Đặng Tiến

THƠ LÀ G̀ ?

 

            Dưới tiêu đề tổng quát này, chúng tôi mở đầu một loạt bài biên khảo về thơ, trên b́nh diện lư thuyết.

 

Đề tài không phải là mới mẻ ; từ thời Khổng Tử san định Kinh Thi, từ thời Aristote luận về Thi pháp đến nay, hơn hai mươi thế kỷ đă nghiêng ḿnh xuống ngôn ngữ  thi ca. Tuy nhiên, cho đến nay, những b́nh luận về thơ chỉ dừng lại ở mức cảm thụ, nghĩa là cái phần trực giác bén nhạy giúp ta linh cảm chất thơ ; thậm chí có người đưa ra những quan niệm thần bí về thơ, như nhóm Xuân Thu Nhă Tập trước đây, và một số tác giả khác hiện nay tại miền Nam.

 

Giới văn học Tây phương cũng đă lúng túng rất lâu trong việc định nghĩa thi ca. Năm 1925 trước năm Viện Hàn Lâm  họp  đại hội đồng tại Paris, Henri Bremond, trong bài diễn thuyết về « thơ thuần túy » [1] đă đưa ra một quan niệm huyền nhiệm về thơ, làm lung lạc cả thế giới khảo cứu của Pháp. Nhưng từ ấy đến nay, nếu các lư thuyết về tiểu thuyết, kịch, … không tiến bộ bao nhiêu th́ kiến thức về thơ của Tây phương đă phát triển rất nhanh ; nhất là từ hai mươi năm nay, bộ môn « thi pháp » (poétique) trở nên thời thượng, nhờ những lư thuyết thẩm mỹ nói chung, nhờ sự đóng góp của các triết gia như Heidegger, Bachelard, Sartre, … và nhất là nhờ những tiến bộ vượt bực của ngành ngôn ngữ học, từ de Saussure đến Jakobson và bộ môn nhân chủng học từ Sapir đến Lévi-Strauss. Năm 1962, Jakobson và Lévi-Strauss, mỗi người đă mang những kiến thức nghiêm túc của ḿnh để cùng giải thích bài thơ Mèo (Les Chats) của Baudelaire, có sự đóng góp của nhà ngữ học Benveniste. Bài giải thích này là bước tiến quyết định trong việc phá vỡ huyền thoại về thơ [2].

 

Tại Việt Nam 1973, có lẽ v́ hoàn cảnh, nên chưa có những biên khảo thật nhất quán và khoa học về thơ, tại miền Nam cũng như  miền Bắc. Đây là việc cần phải làm v́ ai cũng biết người Việt Nam yêu thơ và ngôn ngữ Việt Nam giàu thi tính. V́ vậy mà chúng tôi không ngại kiến thức hẹp ḥi, đưa ra một số suy nghĩ trong loạt bài sắp tới: thơ và văn xuôi khác nhau ra sao, tương quan giữa ư thơ và lời thơ, đặc tính của lời thơ, khả năng của khoa học áp dụng cho việc hiểu thơ… Để thoát ly khỏi quỹ đạo kiến thức tây phương, chúng tôi sẽ tŕnh bày quan niệm của tổ tiên ta về thơ, thi tính của ca dao, và sẽ phân tích một vài thi phẩm cổ kim của ta ; một lư thuyết về thơ chỉ có giá trị nếu ta có thể áp dụng để phân tích rất nhiều tác phẩm cụ thể, thuộc nhiều h́nh thức và thể loại khác nhau, trong nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới, như Jakobson đă đề xuất và thực hành.

 

Việc này, chúng tôi không viết thành sách, mặc dù có lời yêu cầu của một vài nhà xuất bản ; tôi chỉ muốn tŕnh bày trên báo để góp ư với nhiều giới độc giả, dù biết rằng khó tŕnh bày được toàn bộ lư luận qua dăm mười bài viết rời rạc.

 

Viết loạt bài này, chúng tôi đứng trước bốn khó khăn : thứ nhất, sự khảo cứu chỉ mới ở bước đầu ; thứ nh́, thiếu tài liệu về thơ Việt Nam, nhất là về lư luận Việt Nam xưa về thơ ; thứ ba, muốn tŕnh bày một đề tài chuyên môn bằng ngôn ngữ b́nh dị ; thứ tư, viết về thơ mà không văn vẻ th́ đọc chán, mà văn vẻ th́ giảm bớt tính khoa học.

        

Bạn đọc sẽ nhận thấy những khuyết điểm do các khó khăn nói trên tạo ra.

 

* * 

 

Trong bài đầu tiên này, chúng tôi  nêu lên nguyên lư cơ bản : Thơ khác với ngôn ngữ thường ra sao ? Vấn đề này nhà văn, giáo sư Nguyễn văn Trung, cách đây khá lâu, đă tŕnh bày mạch lạc [3] nay tôi chỉ nói lại vắn tắt và cụ thể. Ngôn ngữ nói chung, là một trong nhiều hệ thống kư hiệu, được loài người dùng làm phương tiện để truyền đạt tin tức, mệnh lệnh, tư tưởng, t́nh cảm. Mỗi từ ngữ không có giá trị tự tại, mà chỉ là công cụ để chỉ một đối tượng: con mèo, con chó chẳng hạn. Khi từ ngữ vượt khỏi công dụng thông tin ấy, để biểu hiện giá trị thẩm mỹ tự tại th́, theo Jakobson, nó có chức năng thi pháp (fonction poétique). Đó là thơ.

 

Nói khác đi, thơ là ngôn ngữ, vậy nó cũng truyền đạt một t́nh, một ư. Nhưng đặc tính không nằm trong thông điệp truyền đi, mà nằm trong vỏ âm thanh của từ ngữ được sử dụng. Ngôn ngữ thơ không chỉ là dụng cụ, mà c̣n là thể chất. Nó vừa là nội dung vừa là h́nh thức: nội dung đôi khi chính là h́nh thức của nó. Cho nên khi so sánh thơ với ngôn ngữ thường, ta có thể nói quá đi một chút như lời Jakobson : thơ là ngôn ngữ tự lấy ḿnh làm cứu cánh, trong khi văn xuôi, hay lời nói thường, chỉ là những kư hiệu bày tỏ sự vật bên ngoài. Tŕnh bày cách khác: nói, là nói cái ǵ, c̣n làm thơ, là nói để được cái thú nghe lời ḿnh nói, như chàng Trúc ở ḍng đầu truyện Đôi bạn của Nhất Linh « nói xong và nghe tiếng ḿnh nói, Trúc nhớ lại rằng câu ấy chàng đă thốt ra nhiều lần, năm nào cũng vậy.. ».

Yêu thơ là yêu  lời nói đẹp. Đẹp ở đây không nhất thiết là phải vần vè, văn vẻ.

 

Từ cuối thế kỷ 19, Mallarmé đă bảo : « làm thơ với từ ngữ, chứ không phải với ư tưởng ». Nguyễn văn Trung có tŕnh bày thêm quan niệm của Valéry, Breton, Sartre [4]. Nhưng măi đến vài mươi năm gần đây, các nhà khảo cứu mới chú tâm đặc biệt đến thơ như là một ngôn ngữ tự tại, như hội họa, như âm nhạc, chứ không phải chỉ là một công cụ. Thật ra, từ 1921, Jakobson đă chủ trương : « thơ chỉ là một ngôn đề nhắm vào biểu thức (un énoncé visant l’expession), có thể nói, vận hành trong quy luật nội tại ; chức năng truyền đạt, đặc biệt của ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ truyền cảm, bị giới hạn đến mức tối đa. Thơ dửng dưng với đối tượng của lời nói » [5] .Ông c̣n so sánh «  nếu hội họa là cách tạo h́nh bằng những chất liệu của thị quan có giá trị tự tại, nếu âm nhạc là cách tạo âm bằng chất liệu thuộc thính quan có giá trị tự tại, nếu vũ điệu tạo h́nh bằng chất liệu cử động của thân thể có giá trị tự tại, th́ thơ là cách tạo h́nh với từ ngữ có giá trị tự tại. Thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó » (la poésie est la mise en forme du mot à valeur autonome…c’est le langage dans sa fonction esthétique) [6]. Hơn mười năm sau, cũng tại Prague, ông lại định nghĩa « thơ là ǵ » và nói rơ « thi tính thể hiện ra sao ? – Thể hiện bằng cách : từ ngữ được cảm thụ như là từ ngữ chứ không phải chỉ là một kư hiệu tầm thường của sự vật được gọi tên, cũng không phải như một ̣a vỡ của t́nh cảm ; nó thể hiện bằng cách : những con chữ, và cú pháp, và ư nghĩa, và h́nh thể ngoại tại và nội tại, không phải chỉ là những kư hiệu vô vị của thực tế, trái lại những con chữ đó có trọng lượng riêng, có giá trị riêng » [7].

 

Măi về sau này, khi Jakobson được xem như bậc thầy của khoa ngôn  ngữ học thế giới, các  nhà biên khảo mới khai thác triệt để tư tưởng của ông, một phần cũng nhờ sự đóng góp của phong trào cấu trúc (structuralisme) với Lévi-Strauss.

 

Trong một ngành khoa học khác, môn nhân chủng học, Lévi-Strauss cũng đi đến một kết luận như Jakobson : « chúng ta đều thừa nhận rằng từ ngữ là những kư hiệu, nhưng giữa chúng ta, thi sĩ là những kẻ cuối cùng c̣n sót lại c̣n biết rằng từ ngữ, xưa kia, cũng là những giá trị » [8].

 

Từ quan niệm : thơ là một ngôn ngữ trong ngôn ngữ theo lời Valéry, các nhà khảo cứu xây dựng một nền khoa học mới, môn « thi pháp » (la poétique) với những quy luật chuyên môn, thậm chí ngày nay, có người không c̣n xem thơ như một lănh vực của văn chương như ta vẫn quan niệm, mà là một hệ thống kư hiệu riêng, không mấy quan hệ với văn chương : « Ngày nay, chúng ta không c̣n có thể đề cập đến sự kiện thi ca bằng cách sát nhập thơ vào lư thuyết tổng quát của văn chương, ví dụ xét thi phẩm như một phần của văn học nói chung ,(…) v́ cấu trúc của thơ không thể nới rộng đến ư niệm về văn chương » [9] .Ngược lại, có người xem thi ca như một bộ môn của ngành ngôn ngữ học, họ khảo sát lời thơ như khảo sát tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Mường… Chúng tôi chưa có điều kiện để phê phán hay áp dụng những kiến giải chuyên môn đó, mà chỉ dừng lại ở những nguyên lư tổng quát, để người đọc tham khảo.

 

                                                        ****

 

            Chúng ta thử so sánh một cách nôm na ngôn ngữ thường ngày (ngôn ngữ dụng cụ) với thơ. Ví dụ muốn châm điếu thuốc, tôi hỏi : « anh có diêm không ? » th́ đó là một câu nói thông thường, nó không có giá trị ǵ ngoài việc làm dụng cụ để tôi đốt được điếu thuốc. Tôi có thể nói một cách khác : anh có lửa ? anh có hộp quẹt ? anh có bật lửa ? anh cho tôi mồi điếu thuốc… Nói sao cũng được, miễn là đạt tới kết quả. Vậy ngôn ngữ nói chung chỉ là một phương tiện ; chỉ có thi ca mới là một ngôn ngữ riêng, tự lấy ḿnh làm mục đích. Ví dụ, cùng một câu xin lửa, mà tôi nói :

 

« Cho tôi xin chút lửa

Lửa tắt.

Cho tôi xin nước mắt

Nước mắt chua »

… 

th́ tôi không c̣n xin lửa để đốt điếu thuốc, nhen bếp cơm, mà nói để có cái thế được nói một câu đồng dao đẹp. Câu đồng dao đó tự nó là đối tượng của nó, nó không nhắm mục đích ǵ hết : Đứa bé lên năm chơi rồng rắn, th́ xin nước mắt làm ǵ ?

 

Cũng chú bé đó, khi bập bẹ tập nói, học những tiếng con mèo, con chó… để có dụng cụ chỉ hai loại gia súc nọ ; lớn lên chút nữa nó dùng từ chính xác hơn : con vện, con tam thể, để chỉ cùng đối tượng : dụng cụ ngôn ngữ của nó dồi dào hơn. Trước kia nó chỉ có một con dao, bây giờ nó có con dao bổ dừa để bổ dừa, con dao cau để bổ cau, nhưng ngôn ngữ vẫn là dụng cụ. Mai kia nó lớn lên sẽ gọi t́nh nhân là mèo, t́nh địch là chó, th́ dụng cụ thay đổi so với sự vật, như là nó dùng dao cau để rọc thư t́nh nhân và dao bổ dừa để chém đầu t́nh địch. Hai ví dụ kể trên chứng minh hai điều : Mèo, chó là ngôn ngữ dụng cụ, trong ngôn ngữ đời thường, từ ngữ (cái biểu hiện) và đối tượng (cái được biểu hiện) là hai cái khác nhau, tạm gọi cái trước là h́nh thức, cái sau là nội dung. Ta có thể dùng hai từ cùng nghĩa (mèo, con tam thể) hay một từ hai nghĩa (mèo gia súc hay mèo t́nh nhân).

 

Trong Thơ th́ khác. Chú bé bắt chước mẹ, hát nghêu ngao :

Con mèo con chó có lông

Bụi tre có mắt, nồi đồng có quai

        (Ca dao)

Hai chữ con mèo, con chó, và cả câu ca dao không có đối tượng. Ai chả biết cây tre có mắt, và nồi đồng (miền Trung) có quai ? Vậy nói ở đây, không phải là  để nói lên cái ǵ, mà để được cái thú nghe lời ḿnh nói, với một câu mà ḿnh cho là hay. Thế nào là hay, th́ lại tùy người, tùy lúc, là chuyện khác.

 

 

Các nhà biên khảo đă đi đến chỗ đồng thuận : Về lư thuyết, ngôn ngữ nói chung và văn xuôi nói riêng nhằm phục vụ một đối tượng trong đời sống hàng ngày. Thơ trái lại là một ngôn ngữ tự lấy ḿnh làm đối tượng. Về thực tế, khi đưa quan niệm này vào việc phân tích thi ca chúng ta lại phải dè dặt, v́ bài thơ là một mô h́nh phức tạp. Cái nh́n khoa học không những cần phân tích hợp lư, mà c̣n cần tổng hợp nhất quán ; lối nh́n đó là cần, nhưng chưa đủ để nắm bắt câu thơ.

Nói thơ là một ngôn ngữ tự tại không có nghĩa rằng : thơ không cần có ư nghĩa. V́ một từ ngữ, một câu bao giờ cũng có nghĩa nếu nó muốn là ngôn ngữ. Không làm ǵ có câu nói thật sự vô nghĩa.

Cũng không hàm ư rằng thơ không tương quan ǵ đến thực tế nhất là thực tại xă hội. Không thể cô lập một câu thơ, và con người với xă hội, tách nó ra khỏi đời sống. Đây là hai điểm chính yếu, ta không nên ngộ nhận.

 

Những câu thơ ta cho là hay, dễ nhớ vẫn là những câu có nghĩa, có ư, có t́nh. Ở tây phương, đă có nhiều trường phái chủ trương thơ vô nghĩa, đều bị bế tắc. Câu thơ phải có nghĩa mới là câu nói, mới làm ta chú ư. Ta có chú ư rồi mới thấy hay, càng đọc càng thấy hay, lâu ngày nhớ lại vẫn thấy hay. Nhưng câu thơ hay đó tuy có ư nghĩa, nhưng không hay v́ ư nghĩa, mà hay v́ hơi nói, giọng nói. Khi câu thơ hay v́ ư nghĩa th́ nó có cái hay của văn xuôi (beauté prosaique), như một lời văn hoa mỹ, một lời nói khéo, ví dụ câu này của Hàn Mạc Tử:

Sao bông phượng nở trong màu huyết,

Nhỏ xuống ḷng tôi những giọt châu.

 

Câu thơ này dịch ra tiếng nước ngoài không khó, v́ nhiều tu từ pháp, tiếng nước nào cũng có sẵn.

Nói khác đi, tương quan lời/ư, cái biểu hiện/cái được biểu hiện, (signifiant/signififié) bị đảo lộn : trong lời nói thường và văn xuôi, lời là phương tiện của ư, “được ư phải quên lời, như được cá quên nơm” (Trang Tử). Trong thơ, ư là phương tiện của lời trên hai phương diện : trong cấu trúc, ư nâng lời, tạo tương quan cho từ ngữ ; ngoài cấu trúc ư làm môi giới giữa lời thơ và người đọc, người nghe. Câu thơ không có ư th́ không có xương sống và không có độc giả, thơ không ư “như thuyền không lái, như ngựa không cương”, nhưng lái không phải là thuyền, cương chỉ là thành phần không chính yếu của ngựa. Thơ hay không phải tại ư, như ngựa thiên lư không phải nhờ vào giây cương, cho dù giây cương là cần thiết. V́ vậy mà thơ xưa từ Đông sang Tây, quay chung quanh các đề tài tuyết nguyệt phong hoa. Điều chính yếu trong thơ không phải là nói cái ǵ, mà là nói ra sao.

V́ trong thơ, ư là phương tiện của lời, nên người b́nh giảng thơ cần đặt lại chính xác quan hệ nội dung và h́nh thức. Nhất là khi b́nh giảng thơ trong nhà trường. Các thầy giáo, cô giáo từ bậc tiểu học phải biết dạy thơ. Con em lớn lên mới biết yêu thơ, xă hội mới có thơ hay. Và đời sống con người tinh tế hơn.

 

Theo lối  giảng thông thường của sách giáo khoa, th́ nội dung của bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến là việc đi câu cá mùa thu. Đúng không ? dụng tâm của Nguyễn Khuyến khi làm bài thơ ấy có phải là để kể chuyện đi câu ? hay ông chỉ mượn việc đi câu, mượn luôn cả cảnh ao thu, để làm một bài thơ đẹp ? Phái duy lư có thể bẻ lại : Nguyễn Khuyến làm bài thơ đó để nói lên tâm hồn kẻ sĩ ; v́ tâm hồn cao đẹp nên bài thơ hay. Nghe không ổn, v́ có phải thánh nhân đều là thi sĩ cả đâu. Và bao nhiêu thi sĩ Tư Mă Tương Như, Baudelaire chẳng hạn, là kẻ tầm thường, có khi c̣n tội lỗi. Vả lại, anh thích bài thơ đó, v́ anh thích đi câu,  anh thích mùa thu, hay v́ bài thơ đó hay ? Tóm lại,  nội dung của bài thơ Thu điếu là bản thể của lời thơ, h́nh thức của nó là ao thu, phương tiện của nó là đi câu.

 

Nói như thế có vẻ nghịch với lẽ thường. Nhưng chính thơ là ngôn ngữ nghịch với lẽ thường. Vầng trăng làm sao mà “sẻ làm đôi” được ? Làm sao có thể “gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao” được ? Thi sĩ là kẻ phá vỡ tương quan của ư tưởng và thay thế vào đó tương quan của từ ngữ. Sự hoán chuyển phương tiện – mục đích, vẫn thường xảy ra trong thực tế ; trở lại với thí dụ đi câu : con rô con diếc là đối tượng của bác thợ câu, nhưng là phương tiện của ông Lă Vọng, đi câu là để đi câu. Cô hái chè lúc vươn tay th́ cành chè là đối tượng ; cô đứng chụp h́nh, tay vươn cành chè, th́ cành chè là phương tiện để cô có bức h́nh đẹp. Cô đứng tự nhiên th́ bức h́nh không tự nhiên, phải giả vờ vin vào cái ǵ đó th́ bức h́nh mới tự nhiên. Ngôn ngữ thơ cũng vậy : nói tự nhiên, th́ không ra thơ, phải nói một cách nào đó th́ mới là thơ. Những câu thơ “tự nhiên thiên thành”, cũng tự nhiên một cách nào đó, trong một bối cảnh nào đó.

 

Bảo rằng thơ là cách nói, thi sĩ làm thơ để làm thơ, như kẻ đi câu để đi câu, không cần cá, phải chăng là từ chối mọi quan hệ giữa thơ và thực tế xă hội ? Không phải vậy, những thi sĩ lớn cũng như những lư thuyết gia ngày nay, không c̣n mấy ai chủ trương h́nh thức vị h́nh thức.

Thơ có đặc tính riêng, nhưng vẫn bắt nguồn từ xă hội và phục vụ xă hội. Bắt nguồn và phục vụ bằng cách nào th́ tùy hoàn cảnh cá nhân, hoàn cảnh xă hội, và tùy chế độ chính trị, xưa cũng như nay.

Thơ bắt nguồn từ thực tế v́ phải sử dụng ngôn ngữ hàng ngày dù để chế biến, xáo trộn,  v́ ngôn ngữ vốn là phản ánh của đời sống. Thơ lại sử dụng những t́nh ư của con người, th́ dù muốn dù không cũng phản ánh xă hội. Những thi phẩm lớn của ta, như Kiều, Cung Oán, Chinh Phụ Ngâm, đều mang ít nhiều đặc tính của xă hội. Gần chúng ta hơn, những nhà thơ tiền chiến “mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây” gặp lúc kháng chiến cũng đă “đốt cháy trong ḷng ḿnh những phong cảnh cũ” như lời Nguyễn Tuân, để chiến đấu và sáng tác. Gần hơn nữa, nhà thơ say Vũ Hoàng Chương đă từng sống giữa ḷng đời như  “cắm thuyền sông lạ”, năm 1963, đă đốt lên ngọn Lửa Từ Bi hùng tráng để soi sáng cho cuộc đổi thay xă hội.

Và nh́n chung thơ Hy Lạp, thơ Tàu, thơ Tây đều mang đặc tính xă hội.

 

Thơ không những chỉ phản chiếu tiêu cực mà c̣n ảnh hưởng tích cực đến tâm hồn con người. Bỏ qua quan niệm “thi dĩ ngôn chí” và “văn dĩ tải đạo”của nhà Nho, bỏ qua luôn quan niệm thơ phải phục vụ trực tiếp quần chúng, chúng ta vẫn gặp những nhà thơ lớn ca ngợi giá trị đạo lư của nhân loại từ Khuất Nguyên qua Đỗ Phủ, cho đến Nguyễn Trăi, Nguyễn Khuyến. Những tác phẩm được truyền tụng là những bài  Quy Khứ Lai Từ của Đào Tiềm, thơ lánh đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm. C̣n thơ xu phụ quyền thế của 28 v́ sao trong Tao Đàn th́ không mấy ai biết tới. Trong khuôn khổ của xă hội phong kiến và tư tưởng nho giáo khe khắt, thơ vẫn không chịu g̣ bó trong  tam cương ngũ thường, mà vươn tới cái đạo lớn của nhân loại, ca ngợi cái hùng, cái vĩ, bênh vực kẻ yếu, tố cáo bất công. Khi nói đến t́nh yêu trai gái, thơ gạn lọc t́nh cảm, cho nên những đoạn Kinh Thi ướt át nhất vẫn ngay thẳng như lời Khổng Tử. Bản chất thơ phải “tư vô tà”, đó cũng là một đặc tính chung cho  các bộ môn văn nghệ khi vươn lên làm văn hóa, văn minh.

 

V́ thế ngày nay tại các nước công nghiệp tiên tiến, thơ vẫn là một bộ môn quan trọng trong chương tŕnh giáo dục, nhất là cấp tiểu học. Trẻ em học thơ để yêu tiếng nói, rồi từ đó yêu quê hương, loài người và cuộc sống.

Dân tộc Việt Nam vốn yêu thơ, thưởng thức thơ từ lúc nằm nôi, nếu thi ca đóng đúng vai tṛ của nó dĩ nhiên là sẽ có tác dụng rộng lớn.

 

Để kết luận, xin mượn lời Jakobson : “ Thi ca, so với những giá trị xă hội khác, tuy không vượt bực, không lấn lướt, vẫn là thành tố cơ bản của ư thức hệ, luôn luôn quy về một đối tượng. Thơ giúp ta khỏi trở thành máy móc, bảo vệ chúng ta chống lại sự han rỉ đang hăm dọa những công thức về t́nh yêu và thù hận, về phản kháng và ḥa giải, về đức tin và phủ nhận [10].

 

Về những đóng góp của Jakobson xin đọc bài tiếp theo.

 

  

Đặng Tiến

Dieppe, 7-1973,

đọc lại, Orléans 12- 2008

 

------------------

 

Phụ chú 12-2008

Sách chuyên đề tiếng Việt sau 1973 , đă xem lại :

 

-         Hà Minh Đức : Thơ và mấy vấn đề…. 1974

                                     Một thời đại trong thơ ca 1996,

                                     và nhiều sách khác

-         Phan Cự Đệ : Phong trào thơ mới 1982,

           Văn học Việt Nam 2004

-         Phan Ngọc : Phong cách Nguyễn Du 1985,

-                              và nhiều sách khác.

-         Nguyễn Phan Cảnh : Ngôn ngữ thơ 1987

-         Nguyễn Hưng Quốc : T́m hiểu nghệ thuật thơ 1988

                                                Nghĩ về thơ 1990

-         Mai Ngọc Chừ : Vần thơ Việt Nam 1991

-         Nguyễn Xuân Kính : Thi pháp ca dao 1992

-         Lê Đ́nh Kỵ : Thơ mới...  1993

-         Thụy Khuê : Cấu trúc thơ 1995

-         Nguyễn Bá Thành : Tư duy thơ 1996.

-         Hữu Đạt : Ngôn ngữ thơ Việt nam 2000

-         Trần Đ́nh Sử : Văn học và Thời gian, 2001.

-         Trần Đức Các 1995 ; Nguyễn thái Ḥa 1997; Phan Diễm Phương 1998,

           về thi pháp trong văn học dân gian

 


 

[1] Bremond, La Poésie Pure, nxb Grasset, Paris 1926

[2] Tạp chí L’Homme, số II, 1,1962, in lại trong Questions de Poétique, Roman Jakobson, nxb Le Seuil, Paris, 1973, tr. 401-419.

[3] Nguyễn văn Trung, Lược Khảo Văn Học, cuốn 2, Nam Sơn xuất bản, 1965, tr. 72-82. Sà́ g̣n

[4] Sđd, tr. 16-34.

[5] In lần đầu tại Prague, 1921, in lại trong Questions de Poétique, Sđd, tr. 14, và trong tạp chí Poétique, số đặc biệt về Jakobson, Paris, 7-1971, tr.290.

[6] Jakobson, Questions …, sđ d, tr. 16 ; tạp chí Poétique ,s đ d tr.290. Tôi chỉ chú nguyên văn những đoạn chính.

[7] Jakobson, Co-je poésie, Prague 1933-1934, in lại trong Poétique, sđd, tr. 308, và trong Questions de Poétique, sđd, tr. 124.

[8] Levi-Strauss, Anthropologie Structurale, tr 70, Plon, Paris 1958, Claude Lévi-Strauss nói « cuối cùng sót lại… xưa kia » v́ muốn truy nguyên nguồn gốc và cơ cấu của ngôn ngữ, qua cơ cấu tổ chức thị tộc và hôn nhân các xă hội cổ sơ của Phi Châu, Nam Mỹ, v́ theo ông liên hệ thị tộc và hôn nhân cũng là ngôn ngữ. Chữ « giá trị » ông dùng theo nghĩa đơn vị để trao đổi.

[9] A.J.Greimas, Essais de Sémiotique Poétique, nxb Larousse, Paris 1962, trang đầu.

[10] Questions de Poétique, Sđ d, tr. 125.

 

Thơ, Thi pháp và chân dung

Trang Đặng Tiến

art2all.net