Des
lisières lointaines
les cerfs ont bramé
Từ ven rừng xa
tiếng nai gào gọi
Apollinaire
Sơ thảo, gọi như vậy v́ tính cách sơ lược của bài viết.
V́ một số dữ kiện nêu lên, không chắc chắn, dù cho người viết
hết ḷng t́m căn cứ. Chung quanh Bùi Giáng có nhiều giai thoại,
dần dần trở thành huyền thoại, đồng thời với những tư liệu có
khi không hợp lư, hay mâu thuẫn, không dễ ǵ kiểm chứng.
Sơ thảo, v́ lối biên tập c̣n rườm rà, khi chúng tôi cố t́nh muốn
đưa ra nhiều tư liệu, có lúc ngoài lề, để người khác có thể men
theo và truy cứu thêm, về chuyện này hay chuyện khác.
Sơ thảo, tóm lại, không phải là lời từ tốn vào đề chiếu lệ, mà
là lời mời gọi giới văn học và độc giả cải chính, bổ sung đào
sâu hay nâng cao.
Bùi Giáng đứng tên trên khoảng 60 đầu sách, chủ yếu là 14 tập
thơ, xen kẽ 19 dịch phẩm, 6 sách giáo khoa đầu tay, phần c̣n lại
là biên khảo về triết học và thơ. Hiện nay c̣n khoảng 10 tập thơ
và nhiều văn bản dịch, chưa in.
Trên cơ bản, Bùi Giáng là nhà thơ.
*
Bùi Giáng là tên thật. Có khi sử dụng nhiều bút danh khác: Vân
Mồng, Bùi Bàng Giúi, Búi Bàng Giùi, Báng Giùi, Trung Niên Thi
Sĩ, Đười Ươi Thi Sĩ.
Ông sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926, Bính Dần, tại làng Thanh
Châu, nay đổi thành Duy Châu v́ thuộc huyện Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam
[1]
.
Thân phụ là Bùi Thuyên, tục danh Cửu Tỳ, địa chủ giàu có; thân
mẫu là Huỳnh Thị Kiền, c̣n tên là Hai. Cụ Bùi Thuyên có hai đời
vợ, bà trước là con Phạm Tuấn, là một trong năm tiến sĩ đồng
khoa 1898 cùng quê Quảng Nam, gọi là Ngũ Phụng Tề Phi
[2]
. Bà mất sớm khi hạ sinh người con thứ ba. Bà sau là cháu nội cụ
Hoàng Văn Bảng, em ruột Hoàng Diệu, phó bảng khoa 1853, Thượng
thư Bộ Binh, Tổng Đốc Hà Ninh, tuẩn tiết tại Hà Nội năm 1882. Bà
sinh được hai gái và bảy trai. Bùi Giáng là con thứ năm, kể cả
con bà mẹ trước, nên c̣n tên là Sáu Giáng.
Những chi tiết này chứng tỏ Bùi Giáng xuất thân tự một gịng họ
gia thế. Họ này gốc Nghệ An, di dân vào đây từ đời Hồng Đức
[3]
.
Nhiều người trong gịng họ này nổi tiếng như bác sĩ Bùi Kiến
Tín, sản xuất dầu khuynh diệp, kỹ sư Bùi Thạnh, hay giáo sư Bùi
Xuân Bào, gia đ́nh ra lập nghiệp tại Huế.
"Ḍng họ Bùi giàu có bậc nhất trong vùng với những sở ruộng
"c̣ bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi". Bùi Giáng trong mắt
người dân thuở đó là một trang công tử. Ḍng họ Bùi gốc ở Vĩnh
Trinh lên ngụ cư ở Trung Phước khoảng những năm đầu của thập kỷ
40. Hồi đó, ḍng họ có những căn nhà lầu đầu tiên ở xứ này.
Trong nhà của họ có rất nhiều nô bộc. Sau này, nhà Quảng Nam học
Nguyễn Văn Xuân nhận xét rằng những ḍng họ giàu có nổi tiếng ở
xứ Quảng đều sinh sống dọc hai bên triền sông, tận dụng lợi thế
"nhất cận thị, nhị cận giang"
[4]
.
Sông Thu Bồn quanh năm có lưu lượng cao, nối liền miền Thượng Du
với cửa Đại (Hội An), cửa Hàn (Đà Nẵng) và cửa Kỳ Hà (Tam Kỳ)
qua nhiều sông lớn khác. Do đó, Vương Quốc Chăm đă đóng đô tại
vùng Trà Kiệu, bên sông này, khoảng thế kỷ IV. Nhờ kinh tế phồn
thịnh, dân địa phương nhiều người học hành và đỗ đạt.
Bùi Giáng sinh ra và lớn lên giữa "những dăy nhà rộng thênh
thang tường xây bằng đá"
[5]
. Thời niên thiếu giữa một thiên nhiên phong phú, nhiều sắc
thái: sông hồ, đồi núi, ruộng nương là một thiên đường mà Bùi
Giáng suốt đời hoài vọng, và gọi là cố quận. Trong
Ngày Tháng Ngao Du, ông kể: "Hồi nhỏ, tôi được
sanh ra và lớn lên trong miền quê hẻo lánh. Chung quanh có ruộng
đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy suốt tuổi thơ. Làng
tôi xưa kia có nhiều cỏ mọc, cỏ mọc từ trong làng ra ngoài
ruộng, tới những cồn, g̣, đồi núi thật xanh. Từ đó về sau, tôi
t́m kiếm măi một màu xanh không c̣n nữa v́ những trái bom và ḥn
đạn khổng lồ".
Có lẽ v́ vậy mà măi đến tuổi 71 ông mới về quê sau non 50 năm xa
cách, qua bài thơ Tâm Sự, 1996, trong Đêm Ngắm Trăng.
Về học tŕnh của Bùi Giáng, tư liệu chi tiết nhất là bài diễn
văn năm 1995 của Bùi Văn Vịnh, em ruột: "Thuở
nhỏ, anh học trường Bảo An, tại Điện Bàn, Quảng Nam. Sau đấy,
anh theo Trung học ở trường Thuận Hóa, Huế. Năm 1945, đang lớp
đệ tứ th́ gặp đảo chính Nhật, song anh kịp đậu Thành Chung
(Diplôme). Cùng năm, anh lập gia đ́nh riêng - chị qua đời ba năm
sau. Việt Minh lên, anh trôi nổi khắp các tỉnh Nam Ngăi B́nh Phú
của Liên Khu V trong vùng kiểm soát này. Cho đến 1950, khi có kỳ
thi Tú tài đặc biệt do Liên Khu V tổ chức ("đặc biệt" v́ đề thi
do Liên Khu IV gửi vào, thi xong bài thi gửi ra Liên Khu IV
chấm), anh đậu Tú tài II Văn Chương, rồi lên đường ra Liên Khu
IV, tới Hà Tĩnh, để tiếp tục vào học Đại Học. Từ Liên Khu V ra
Liên Khu IV phải đi bộ theo đường ṃn trên núi, hơn một tháng
rưỡi trời. Khi ra đến nơi, trong ngày khai giảng sau khi nghe
ông Viện trưởng Đại học đọc diễn văn, Bùi Giáng quay ngay về
Quảng Nam - với một tháng rưỡi đi bộ nữa theo đường ṃn trên dăy
Trường Sơn. Và anh bắt đầu quăng đời "Mười lăm năm chăn dê ở núi
đồi Trung Việt". Xin mở một ngoặc đơn: con số "15" được hiểu với
nghĩa tượng trưng của điển " mục dương", và anh chăn dê chứ
không ḅ hay trâu! Tháng 5-1952, gửi đàn dê lại cho... chuồn
chuồn, châu chấu, anh băng qua Huế lấy Tú tài tương đương, để
vào Sài G̣n ghi danh theo học Đại Học Văn khoa. Lần này nữa, sau
khi nh́n danh sách các giáo sư sẽ giảng dạy, anh quyết định chấm
dứt việc học ở trường của ḿnh tại đây"
[6]
.
Nhiều bài biên khảo sử dụng tư
liệu này, v́ tư cách của tác giả và những dữ kiện cụ thể được
đưa ra. Nhưng cũng có người tự hỏi: Hà Tĩnh th́ làm ǵ có đại
học? Năm 1952, th́ Sài g̣n làm ǵ có đại học văn khoa
[7]
?
Chúng tôi ḍ hỏi và đề nghị một học tŕnh khác của Bùi Giáng:
-
Tiểu học: Bùi Giáng có học
trường Viên Minh, Hội An,
-
1940 ông bắt đầu vào Trung
Học, trường Cẩm Bàng, Quy Nhơn. Trường tên như thế v́ là tên
làng của chủ trường, ông Lâm Tô Bông, người Quảng Ngăi.
-
1941-1945: Bùi Giáng ra Huế,
học trường Tư thục Thuận Hóa. Thầy là các vị Hoài Thanh, Đào
Duy Anh, Trần Đ́nh Đàn, Lê Trí Viễn...Hai ông sau là cùng
quê với Bùi Giáng. Nhà thơ khâm phục và về sau có viết bài
ca ngợi các bậc thầy này.
-
1945: Nhật đảo chính.
Ông đỗ bằng Thành Chung, thường gọi là Diplôme, sau khi thi
hỏng năm trước, và ở lại lớp Tứ Niên C.
-
1943: Bùi Giáng đọc trên báo
Bạn Đường, do Hướng Đạo chủ trương, in tại Thanh Hóa, mấy
câu thơ:
Mịt mùng một nẻo quê chung
Người về Cố Quận, muôn trùng ta đi.
Theo Bùi Giáng "đây là một niềm tương ngộ, cuộc trùng
phùng, những tao ngộ t́nh cờ trong một cuộc Hội Thoại".
Có thể xem như là khởi điểm nguồn sáng tạo văn học của Bùi
Giáng, như ông thổ lộ ở phần đầu Lời cố Quận (1972),
mà không cho biết tên tác giả câu thơ.
Tuy nhiên trước đó, trong Đi vào Cơi Thơ (1969), Bùi
Giáng có trích hai câu này trong một đoạn 4 câu trong bài
Cảm Thông (12 câu, 1940) và nói rơ là của Huy Cận. Bài
này chưa bao giờ được in ở các thi tập đă xuất bản của Huy
Cận.
-
1945: ông về quê, cưới vợ,
dọn lên Trung Phước, một làng Trung Du hẻo lánh.
Vợ ông tên Phạm Thị Ninh, trạc tuổi ông, sinh trưởng trong một
gia đ́nh công chức khá giả, ông bà Phán Trai, Hội An, ở gần Chùa
Cầu, nay c̣n người em là Phạm Văn Ḥa, 71 tuổi.
Bà Ninh qua đời năm 1948 v́ bệnh dài hạn và đẻ non, đứa con cũng
mất, tại làng Trung Phước. Người em, Bùi Công Luân, kể lại rằng
khi mất, th́ "chị không thấy mặt chồng. Anh Bùi Giáng bấy giờ
đang ở Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên ǵ đó, nghe phong thanh
anh đang đi học"
[8]
.
Chúng tôi lần theo, và được biết là giai đoạn này, Bùi Giáng
tiếp tục học tại trường Nguyễn Huệ Bồng Sơn, tỉnh B́nh Định.
Trường này không dạy đủ lớp, chỉ dạy hai trên ba năm, bậc Tú
Tài, và chỉ dạy chuyên khoa Toán Lư Hóa. Bùi Giáng có ra Hà Tĩnh
- bài Kỷ Niệm, trong tập Mưa Nguồn, làm tại Hà
Tĩnh, 1951- nhưng có thể để học tiếp ban Tú Tài văn chương, rồi
bỏ dở.
Tháng 5-1952, Bùi Giáng về thành
[9]
. Rồi vào Sài G̣n dạy học.
Học tŕnh Bùi Giáng, chúng tôi chỉ biết có vậy.
Trên cơ bản ông là người tự học và đă đạt tới một kiến thức uyên
bác, làm nhiều người ngạc nhiên và kính phục.
Chúng tôi phụ chú thêm ba điểm :
1.
Việc hôn nhân: khi trả lời một bài phỏng
vấn của báo Thời Văn, 1997, Bùi Giáng có tiết lộ: "phải thuận
theo ư cha mẹ lấy cô vợ người thành phố Hội An, suốt đời không
biết cày sâu cuốc bẫm là ǵ"
[10]
. Người em trai Bùi Công Luân xác nhận điều này trên báo Khởi
Hành số 25 đă dẫn, nói rằng hai bên không yêu nhau.
2.
Việc chăn dê: khoảng
1948, tại Trung Phước, chúng tôi tin vào kỷ niệm của ông Phạm
Văn Ḥa: "Ông anh rể tôi kỳ lạ lắm. Hồi đó ổng mua một đàn dê
khoảng 100 con và rủ tôi đi chăn cùng. Buổi sáng ông thường lùa
dê vào Giáp Nam, G̣ Om, sau đó hai anh em rủ nhau xuống khe
(suối) Le ngồi dưới bóng của các lùm tre và...đọc thơ suốt buổi.
Có những buổi ổng lang thang lên tận các quả đồi hái hoa, lá kết
ṿng thơ thẩn đeo vào cổ cho dê... " Đặc biệt Bùi Giáng rất
thương vợ. Sáng nào ông cũng vắt một bát sữa dê đem chưng lên
cho vợ uống. Tôi chẳng hiểu hồi đó ông có tâm sự ǵ nhưng chỉ
biết ông nuôi dê để chơi thôi, không thấy bán (v́ nhà rất giàu,
đâu cần tiền), cũng không thấy giết thịt v́ ông rất yêu những
con dê. Mỗi con ông đặt cho một cái tên, rất kỳ lạ.
Chuyện Bùi Giáng chăn dê nhiều người c̣n nhớ. Đấy là h́nh ảnh
một thanh niên hàng ngày lặng lẽ lùa dê vào núi, trên tay ôm một
cuốn sách tiếng Pháp dày cộp.
Quăng đời du
mục của Bùi Giáng kéo dài khoảng 3 năm thôi nhưng sau này khi
viết Nỗi ḷng Tô Vũ, thi sĩ đă đề từ "Kỷ niệm một đoạn đời 15
năm chăn dê núi đồi Trung Việt Nam Ngăi B́nh Phú". Mười lăm năm
- nhiều người cho rằng có thể Bùi Giáng lấy thời gian lưu lạc
của nàng Kiều để nói về đời ḿnh"
[11]
.
3.
Thời kháng chiến: ngày Toàn quốc Kháng
Chiến chống Pháp, Bùi Giáng đúng 20 tuổi. Vậy ông làm ǵ? chẳng
nhẽ chỉ chăn dê và làm thơ?
Bùi Giáng có đi bộ đội, thời đó là Giải Phóng Quân. Trong lúc "vui
ḷng cởi mở" ở dưỡng trí viện Biên Ḥa tháng 5-1969, ông có
kể với các Bác sĩ trong viện: "trong thời trai trẻ, đi kháng
chiến, một chiều nọ, mệt, đói, anh đang lê từ bước một với chiếc
ba lô khá nặng sau lưng, th́ vừa quẹo một đường ṃn, anh chợt
thấy một thiếu nữ thiểu số đang giặt áo bên bờ suối, anh vừa
ngừng chân th́ "Bông hoa rừng" nọ cũng vừa ngừng tay giặt, mỉm
cười với anh và niềm nở hỏi chào anh. Anh tưởng ḿnh như đang
lạc vào suối Đào-nguyên, và h́nh ảnh này vẫn không phai trong
tâm khảm anh. Đó là phần Cô em Mọi nhỏ; c̣n Hoàng hậu Nam-Phương
th́ đến với anh trên một bao thư: người mẫu nghi thiên hạ này,
sau anh có gặp lại ở Huế - lần này, người thiệt, chớ chẳng phải
là một con tem thư - nhưng thực và mộng vẫn không sai biệt."
[12]
Đoạn văn được trích dài, để quy chiếu, về một chi tiết trong
tiểu sử mà các tài liệu khác không đề cập, và trong chừng mực
nào đó giúp ta hiểu thêm về h́nh ảnh người đàn bà - rất nhiều
đàn bà - trong thơ Bùi Giáng.
*
1952 - 1960: về vùng "quốc gia", Bùi Giáng vào Sài G̣n lập
nghiệp, dạy Pháp văn và Việt văn cho nhiều trường Tư Thục: Tân
Thịnh, Vương Gia Cần...và gửi thơ đăng báo.
Ông cư ngụ tại đường Trương Tấn Bửu, nay là Trần Huy Liệu, gần
chợ Trương Minh Giảng, cùng với các em, trong một
ngôi nhà giữa vườn cây vú sữa
[13]
. Vơ Phiến, ở gần đó, thường
lui tới. Có lần Bùi Giáng chiêu đăi Đinh Hùng tại nhà, mời ăn Ḿ
Quảng, nhưng tại một căn nhà đường Dixmude, Đề Thám, theo lời kể
của Mặc Thu
[14]
.
Ḿ Quảng là món ăn quê hương mà ông tự hào và ưa thích. Có lần
tuyên bố: "ta ăn hai ngàn tô ḿ Quảng nữa ta chết "
[15]
.
Thời gian dạy học, ông đă soạn 6 cuốn sách giáo khoa, do nhà Tân
Việt ấn hành, về Bà Huyện Thanh Quan, Lục vân Tiên, Kiều (1957),
Tản Đà, Chu Mạnh Trinh, Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị (1959) chủ
yếu cho học sinh cấp hai.
1960-1975 :
1960: xuất bản Tư Tưởng Hiện Đại, biên khảo về tư tưởng
phương Tây, chủ yếu là chủ nghĩa hiện sinh đang thời thượng. Có
thể xem như là sáng tác đầu tay quan trọng.
Dường như từ thời gian này ông mới học tiếng Đức, bắt đầu đọc
Heidegger, do ảnh hưởng nhóm Phật giáo Vạn Hạnh với Thượng tọa
Thích Minh Châu, Tuệ Sĩ, và Phạm Công Thiện. Hai cuốn về
Heidegger, in 1963, trích nhiều tiếng Đức.
1962: xuất bản tập thơ Mưa Nguồn, có bài làm từ 1950,
thời chăn dê. Có lẽ Mưa Nguồn là tập thơ đều tay và giá
trị nhất của Bùi Giáng. Liên tiếp, năm sau, là 4 thi phẩm: Lá
Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Màu Hoa Trên Ngàn và Sa Mạc Trường Ca.
Dường như sau đó có thời gian ông về ở chùa Phát Hội, một trung
tâm nghiên cứu Phật Học, tiền thân của Đại Học Vạn Hạnh, với
Nhất Hạnh, Tuệ Sĩ, Phạm Công Thiện,...
1965: chiến tranh leo thang. Cùng với nhóm trí thức: Nhất Hạnh,
Hồ Hữu Tường, Tam Ích,... Bùi Giáng tham gia kêu goị ḥa b́nh.
Dường như đây là hoạt động chính trị chính thức duy nhất trong
đời Bùi Giáng. Nhưng lá thư gửi René Char của Bùi Giáng chỉ nói
đến ḥa b́nh chung chung.
Thời gian này ông chủ tâm dịch sách, xuất bản 13 dịch phẩm,
nhiều nhất là Camus. Kịch bản Ngộ Nhận (le Malentendu)
xuất bản 1967, đă đăng trên báo Bách Khoa từ 1963, và Bùi Giáng
yêu thích Camus từ lâu. Dường như đôi bên có trao đổi thư từ.
1969: xuất bản 10 tác phẩm trong một năm, chủ yếu về thơ.
Đồng thời xảy ra tai nạn lớn: một hỏa tai thiêu rụi căn gác ông
ở và chứa sách, trong ngơ Phan Thanh Giản, bây giờ là Điện Biên
Phủ. Căn gác này do tu sĩ Thanh Tuệ, chủ nhà xuất bản An Tiêm,
thuê cho Bùi Giáng ở, chứa nhiều tư liệu và rất nhiều sách, Pháp,
Anh, Đức, Hán, có ghi chú. Hỏa hoạn xảy ra khoảng 3 giờ chiều,
trước đôi mắt bất lực của Bùi Giáng và Thanh Tuệ, thiêu rụi tư
liệu, bản thảo, và sách tặng của Camus, dường như có cả sách
tặng của Heidegger.
Bùi Giáng, cuồng nhẹ từ trước, nổi cơn điên, được gia đ́nh đưa
vào dưỡng trí viện Biên Ḥa đầu tháng 5-1969. Theo các bác sĩ
của viện: "Người cầm bút cô độc
này, bịnh đă chuyển từ cuồng nhẹ sang cuồng nặng"
[16]
. Không biết bệnh có di truyền
hay không, v́ thân sinh ông cũng bị cuồng nhẹ, theo lời người
địa phương "thân sinh ông Bùi Giáng là ông Bùi Thuyên, thường
gọi là Cửu Tỳ, Ông Cửu Tỳ cũng là một người ... điên, hàng ngày
thường làm bộ cưỡi ngựa bằng mo cau đi từ làng Trung Phước đến
làng Cà Tang đọc thơ, làm câu đối và đặc biệt ông này rất thích
chọc ghẹo...các cô gái có nhan sắc!"
[17]
Ra khỏi dưỡng trí viện, Bùi Giáng sống lang thang nay đây mai đó.
Từ đầu năm 1973, ông dọn về khu nội xá của Đại Học Vạn Hạnh,
đường Trương Minh Giảng, có pḥng riêng ở lầu 3. Thời gian này
Bùi Giáng thỉnh thoảng có dự những buổi đàm luận chính trị với
nhóm trí thức chủ ḥa thời đó: Nguyễn Đăng Thục, Tuệ Sĩ, Ngô
Trọng Anh,...nhưng vẫn ăn ngủ đó đây và biểu diễn nhiều tṛ lạ
mắt trong y phục thùng th́nh trên hè phố Sài G̣n. Thân hữu và
gia đ́nh vẫn ồ ạt xuất bản sách cho ông. Tạp chí Văn đă
ra một số đặc biệt Bùi Giáng tháng 5-1973, và Mai Thảo, phụ
trách tờ báo giải thích về sau: "Phải làm cái ǵ về ông. Để
ghi nhận lại".
Mai Thảo c̣n kể tiếp: "chưa biết t́m Bùi Giáng ở đâu, th́ thi
sĩ bất ngờ ghé thăm ṭa soạn. Ông chỉ c̣n là da bọc xương trong
quần áo thùng th́nh, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải c̣n thêm
cây gậy (...) Mấy tháng trước biến cố 1975, chỉ thỉnh thoảng
nghe thấy ông vẫn lang thang đây đó, một quán này, một băi hoang
kia, ngủ bất cứ ở đâu "
[18]
1975-1998: Sau 1975 bệnh cuồng trầm trọng thêm, dù rằng vẫn có
lúc ông sáng suốt. Sống nhờ bạn bè và trợ cấp của gia đ́nh từ
nước ngoài. Có lúc ở nhờ chùa Già Lam, xóm Gà, Gia Định.
Từ 1985, về ở với gia đ́nh người cháu gái, đường Lê Quang Định,
Tân B́nh, Vợ chồng người cháu giúp Bùi Giáng định cư và định tâm,
an dưỡng và sáng tác, đến ngày cuối đời. Hiện gia đ́nh này c̣n
giữ nhiều di cảo.
Từ 1992, tâm trí có phần ổn định, Bùi Giáng làm nhiều thơ trong
năm 1993. Sau đó sáng tác cầm chừng, vẫn làm nhiều thơ.
1996 về thăm lại "Cố Quận" Quảng Nam khi đă 71 tuổi.
7-10-1998 (ngày 17 tháng Tám năm Mậu Dần): Bùi Giáng mất tại Sài
G̣n v́ bị tai biến mạch máu năo.
Đêm 23-9, ông có uống rượu, trượt té và vào hôn mê sâu. Giải
phẩu tối 25-9, nhưng ông vẫn hôn mê, cho đến 14 giờ ngày 7-10
th́ qua đời.
Tang lễ được tổ chức trọng thể tại chùa Vĩnh Nghiêm. Khoảng 600
người, phần đông là thanh niên, sinh viên đến canh thức, ngâm
thơ. Một đám tang nhẹ nhàng, nhắc lời ông thường nói, để đời: "vui
thôi mà".
11-10-1998: an táng tại nghĩa trang G̣ Dưa, Thủ Đức.
Hiện nay Bùi Giáng c̣n 10 tập thơ và dịch phẩm chưa in.
Đặng Tiến
Viết cho ngày tưởng niệm Bùi
Giáng, 7-10-2003, Sơ Thu Quí Mùi
© 2003 talawas
[1]Du
khách đi thăm di tích Chàm ở Mỹ Sơn, từ quốc lộ số 1, lấy tỉnh
lộ 610 khoảng 15 km sẽ đi qua làng Duy Châu. Đi thêm 30 km sẽ
đến làng Trung Phước, nơi Bùi Giáng chăn dê, nay đổi là Quế
Phước v́ thuộc huyện Quế Sơn, phía mỏ than Nông Sơn. Cả hai làng
đều nằm bên sông Thu Bồn, bờ bên này và bên kia.
[2]Năm
người theo thứ tự là: Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn, Ngô
Truân và Dương Hiển Tiến. Ngoại trừ Phan Quang huyện Quế Sơn,
bốn người kia đều thuộc huyện Diên Phước, nay là Điện Bàn.
[3]Bùi
Tấn, Chớp Biển, Sài G̣n, Anaheim 1996, tr. 35.
[4]Nguyễn
Minh Sơn, báo Người Lao Động, số Xuân Quư Mùi 2003, TPHCM.
[5]Bùi
Công Luân (em ruột Bùi Giáng), báo Khởi Hành, số 25, tháng
11/1998, tr. 27, California.
[6]Bùi
Văn Vịnh, trong Chớp Biển, sdd, tr. 90.
[7]Trường
Đại Học Văn Khoa, Sài G̣n, có từ 1958. Trước đó, có lớp Văn dạy
tại Đại Học Sư Phạm, 1956. Khoa trưởng cả hai trường thời đó là
G.s Nguyễn Huy Bảo, mà Bùi Giáng tỏ ḷng ngưỡng mộ, như đă tuyên
bố ở trang 17, báo Thời Văn, 6-1997, Sài G̣n.
Tại Khu IV, khoảng 1948, chỉ có lớp dự bị Văn Khoa, 7 sinh viên
học với g.s. Đặng Thai Mai, Quần Tín, Thanh Hóa, và g.s. Cao
Xuân Huy, Diễn Châu, Nghệ An. Cụ Huy là thầy Bùi Giáng môn Pháp
văn, tại trường Thuận Hóa, Huế.
[8]Bùi
Công Luân, trong Chớp Biển, sđd, tr. 15, có đăng lại trên báo
Khởi Hành, số 16 tháng 2-1998, tr. 20, California.
[9]Cùng
một thời điểm với nhà thơ Tạ Kư 1928-1979. Tạ Kư vào học trường
Khải Định 1952, Huế, học đủ ba năm cấp ba, đậu Tú Tài năm 1955.
Tạ Kư cùng quê, và ở cùng xóm, trong làng Trung Phước với Bùi
Giáng. Làng này đă trở thành một đề tài thi ca qua câu thơ Tạ Kư:
Trung Phước ơi, sông sâu dài uốn khúc,
T́nh cheo leo cao vút một con đèo.
Trong chiến tranh, một chiều mưa bên bờ sông Vĩnh Điện, nhà thơ
Tường Linh, quê ngoại ở Trung Phước, học tṛ Pháp văn của Bùi
Giáng, nh́n về Trung Phước, có câu thơ cảm động :
Thấy ǵ đâu, chỉ thấy núi mây mờ
Ḷng gọi măi tên làng xưa Trung Phước!
Nhà văn Vơ Phiến, 1986, có lời b́nh luận: "Làng Trung Phước,
ngày c̣n ở trong nước tôi chưa đến bao giờ, chính dân làng c̣n
khó về làng huống hồ người xa kẻ lạ. Từ khi xa nước, nghe nói
tới Trung Phước càng thấy mơ hồ típ tắp. Tôi đinh ninh đó là một
làng đáng tưởng nhớ, đáng mê say : dễ ǵ một ngôi làng nhỏ bé
hẻo lánh, mà có được hai thi sĩ dễ thương ngoan lành như vậy ?
Hơn nữa, ngoài Tạ Kư và Tường Linh, làng Trung Phước c̣n liên hệ
dến một thi sĩ thứ ba rất quen thuộc là Bùi Giáng, người đă từng
sống với đàn dê tại đây một thời gian thời kháng chiến chống
Pháp "
(Vơ Phiến, Văn Học Miền Nam - Thơ, nxb Văn Nghệ, tr. 3145, 1999,
California.)
Khi mộ Tạ Kư được dời về G̣ Dưa, Thủ Đức, Tường Linh có đọc điếu
văn.
Ngày nay cùng nghĩa trang với Bùi Giáng.
[10]Bùi
Giáng, tạp chí Thời Văn, số 19, tháng 6-1997, tr. 26, TPHCM.
[11]Nguyễn
minh Sơn, báo Người Lao Động, sđd.
Chúng tôi chua thêm hai điều :
a. Mười lăm năm là cái "khớp" trong đời Bùi Giáng : mười lăm
tuổi, rời thôn ấp về " thành phố " Huế, mười lăm năm sau, đất
nước chia đôi, rồi 1969, vào dưỡng trí viện Biên Ḥa, v..v...Ông
có bài thơ Mười lăm năm:
Mười lăm năm ngọn tử phù
Mù sương cố quận chín tầng tầng rơi
Linh cảm, có thể quan hệ với thân phận Thúy Kiều.
b.Tâm sự u uất: Bùi công Luân xác nhận điều này, khi Bùi Giáng
rời gia trang ở Thanh Châu miền trung du
Trung Phước chăn dê: "dường như anh muốn xa lánh trốn tránh,
thậm chí đoạn tuyệt với một cái ǵ đó. Có thể
là một quá khứ với những kỷ niệm không phai. Có thể là một đoạn
đời với nhiều băo giông c̣n âm "
Bùi Giáng có thơ:
Người điên mang một mối buồn
Chưa bao giờ biết cỗi nguồn từ đâu
(Một Lần Nàng Tiên)
[12]Thơ
Điên, nxb Ki-Gob-Jó-Ć, Thái B́nh Điên Quấc, năm Chó 70, tr. 81,
1970, Sài G̣n.
Sách do các bác sĩ dưỡng trí viện Nguyễn văn Hoài, Biên Ḥa,
thực hiện, 140 trang khổ 16x24 cm.
[13]Viên
Linh, Khởi Hành số 25 bđd, tr. 23.
[14]Mặc
Thu, Khởi Hành, số 25, tr. 25.
[15]Trần
Hữu Cư, báo Thời Văn, bđd, tr. 71.
[16]Thơ
Điên, sđd, tr. 80.
Giám đốc dưỡng trí viện là Tô dương Hiệp, con trai nhà văn B́nh
Nguyên Lộc. Bác sĩ chuyên trị Bùi Giáng và thân thiết, là Nguyễn
Tuấn Anh.
[17]Nguyễn
minh Sơn, báo Người Lao Động, sđd.
[18]Mai
Thảo, tạp chí Văn, số 26, tháng 8-1984, California, in lại trong
Hợp Lưu, số 44, tháng 12-1998, tr. 15-16, California.