.

(Lá thắm)

 

(dường như Picasso có nói đâu đó, đại khái : không có cảnh đẹp hay người đẹp, chỉ có con mắt nh́n ra cái đẹp. Cụ thể, muốn thấy vẻ đẹp của trâu, trên nền nông thôn, có thể t́m xem tranh sơn mài, hiện đại, khổ lớn của họa sĩ Thành Chương, Hà Nội, hoặc tranh sơn dầu hay màu nước của nữ họa sĩ Nguyễn Thanh Trí, California).

 

Nói đến con trâu, Đoàn văn Cừ không quên bác lái trâu, một h́nh ảnh quen thuộc của nông thôn :

Ḿnh phủ h́nh trong chiếc áo vàng

Trán lồng trong một chiếc khăn ngang

Chân đi đôi dép, ô kèm nách

Tay dắt con trâu đứng cạnh đường.

 

Những lúc trâu vè khách đứng đông,

Bác vừa xoa nó khắp bên hông,

Vừa khoe nó vốn ḍng trâu “loạn”,

Cày ải đi nhanh nhất cánh đồng.

 

(Vè : tiếng địa phương nghĩa là tụ họp, như chữ vầy trong sum vầy.

Trâu loạn : trâu mạnh, cày khỏe. Tục ngữ : cày trâu loạn, bán trâu đồ. Trâu đồ là trâu nuôi để ăn thịt.

Cày ải : cầy lật đất cho khô).

 

Sau 1945-1954, xă hội Việt Nam vẫn là nông nghiệp, nhưng h́nh ảnh con trâu không đậm nét trong thi ca. Muốn t́m th́ cũng có thôi nhưng không lấy ǵ làm đặc sắc. Những nhà thơ nặng t́nh nghĩa với nông thôn, như Ngô văn Phú, cũng ít tả trâu. Huy Cận là ngoại lệ, tôi đă có bài riêng cho đề tài này.

 

Phùng Cung ( 1928- 1997), trong những bài thơ cô đúc và phong cách riêng, có câu hay:

Cổng hè đổ vụn- nắng son

Con trâu gốc phượng

Nhai ṃn gần xa.

Trưa Hè, trong  Xem đêm, 1995

Cùng một đề tài, câu thơ đă xa thời Bàng Bá Lân lắm.

 

Con trâu của Phùng Cung c̣n xuất hiện trong toàn cảnh xă hội :

Chợt nghe động trống

Trâu ḅ nhớn nhác

Dùi quật liên hồi

Ê ẩm tấm da khô.

 

Nguyễn hữu Đang ( 1913-2007) cho rằng bài Ê ẩm này là “ kiệt tác, hay nhất trong tập Xem Đêm.

Con trâu chết đi, để lại nỗi oan khiên ẩn náu trong mặt trống. Đánh trống mà mặt trống thấy đau, tiếng trống vang lên, mang theo oán hờn, tác động đến những trâu ḅ chung quanh gây sợ hăi, kinh hoàng” (25-10-1996).

 

Lời b́nh có chính xác không, bài thơ có hay nhất không, th́ ta không biết. Nhưng Nguyễn hữu Đang là người có quyền, và thẩm quyền, viết một câu như thế.

    

Tố Hữu chuyên vẽ  toàn cảnh xă hội, cố nhiên là phải nói đến trâu. Câu nổi tiếng trong Ta đi tới, 1954 :

Trâu ta ra băi ra đồi

Đồng ta lại hát hơn mười năm xưa.

 

Hai năm sau, Trên Miền Bắc Mùa Xuân, thời cải cách ruộng đất, 1956  :

 Những đàn trâu Việt Bắc béo tṛn

Đủng đỉnh về xuôi quê hương mới lạ

(...)

Sướng vui thay miền Bắc của ta...

 

Con trâu cách mạng béo tṛn, đủng đỉnh (trên áp phích) này có thực tế không?

Dù rằng tại Miền Bắc, lúc ấy, 1956, vẫn có trâu, và người béo tṛn, đủng đỉnh.

Trong khi lắm kẻ cảm thân phận làm trâu như Trần Huyền Trân thời “tiền cách mạng” :

Vai cầy chẳng kẻo làm trâu

Dong xe chẳng kẻo tóc râu làm bờm.

Nẻo về chật chội áo cơm

Dặm đi lại động từng cơn lá rừng.

Độc hành ca, 1940

 

Từng cơn lá rừng... nhắc đến đoạn đầu bài thơ Tôi đi trên những con đường rừng cũ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Rừng cũ đây là rừng Trường Sơn, khu Bốn, thời chiến tranh :

Ai hành quân qua đây ?

Trên lối trâu ṃn kéo gỗ.

Ai nghỉ đêm nơi đây ?

C̣n dấu tro tàn bếp lửa.

Đồng chí nào chia tay nơi đây ?

Ngă ba rừng hoang lá đầy.

 

Nhắc lại đoạn thơ v́ câu : Lối trâu ṃn kéo gỗ trên rừng núi Tây nguyên, trong bản văn được đài Hà Nội phát thanh năm 1971, đăng trên báo Văn Nghệ 1973, tôi ghi lại theo tạp chí Tác Phẩm Mới, tháng 8-1975. Nhưng nay, bên thềm năm Trâu Kỷ Sửu, t́m lại lối ṃn kéo gỗ th́ con trâu ... biến mất. Đoạn thơ tân trang trở thành :

Ai hành quân qua đây ?

Đất vẫn in ṃn lối cũ.

Ai dừng chân nơi đây ?

Đá vẫn nguyên h́nh bếp lửa.

Đồng chí nào chia tay nơi đây ?

Ngă ba rừng hoang lá đầy.

(Tuyển tập, tập 4, nxb Trẻ, 2002, tr.11)

 

Dở quá sức dở. Xét về mặt nào cũng dở. Càng thương bạn, càng thấy dở. Khổ quá : lối cũ không in ṃn trên đất th́... in vào đâu ? H́nh bếp lửa là h́nh ǵ ? Lời thơ ngớ ngẩn v́ rập theo khuôn sáo. Câu thơ nguyên bản hay và truyền cảm nhờ gợi lên được những tàn phai với ít nhiều hoang dă, trong cuộc chiến trường kỳ gian khổ. Có thời người ta gọi là “ lăng mạn cách mạng”, nghe cũng tàm tạm.

Lối trâu ṃn kéo gỗ... C̣n dấu tro tàn bếp lửa  là h́nh ảnh tham dự vào cuộc sống tàn phai và hoang dă. Như hồn thu thảo, bóng tịch dương trong thơ xưa. Nay câu thơ được tân trang : đất vẫn... đá vẫn....  nghèo đi, đọc nghe vớ va vớ vẩn.

Vấn nạn là : một đoạn thơ hay, đă được phổ biến, thâm chí có giá trị lịch sử, bỗng tự ḿnh leo thang xuống cấp, lư do : cái nước Việt Nam nó thế ...!

 

*   *  *

 

Trong văn xuôi, ta có hai cuốn tiểu thuyết dưới nhan đề Con Trâu : cuốn trước của Trần Tiêu (1938), kể chuyện một nông dân Bắc Bộ nghèo khổ, điêu đứng, cả đời mơ ước tậu được một con trâu nái làm cơ nghiệp, và đến lúc chết vẫn c̣n mơ ước, lẩm bẩm hai tiếng “con trâu”. Cuốn sau, của Nguyễn văn Bổng (1952), kể chuyện thời kháng chiến chống Pháp khu V, vùng Nam-Ngăi, lính Pháp đàn áp dân chúng, bắn giết trâu, hầu làm trở ngại sản xuất; quần chúng phải chiến đấu, để tự vệ vào bảo vệ trâu, đưa trâu vào rừng hay xuống hầm. Những đoạn tả việc trâu xe nước, trong lửa đạn là những trang hiện thực linh động.

 

Khoảng 1957, Sơn Nam có viết một truyện ngắn đặc sắc, Mùa len Trâu, kể lại việc nông dân di chuyển đàn trâu hằng mấy trăm con từ đồng bằng Hậu Giang ngập lụt lên vùng cao Ba Thê, Bảy Núi để dinh dưỡng; gần đây, 2003,  kết hợp với truyện Một cuộc biển dâu, Mùa len Trâu được Nguyễn vơ Nghiêm Minh dựng thành phim hay, gây ấn tượng mạnh, với đàn trâu vĩ đại băng ḿnh qua cảnh trời nước mênh mông, tựa một ngọn gió đen, như trong thơ Thanh Thảo :

 

Đàn trâu ngọn gió đen ào qua trảng cỏ...

(Những người đi tới biển, 1976)

 

                                                                   ***

 

Bài viết, theo dự tính, chấm dứt ở đây, th́ tôi nhận được tạp chí Thư Quán Bản Thảo, New Jersey , Hoa Kỳ, số Xuân Kỷ Sửu, tập 35, ghi tháng 2-2009 (www.thuanquan.com) có truyện ngắn về trâu thật hay. Tác giả Trầm Mặc Hoa Huyền, một cái tên lạ, ở Kansas City, viết về trâu vô cùng ưu ái. Một đoạn chọi trâu v́ giành nhau đồng cỏ, hào hứng :

 

Con Pháo và con Hổ chiến đấu tay đôi, c̣n những con theo yểm trợ th́ mặt nghinh lên trời rống họng kêu nghé ngọ đi ṿng quanh. Chúng cúi đầu mài sừng lia lịa nơi bờ ruộng hay các mô đất cao, hất bung đất cát văng lên tung tóe đầy trời. Từ hai thửa ruộng xa nhau, con Pháo và con Hổ dồn hết sức lực chạy băng về phía đối thủ. Bốn sừng đụng nhau cái “rốp” nghe đinh tai nhức óc, rồi gầm đầu xuống bốn chân lấy thế, dốc toàn lực đẩy đối phương. Sau đó lại dang ra, chạy một ṿng như để lấy trớn rồi xáp vô đụng tiếp, gầm đầu đẩy, rồi ngẩn đầu lên dùng đôi sừng cong vút chém mạnh vào cổ vào đầu nhau. Bụi bay mù trời mịt đất”...

“Chúng chém nhau gần ba bốn tiếng đồng hồ mà vẫn bất phân thắng bại. Sau đó, con Pháo dường như đoán biết đối thủ tuy đă đuối sức nhưng vẫn c̣n hung hăng lắm nên nó giả đ̣ thua chạy lùi lại. Thắng thế, con Hổ lấy hết sức nhảy qua mương, quyết tâm diệt địch. Không ngờ, con Pháo thừa cơ đối thủ vừa nhảy qua mương chân chưa kip chấm đất, nó quay đầu lại, dùng hết mười phần công lực húc một phát mạnh như vũ băo, khiến cho con Hổ rớt xuống mương, thân h́nh co quắp nửa trên bờ nửa dưới nước.”

 

Một đoạn khác, tả việc len trâu vào những ngày Tết “lùa trâu vào thả hoang trong rừng”. (Từ “len” Sơn Nam giải thích là thả hoang) :

 

Cứ lệ cuối năm (...) Trâu thả hoang đều tháo gỡ tất cả dây cột dàm, mũi ra để chúng được tự do đi lại và bảo vệ cho nhau khi bị bắt trộm hoặc thú dữ tấn công. Trâu ḅ là loài động vật khôn ngoan. Ban đêm chúng xếp thành đội h́nh để bảo đảm an toàn cho nhau trong lúc ngủ. Tất cả trâu nghé, trâu con đều dồn vào chính giữa như cái rốn, kế đến là trâu mẹ nằm bao xung quanh bảo vệ đàn con, rồi đến số trâu già, sau cùng là những con trâu đực tơ, khỏe mạnh kết thành một ṿng đai lớn vừa canh chừng vừa chiến đấu với kẻ thù.”

(Truyện Con Trâu Pháo, tr. 99 và 101).

                                                                  

***

 

Người chân quê khề khà nói chuyện trâu không bao giờ đủ, không bao giờ hả. Cũng dựa vào cơ hội năm Kỷ Sửu mới nói được chuyện trâu ḅ thô lậu. Cuối cùng c̣n mượn dịp báo Tết, để chúc bạn đọc năm châu bốn biển một niên sức khỏe, an vui và tài lộc dồi dào :

 

 

Được tiền th́ mua rượu

Rượu say rồi cưỡi trâu

Cưỡi trâu thế mà vững

Có ngă cũng không đau.

 

 

Lời hưng phấn này – mừng vui ngày Tết –  là thơ Trần Tế Xương.

 

 

Đặng Tiến

Orléans,  Tết Kỷ Sửu, 01-01-2009

 

 

 

Ghi chú ngoài lề :

1)      Trâu quá sá, mạ quá th́ : thành ngữ không thấy có trong các từ điển chuyên môn . Đại từ điển tiếng Việt 1999 của Nguyễn Như Ư giảng không rơ. Sá là đường ṃn ven núi, về sau có nghĩa là con đường nhỏ. Trâu quá sá là vượt quá đường cày, dẫm sang ruộng người khác. Từ đó, có trạng từ “quá xá”, Rồi “quá xá quà xa”.

 

2)      Gàu ṣng : Pierre Gourou, trong Đất và Người tại Viễn Đông  (L’Homme et la Terre en Extrême Orient, nxb Armand Colin, 1940) cho biết : Một người dùng gàu ṣng trong 7 tiếng có thể đưa một trăm thước khối nước lên 40 phân, với nhịp 22 gàu/phút. Muốn đưa một lớp nước 10 phân lên một mẫu, phải tát mười hai ngày (tr.64).

 

Trang Đặng Tiến

Art2all.net