Đặng Tiến RỒNG TRONG MỸ THUẬT VIỆT NAM
Rồng, tranh Nguyễn Tư Nghiêm, mộc bản, 1988
Rồng là linh vật truyền thuyết của nhiều dân tộc trên thế giới. Mỗi địa phương, mỗi thời điểm, nó mang chức năng và h́nh dạng khác nhau.
Bài này chỉ giới hạn trong h́nh dạng con Rồng qua lịch sử mỹ thuật Việt Nam, dĩ nhiên là thỉnh thoảng cũng phải đề cập đến nguồn gốc của nó cho rơ nghĩa. Để bạn đọc dễ bề theo dơi, chúng tôi tạm phân biệt bốn giai đoạn trong tiến tŕnh tạo h́nh con Rồng :
- Rồng Văn Lang, từ vùng sông Hồng đến Thanh Hóa, trước Tây lịch - Rồng Giao Chỉ, từ thời Bắc thuộc đến thế kỷ X, chịu áp lực văn hóa Hán tộc. - Rồng Đại Việt, thời Lư Trần (TK X – XIV) - Rồng thời Lê Nguyễn, (từ TK XVI) dần dần bị ảnh hưởng Trung Quốc.
Miêu tả như vậy, là theo ḍng lịch sử. Nhưng lịch sử nghệ thuật không nhất thiết phải liên tục, phải duy lư, trải qua bốn ngàn năm ghềnh thác. Có thể h́nh dạng con Rồng ta thấy ngày nay không can hệ ǵ đến những hoa văn trên đồ đồng của tổ tiên ta thời Đông Sơn, cho dù có đôi đường nét chung. Liên hệ có khi chỉ là thành kiến : chúng ta tự cho là con Rồng cháu Tiên, vậy con Rồng của chúng ta ngày nay phải là hậu duệ của con Rồng Lạc Long Quân. Cái t́nh là như vậy. Cái lư muốn như vậy. Nhưng lịch sử mỹ thuật chưa chắc đă liên tục.
Bài này cung cấp h́nh tượng Rồng qua những giai đoạn, nhưng không dám khẳng định con rồng này là tiến tŕnh của con rồng kia. Nghệ nhân thời Lê, và ngày nay, vẽ con rồng, chưa chắc ǵ đă biết đến con Rồng thời Lư – đặc biệt Việt Nam – đừng nói ǵ đến con Rồng Văn Lang. Chúng ta không nên v́ tự hào dân tộc mà suy luận sơ đẳng.
Khái niệm Rồng có thể xuất hiện từ thời rất xa xưa, dĩ nhiên không phải dưới danh xưng “Rồng”. Tổ tiên ta gọi “con ấy” là con ǵ th́ không ai biết. Sử sách có nói đến con thuồng luồng, con giao long : người Văn Lang thời đó “xuống nước đánh cá thường bị giống giao long làm hại nên có tục xâm ḿnh theo dạng thủy quái để tránh tai họa giao long”, theo Lĩnh Nam Chích Quái, truyện họ Hồng Bàng. “Dạng thủy quái” ra sao, chúng ta không rơ, nó có phải là tiền thân con Rồng hay không, cũng chỉ là suy đoán. Có thuyết nói : chữ “thuồng luồng” phát sinh ra chữ “long” rồi biến âm thành chữ “rồng”. Nhưng theo cố giáo sư Nguyễn Tài Cẩn, th́ ngược lại, từ “rồng”có trước, vào thời Hán, chữ “thuồng luồng” xuất hiện về sau, vào thời Đường. Theo ông, thời tiền sử, người Việt gọi rồng bằng cái tên ǵ khác, như là rắn hay cá sấu [1]. Hai chữ giao-long có nghĩa là “cá sấu-rồng”. Nhà nghiên cứu mỹ thuật Huỳnh hữu Ủy cho biết, trong tiếng Mường c̣n chữ “con khú – con rôông” để chỉ con cá sấu, con rồng, và c̣n câu tục ngữ “con khú làm chồng, con rồng làm nhân ngăi” [2].
Nói chung, nhiều sử gia cho rằng giao long trong sử cũ là cá sấu, bách hại đời sống nông dân và ngư dân cả vùng Đông Nam Á, bằng cớ là măi đến đời Trần, Nguyễn Thuyên c̣n phải làm văn tế cá sấu (1282). Mặt khác các vua nhà Trần có truyền thống thích h́nh rồng vào đùi, cho đến đời Trần Anh Tông (1299) mới bỏ. Sử sách c̣n chép rơ chuyện này.
Đây là thời kỳ các bộ tộc Lạc Việt Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ bắt đầu định cư chắc chắn và liên kết với nhau thành nước Văn Lang vùng châu thổ sông Hồng và trung du lân cận dưới triều đại Hùng Vương. Các bộ tộc Âu Lạc Việt đă bắt đầu xây dựng huyền thoại về nguồn gốc, sùng bái vật tổ (totem, Rồng Chim) sau này sẽ trở thành truyền thuyết (chim) Lạc (rồng) Long Quân. Dĩ nhiên là tên Lạc Long Quân sẽ xuất hiện về sau, có lẽ vào giữa thời Bắc Thuộc dưới ảnh hưởng của Đạo giáo, ”quân” là chức sắc cao cấp trong tín ngưỡng Đạo giáo. Nhưng huyền thoại th́ có trước. (Lạc c̣n có nghĩa là ruộng Lạc).
Gần gần với niên đại cặp giao long trên thạp đồng Đào Thịnh, Yên Bái, th́ ở Trung Quốc trên thạp đồng An Dương đời Thương đă xuất hiện h́nh rồng hoàn toàn khác, vóc dáng khác, đầu có sừng giống sừng cừu. Từ đó ta có thể nghĩ đến tính cách độc lập của “con rồng bản địa” của Văn Lang.
Theo sử gia Lê Thành Khôi h́nh rồng của Việt Nam cũng như Trung Quốc nguyên thủy là h́nh cá sấu, ngày nay vẫn c̣n tồn tại ở các nền văn hóa Đại dương châu [3]. Sấu và chim là vật tổ của nhiều dân tộc Đông Nam Á trong đó có các bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt liên minh thành nước Văn Lang và Âu Lạc. Huyền thoại Rồng Tiên, từ h́nh ảnh sấu- chim, hay truyền thuyết Lạc Long – Âu Cơ có lẽ do đó mà sản sinh ?
Phải đợi đến triều Lư (1010-1225) h́nh rồng dạng rắn mới phát triển dưới vóc dáng rồng-rắn đặc biệt Việt Nam trong nhiều ư nghĩa : rồng là biểu tượng của vương quyền “thiên tử”, theo gương vua Hán Cao Tổ. Rồng c̣n tượng trưng cho các vua nhà Lư, là h́nh tượng của chủ quyền dân tộc “ḍng giống rồng tiên”, ước vọng phồn thịnh, mưa thuận gió ḥa v.v... Khi Lư Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La (1010) đặt tên quốc đô là Thăng Long, là chọn một cái tên giàu ư nghĩa; chuyện “rồng vàng bay lên” để đón vua e chỉ là truyền thuyết. Hai chữ Thăng Long chắc đă được Lư Thái Tổ và quốc sư Vạn Hạnh chuẩn bị từ trước, chẳng cần đợi rồng bay. (Thuyền vua đỗ dưới chân thành vào tháng 7 mưa ngâu, trông lên trời mây ắt thấy rồng : tổ tiên ta tuyên truyền chính trị rất giỏi).
Con Rồng triều Lư là một sáng tạo dân tộc, khác với rồng Trung Quốc : thân h́nh thon dài như thân rắn uốn lượn trên một nhịp dần dần nhỏ lại về phía đuôi nhọn, chân là chân chim móng vuốt nhọn sắc. Đầu có mào h́nh chữ S, như mào chim hay rắn thần trong truyền thuyết, không có sừng như rồng Tàu, nhưng có ṿi, ban ơn mưa móc, uốn ḿnh trong ngọn lửa; cái ṿi có lẽ do ảnh hưởng phương Nam, con rồng makara Chàm-Ấn. Miệng há rộng, răng sắc đớp ngọc minh châu, nguyên là quả cầu tượng trưng cho mặt trời và sấm sét. Râu, bờm, lông móng oai dũng kết hợp thành những đường nét nhịp nhàng, hài ḥa như một đất trời gợn sóng (h́nh 9 , và bản vẽ lại của Trần Tuy).
9. Rồng nhà Lư, tk XI
Tư tưởng chính trị, triết học, tôn giáo là của triều thần nhà Lư, nhưng h́nh rồng là sáng tạo của nghệ sĩ dân gian. Ngày nay chúng ta tự hào và ngạc nhiên tự hỏi : sao vào thời trung cổ cách đây cả ngàn năm dân tộc ta đă có nền nghệ thuật tạo h́nh phong phú và tinh tế như thế ? Con rồng thời Lư là bản sắc dân tộc, đỉnh cao của mỹ thuật Việt Nam. Hay nói như Thái Bá Vân, “đến mỹ thuật Lư th́ thẩm mỹ Việt Nam ở cái đỉnh mẫu mực của mọi ṿng sáng tạo”[4]. Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung cũng đă nhiều lần, từ 1944 về sau, ngợi ca con rồng này[5].
Họa sĩ Vĩnh Phối, gần đây đă có lời miêu tả nồng hậu : “nghệ nhân Huế đă vận dụng biến hóa tài t́nh thành rồng Huế, thường có sừng mọc ở vị trí tai, khác rồng Trung Quốc và rồng Lư Trần. Vảy bao phủ toàn thân, một tứ bờm có ngạnh. Bờm và đuôi soắn tṛn biến thành những ngọn giáo đă xuất hiện thời Lê, chân có móng sắc. Những con rồng trang trí thời Nguyễn có t́nh cách oai vệ, khí thế sinh động và toát lên uy quyền nhà Nguyễn” [6].
Mô h́nh trang trí khá phổ biến tại Huế, trong kiến trúc, điêu khắc ở cung đ́nh hay các nhà quyền quư, dưới dạng con giao bốn móng, hay con cù, gần với cá sấu. Chỉ có con rồng năm móng là biểu tượng dành riêng cho bậc đế vương. Trong một thuyết tŕnh ngày 30-9-1914 tại Huế, P.Albrecht có mô tả chính xác mô típ rồng trong nghệ thuật trang trí Huế [7]
****
Sử sách ghi rơ là tổ tiên ta, từ thời Văn Lang đă có tục xâm h́nh thủy quái trên thân thể để tránh tai nạn cá sấu. Có lẽ từ đó đă nảy ra truyền thuyết Rồng Tiên. Hoặc là huyền thoại có trước. Nhưng nhất định là có tương quan. H́nh thủy quái ấy ra sao th́ ta không biết, không chắc ǵ đă giống con giao long trên các di tích thời Đông Sơn.
Mô h́nh giao long sẽ biến đổi thành con rồng thời Lư, đặc sắc của dân tộc truyền sang đời Trần. Đến đời Lê th́ con rồng cung đ́nh bị ảnh hưởng Trung Quốc trong khi con rồng dân gian lại phát triển theo phong cách riêng. Vào triều Nguyễn mô h́nh rồng bị triều đ́nh chiếm hữu và, nói chung, chịu ảnh hưởng Trung Quốc. Ngày nay, nó chỉ c̣n là một đề tài trang trí, như trên bát đĩa thông dụng, và mất dần ư nghĩa tín ngưỡng hay xă hội.
Từ giao long đến con rồng hiện đại, mô h́nh đă nhiều lần biến chuyển, nhưng không nhất thiết phải theo một lịch tŕnh liên tục, đơn tuyến, v́ thường xuyên chịu ảnh hưởng thời cuộc, ngoại lai, có lúc bị áp đặt, có khi v́ giai cấp thống trị sao chép.Tuy nhiên,dù không lư luận đơn giản, chúng ta cũng có thể kết luận mô h́nh rồng phản ánh nhiều nét lớn trong lịch sử dân tộc.
Một đề tài lớn lao và lư thú, là biểu tượng con rồng Việt Nam trong toàn cảnh Đông Nam Á, và xa hơn nữa trong huyền thoại và truyền thuyết thế giới. Một đề tài như thế sẽ đối chiếu nhiều ngành khoa học khác nhau và nhất định mang lại nhiều kiến thức mới mẻ và lư thú.
Đặng Tiến Orléans, Tết Nhâm Th́n, 16.01.2012 [1] Nguyễn Tài Cẩn, báo Diễn Đàn, tháng 3-2000, Paris [2] Huỳnh Hữu Ủy, Hành Tŕnh Con Rồng qua Văn Hóa và Mỹ Thuật Việt Nam, báo Hợp Lưu, California, số 50, Xuân Canh Th́n 2000. [3] Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr. 78, 1981, Paris [4] Thái Bá Vân, Tiếp xúc với nghệ thuật, tr. 292, 1998, Hà Nội. [5] Nguyễn Đỗ Cung, Bàn về mỹ thuật Việt Nam, tr. 37, 117, 1993, Hà Nội. [6] Vĩnh Phối, Nghiên cứu Huế (nhiều tác giả), tr. 116, 1999, Huế. [7] P.Albrecht, Bulletin des amis du vieux Huê, tr 1-13, tháng1-3, năm 1915
|