Hoàng Huy Hoàng Phước Quyến
TRƯỜNG QUỐC
HỌC
Các
đồng môn Quốc Học Huế 1959 - 1962 sẽ tổ chức “Quốc
Học 50 Năm Gặp Lại”
vào hạ tuần tháng 4 năm 2012 tại San Jose, đă là một học sinh Quốc Học Huế nên
góp bài vào Đặc San phát hành dành cho dịp vui này.
Ở vào tuổi “thất thập”, hoàng hôn
đời người, có th́ giờ rănh rỗi viết lách cũng là một thú tiêu khiển hữu ích cho
tuổi già, song viết ǵ đây? Trường Quốc Học Huế có một bề dày lịch sử 116 năm
(1896-2012) trong khoảng thời gian dài đó đă có biết bao thế hệ học sinh ra vào
cổng trường này, đă có người làm nên lịch sử, có người dùng văn tài trí tuệ đóng
góp tô điểm văn hóa xă hội nước nhà cận và hiện dại. Trong khi đang băn khoăn
chợt nhớ đến hai câu thơ của Vua Tự Đức:
“Đập cổ kính ra t́m lấy bóng.
Xếp tàn y lại để dành hương”
giúp định hướng bài viết.
Kỷ niệm lúc nào cũng đáng trân quí, bới lại đống tro tàn nhắc lại điều xưa cũ có
thể có người thốt lên “biết rồi khổ lắm, nói măi”, nhưng cũng có người v́ nhiều
lư do khác nhau chưa được dịp nghe biết đến, và nhân dịp này cùng nhau ôn lại
những “ngày xưa thân ái” đó, biết đâu có người bạn cũ nào đọc được, ḷng sẽ cảm
thấy vui vui v́ đă có người vẫn c̣n nhớ tới, nói hộ cho… ḿnh.
Qua lịch sử cho thấy nước ta có một nền văn hóa lâu đời rập khuôn theo Trung Hoa,
Tam giáo đồng tồn Nho Thích Lăo ḥa quyện vào nhau làm nên bản sắc riêng của văn
hóa Việt, trong đó Tam Cương của Nho Giáo nắm vai chủ đạo làm giềng mối cho xă
hội: Quân-Thần Phụ-Tử Phu-Phụ”, chính tinh thần nho giáo này sản sinh ra các sĩ
phu yêu nước lănh đạo các phong trào Văn Thân Cần Vương chống Pháp gây nhiều khó
khăn trong tiến tŕnh xâm lăng và b́nh định. Ḥa ước Patenôtre 1884 đặt Việt Nam
ḥan ṭan dưới sự thống trị của thực dân Pháp, chính sách cai trị được thể hiện
rơ qua lời Thống Sứ Paul Bert (*): “Khi một dân tộc v́ một lẽ nào đó đă đặt
chân lên lănh thổ của một dân tộc khác th́ có ba việc : Tiêu diệt kẻ bại, nô lệ
họ một cách nhục nhă, hoặc đồng hóa họ theo ḿnh” (Việt Sử Toàn Thư
của Phạm văn Sơn). Giai đọan xâm lăng vũ lực đă hoàn tất, bước tiếp theo là xâm
lăng văn hóa ổn định xă hội bảo đảm nền thống trị củng cố chính quyền thực dân.
Muốn đạt được như vậy phải phá bỏ văn hóa chữ nho cũ, phổ biến văn hóa mới nhằm
đồng hóa dân Việt với loại văn tự có mẫu tự la tinh, dùng tiếng Pháp và chữ quốc
ngữ (**), đào tạo lớp người mới đọan tuyệt văn hóa ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa,
nhào nặn các thế hệ sau đi theo văn hóa phương tây để phục vụ mẫu quốc. Trần Tế
Xương đă để lại dấu ấn xă hội lúc đó qua các bài thơ của ông.
Trên ghế bà Đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông Cử ngẩng đầu rồng
......
Nào có ra ǵ cái chữ nho
Ông Nghè ông Cống cũng nằm co
Sao bằng đi học làm ông Phán
Tối rựơu sâm banh, sáng sữa ḅ
.......
Nghe nói khoa này sắp đổi thi
Các thầy đồ cố đỗ mau đi
Dẫu không bia đá c̣n bia miệng
Vứt bút lông đi giắt viết ch́
Trong thời kỳ phôi thai, Pháp thiết lập vài trường làm ṇng cốt của hệ thống
giáo dục phổ thông mới đảm trách chiến lược trồng người mới cho các thế hệ kế
tiếp. Năm 1867 Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp sau khi Cụ Phan Thanh Giản
giao nốt ba tỉnh miền tây. Bảy năm sau (1874) Pháp lập trường Chasseloup-Laubat
nay là Lê Quí Đôn ở Ság̣n. Năm 1879 lập trường Collège de Mytho, thường
gọi trung học Le Myre de Vilers nay là Nguyễn đ́nh Chiểu. Mười hai năm sau khi
đặt xong nền bảo hộ ở Trung và Bắc kỳ, năm 1896 lập trường Quốc Học Huế. Năm
1905 lập trường trung học Collège du Protectorat tức trường Bưởi Hà Nội. Các
trường này khi mới mở chỉ có bậc tiểu học, sau mới giảng dạy đến các bậc cao hơn.
Ở Trung Kỳ có ba trường đều mang tên Quốc Học đưọc mở vào những thời điểm khác
nhau: Quốc Học Huế, Quốc Học Vinh và Quốc Học Qui Nhơn.
Trường Quốc Học Huế là trường đầu tiên có một lịch sử lâu dài nhất ở xứ bảo hộ
so với các trường khác. Năm 1896 vua Thành Thái ra chỉ Dụ “Trẫm đă xét kỹ lời
tŕnh tấu. Vậy nay giáng dụ chỉ thành lập một trường lấy tên là "QUỐC HỌC" (xem
chỉ Dụ đính kèm) chỉ có bậc Tiểu Học do ông Ngô Đ́nh Khả làm Chưởng Giáo, Ông
Nguyễn Văn Mại làm Phụ Tá Chưởng Giáo, Trường có tên École Primaire Supérieur
(Cao Đẳng Tiểu Học) chủ yếu dạy tiếng Pháp, thứ yếu là chữ Quốc Ngữ và chữ nho.
Từ năm 1902 chức Chưởng Giáo phải giao lại cho ngướ Pháp nắm giữ măi tơí 1945
mới chấm dứt do Nhật thay Pháp thống trị.
Cổng trường Quốc
Học ngày thành lập tầng trên có gác chuông
Khởi thuỷ trường được đặt tại trại thủy quân cũ của Nhà Nguyễn gồm hai dăy
nhà tranh cột gỗ, năm 1911 bị hỏa hoạn cháy rụi. Năm 1915 trường được xây dựng
lại bằng gạch lợp ngói cơ bản giống như hiện thấy, được nâng lên thành Collège
de Quốc Học dạy cấp hai gồm Thất Lục Ngũ Tứ. Tới năm 1936 trường mở rộng cơ sở
tuyển thêm cấp ba gồm các lớp Đệ Tam, Đê Nhị, Đệ Nhất, trường chính thức mang
tên Lycée de Khải Định cho đến năm 1946. Dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim,
trường được Nhật cho mở cửa trở lại, bỏ tiếng Pháp, ông Phạm Đ́nh Ái là Hiệu
Trưởng người Việt đầu tiên của trường, các lớp học phải chuyển vào Đại Nội. Năm
1946 Pháp tái chiếm Huế, toàn quốc kháng chiến chống Pháp bắt đầu, dân chúng tản
cư, trường tách ra làm hai, một phần ở lại Huế một phần di chuyển ra Bắc, các
lớp Thất Lục Ngũ Tứ đóng tại Hương Khê Hà Tĩnh có tên trường B́nh Trị Thiên, các
lớp Đệ Tam Nhị Nhất đóng tại Đức-Thọ Hà-Tĩnh mang tên trường Huỳnh Thúc Kháng (hậu
thân Quốc Học Vinh sau này). Sau hồi cư các giáo sư c̣n lại hợp với một số ít
người trong nhóm ra Hà Tĩnh quay về Huế phục hoạt trường Khải Định, thầy Phạm
Đ́nh Ái tiếp tục ra Bắc đến năm 1952 mới trở lại Huế, các Hiệu Trưởng kế tiếp:
Phạm văn Nhu (1947-1948),
Nguyễn Hữu Thứ (1948-1950)
Hùynh Ḥa (1950-1954)
Nguyễn văn Hai (1954-1956)
Nguyễn Đ́nh Hàm (1956-1958)
Trong buổi đầu tái họat động quí vị Hiệu Trưởng hẳn chắc phải
vất vả rất nhiều,
dồn mọi tâm huyết đối phó với việc thiếu trường ốc v́ cơ sở Khải Định đang bị
quân đội Pháp chiếm làm nơi đóng quân, phải mượn trường Thượng Tứ, Lê Lợi, Việt
Anh (Nguyễn Tri Phương). " Giữa năm 1948, được tá túc chia một nửa cơ ngơi
của trường Đồng Khánh. Khải Định được phân nửa nằm ở phía tây con đường đi từ
cổng chính đến sân chơi (préau). Học tṛ của Khải Định đi học, đi vào cổng chính,
nhưng chỉ được đi theo con đường đó một đoạn ngắn mà thôi. Qua khỏi văn pḥng
hiệu trưởng là phải rẽ vào con đường nhỏ đi thẳng đến dăy lầu lớp học. Học tṛ
của Đồng Khánh đi học, đi vào cổng bên, phía dinh Phủ Doăn, qua khỏi cổng là đến
ngay dăy lầu lớp học đối diện. Như vậy, con đường biên giới giữa hai ngôi truờng,
trừ phần ngoài cổng chính đi vào, không một học sinh nào được phép đi lại. Sáng
sáng, vào giờ tựu trường, chỉ thấy thầy hiệu trưởng Nguyễn Hữu Thứ thong dong
đạp chiếc xe đu-ra bóng lộn từ cổng chính tiến vào, theo con đường biên giới đến
cột cờ, từ từ rẽ sang phải, đi về pḥng giáo sư, và trăm lần như một, xe thầy
c̣n xa mới tới bậc thềm đă thấy bác Tôn tùy phái văn pḥng chạy ra đỡ lấy xe
mang vào bên trong. Đây là màn show rửa mắt buổi sáng quen thuộc của bọn học tṛ
con trai chúng tôi.”(BS Hồ văn Châm kể)
Ngày 29 tháng 4 năm 1955 quân Pháp rút đi trả lại cơ sở trường Khải Định cho
chính quyền Việt Nam, trường được mang tên Ngô Đ́nh Diệm dưới thời Bộ Trưởng
Quốc Gia Giáo Dục Nguyễn Dương Đôn, thầy Nguyễn Đ́nh Hàm làm Hiệu Trưởng (trong
sân cờ của trường lúc tôi học có thấy dựng một bia nhỏ đánh dấu sự kiện này,
không rơ ngày nay c̣n không). Tên Trường Ngô Đ́nh Diệm chỉ hiện hữu trên giấy tờ
chưa dựng bảng lên cổng trường, (đang trong quá tŕnh cân nhắc chăng?). Có lẽ
Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cảm thấy không ổn v́ trường đă do thân phụ ông, cụ Ngô
Đ́nh Khả, làm Chưởng Giáo đầu tiên nên ông ra Quyết Định lấy lại tên Quốc Học.
Thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Đ́nh Hàm là người lo toan sắp xếp tổ chức lại từ một nơi
đóng quân trở thành trường học qui cũ khang trang không phải là việc đơn giản,
công lao của những người góp tay trong quá tŕnh phục hoạt lại trường phải được
các thế hệ hậu sinh ghi nhớ. Trường mang tên TRƯỜNG QUỐC HỌC từ 1957 cho tới
ngày nay.
Nóí về Trường Quốc Học mà không nói đến Trường Đồng Khánh là một thiếu sót lớn.
Lễ dặt đá xây dựng trường ngày 15 tháng 7 năm1917 dưới sự chủ tọa của vua Khải
Định. Từ 1919 đến 1955 trường mang tên Cao Đẳng Tiểu Học Đồng Khánh, sau năm
1955 mới trở thành Trung Học Đồng Khánh chỉ có Đệ Nhất Cấp, lên Đệ Nhị Cấp phải
qua Quốc Học măi cho đến sau 1963 trường mớí có đủ các lớp Đệ Nhị Cấp, từ đó
không c̣n thấy bóng hồng thấp thoáng trong sân Quốc Học nữa.
Cụm từ Quốc-Học Đồng-Khánh luôn đi liền bên nhau, phải chăng
định mệnh đă khiến hai trường gắn bó với nhau? Này nhé: hai trường đều nằm trong
khu đất trại thuỷ quân Nhà Nguyễn, cùng nh́n ra sông Hương chỉ cách nhau một con
đường nhỏ, đường Nguyễn Trường Tộ, hai trường đều quét vôi màu hồng đậm, học
sinh hai trường cùng đi trên một con đường râm mát bóng cây, cùng xuôi Đập Đá về
Vĩ Dạ, chợ Cống, qua cầu Trường Tiền hay ngược Dă Viên lên Cầu Ḷn qua Kim Long,
hoặc cùng đợi ở bến đ̣ Thừa Phủ để vào Thành Nội về Gia Hội... đó là cơ hội tốt
cho t́nh yêu thuở đầu đời chớm nở sẽ đâm hoa kết trái về sau. Như đă thấy có
thời gian Quốc Học phải nương nhờ Đồng Khánh, ngược lại lên Đệ Nhị Cấp th́ Đồng
Khánh phải núp bóng Quốc Học v́ vậy hai trường có nhiều liên hệ t́nh cảm, đă để
lại măi măi về sau nhiều chuyện t́nh đẵm nước mắt, cũng như tràn đầy hạnh phúc….Hồi
tưởng lại ḷng đầy thương cảm vợ chồng Thầy Văn Đ́nh Hy, Giám Học Quốc Học và Cô
Đặng Tống Tịnh Nhơn, Hiệu Trưởng Đồng Khánh. Bất cứ người Huế nào lúc đó cũng
thèm thuồng hạnh phúc đẹp đôi của họ.
Cùng năm 1917, tại Hà Nội được lập một trường Đồng Khánh bên cạnh Hồ Gươm, năm
1948 đổi thành trường Trưng Vương. Tại Sàig̣n năm 1915 lập trường nữ Tiểu Học
mặc áo tím nên thường được gọi là Trường Áo Tím, năm 1922 nâng lên Trung Học gọi
Collège de Jeunnes Filles tức Gia Long sau này.
Trường Quốc Học Vinh ( Collège de Vinh) được lập năm 1920 tại thành phố Vinh
tỉnh Nghệ An. Hiệu Trưởng đầu tiên là ông Pihet. Người Việt Nam đầu tiên làm
Hiệu Trưởng là ông Vũ Đức Thân, người cuối cùng là ông Nguyễn Ngọc Cầu từ
9/1949-9/1950. Năm 1943-1944 trường được đổi tên thành Trường Nguyễn Công Trứ.
Quân Trung Hoa lấy trường Nguyễn Công Trứ làm nơi đóng quân nên đầu năm học 1945
- 1946 học sinh phải học ở dinh Đốc học trong thành Vinh. Sau tạm ước 6-3-1946
quân Trung Hoa rút về nước học sinh lại trở về trường cũ học cho đến hết năm học
1945 – 1946, niên khóa 1946 - 1947 chỉ học được vài tháng th́ toàn quốc kháng
chiến bùng nổ, chính sách “tiêu thổ kháng chiến” đă phá hủy trường hoàn toàn. Cơ
sở Trường Quốc Học Vinh không c̣n tồn tại, hiện nay Trường Huỳnh Thúc Kháng là
hậu thân của Quốc Học Vinh. (Theo Phan Trọng Báu-văn hóa Nghệ An).
Trường Quốc Học Qui Nhơn được nâng lên từ một trường Tiểu Học. Niên khóa
1921-1922 trường Pháp-Việt Qui Nhơn (nay là trường Tiểu Học Lê Lợi), mở thêm lớp
Đệ nhất niên, được đổi thành Trường Quốc Học Qui Nhơn (Collège de Qui Nhon). Sau
lớp này học sinh phải ra Quốc Học Huế học tiếp lên trên. Niên khóa 1924-1925
trường di chuyển đến vị trí khác (nay là khu vực Tiểu Học Lê Hồng Phong). Niên
khóa 1926-1927 trường hoàn chỉnh cấp Cao Đẳng Tiểu Học và có đủ 10 lớp từ lớp
năm lên Đệ Tứ (lớp 1 đến lớp 9). Trường có khoảng 400 học sinh người các địa
phương từ Đànẳng đến Phan Thiết và các tỉnh Tây Nguyên. Xuân Diệu, Chế Lan Viên
đă học ở đây trước khi ra Quốc Học Huế. Trong thời chiến tranh Việt-Pháp trường
bị phá hủy. Năm 1955 chính quyên mới xây dựng lại trường trên nền cũ bị thu hẹp
v́ dân chiếm dụng trong thời chiến, ngôi trường mới được xây dựng mang tên Trung
Học Cường Để. Sau 1975 trường đổi tên Trường cấp III Quang Trung. Niên học
1991-1992 trường mang lại tên Quốc Học Qui Nhơn. ( quochocquynhon.edu.vn)
Trên đây là đại lược quá tŕnh h́nh thành các trường học vào buổi b́nh minh nền
giáo dục mới trong đó có Quốc Học Huế nơi mà tôi chỉ có duyên vào ra trong ba
năm cuối của bậc Trung Học. Nhân viết về Quốc Học nên có đôi gịng về đời học
sinh với nhiều kỷ niệm đáng nhớ trong đó có thời gian ở Quốc Học, kể lại nơi đây
biết đâu “ai đó” đọc được, giúp gợi nhớ quá khứ thời học tṛ nhiều vụng dại:
“Đến nay tôi hiểu th́ tôi đă,
Làm lỡ t́nh duyên cũ mất rồi” TTKh
Sau khi ḥa b́nh lập lại tôi vào học Trường Tiểu Học Tương Lai Bồ Điền thuộc nhà
Thờ Bồ Điền do Cha Lập cai quản, giáo viên là các Soeurs (thường gọi là Chị):
chị Chiên làm Hiệu Trưởng, Chị Thái dạy lớp Nhất, Chị Ban dạy lớp Nh́. Mùa hè
1956 lên Huế thi Tiểu Học tại trường Thanh Long. Tiệm tạp hóa La Ngu trên đường
Hàng Bè ở gần cầu Đông Ba là nơi tôi mua bút mực chuẩn bị cho ngày thi Tiểu Học.
Các bạn cùng lớp c̣n nhớ tên là Trần Nhạn, Thái B́nh Minh, Vỏ Cừ, Vỏ Y, Ngô Hiệu.
Hết hè năm đó lên Huế trọ học ở đường Ô Hồ, sau mang tên đường Mạc Đỉnh Chi. Nơi
đây có Mă Ông Trạng sau lưng chùa Diệu Đế, có lẽ v́ vậy nên khu vực này nhiều
đường mang tên các danh sĩ nước nhà như đường Nguyễn Bỉnh Khiêm tức đường Đ̣ Cồn
đi thẳng đến bến Đ̣ Cồn (bến đ̣ nối liền Huế với Cồn Hến), đường Trung Bộ mang
tên Tô Hiến Thành, đường Ngự Viên đổi lại đường Nguyễn Du (không phải đường Ngự
Viên hiện nay song song với đường Diệu Đế). Niên khóa 1956-1957 là năm học đầu
tại Trường Nguyễn Du ở đường Ngự Viên, âm hưởng Ngự Viên nghe khá nên thơ v́ nơi
đây có vườn Ngự Uyển. Khi tôi đến đây Ngự Viên chỉ là một khoảng đất có tường
rào xiêu vẹo, đổ nát, cổng đi vào có mấy trụ biểu đă loang lổ v́ thời gian, bên
trong được trồng hoa màu có mấy gian nhà tôn lụp xụp, cảnh huyên náo xôn xao
ngựa xe áo quần lượt là, mùi thơm sực nức ướp hương của các cung tần mỹ nữ, màu
sắc cờ quạt áo măo cân đai của các đ́nh thần quan lại, các tân khoa trạng nguyên
bảng nhản thám hoa…đă theo gió bay xa, chỉ c̣n mây trắng bay bay trong bầu trời
xanh mông mênh….. “Bạch vân thiên tải không du du”, và tiếng gió ŕ rào qua xóm
nghèo xơ xác, ḷng xao xuyến nhớ lại bài thơ XÓM NGỰ VIÊN Nguyễn Bính đă tả về
Ngự Viên (đính kèm toàn bài):
……………………………….
Giậu đổ dây leo suồng să quá
Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng
Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá
Xóm vắng rêu xanh những lối hè
…………………………………..
Gót sen bước nhẹ lầu tôn nữ
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng nguyên
…………………………………
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
Trường Nguyễn Du lúc đó chỉ có Đệ Nhất Cấp, nam nữ học chung. Lớp tôi có khoảng
chừng bốn mươi, nữ sinh chiếm ba, bốn bàn đầu bên phải nh́n lên bảng đen. Những
tên Tôn Nữ Thu Hương, Nguyễn Thị Liên Hương, Trần thị Thanh Xuân, Nguyễn thị
Chanh, Hồ Xuân Tịnh, Nguyễn Khoa Bông, Lê Vầm, Lê Vệ, Bùi Hữu Vịnh, Nguyễn văn
Chánh, Nguyễn chánh Sáu, Lê văn Ngăn, Nguyễn văn Châu, Nguyễn thanh Châu, Nguyễn
Ngân, Nguyễn Khắc Lư... ở Đệ Thất Lục . Lên Đệ Ngũ Tứ có thêm Phan thị Hằng,
Phan thị Xuân, Nguyễn Thúy Liệu, Nguyễn Thị Kim Quyên, Trần Nhơn, Vĩnh Cao, Lê
cảnh Tuấn, Lê quang Dật, Nguyễn Hữu Thiện, Nguyễn hữu Dật, Nguyễn văn Thọ …..Tốt
nghiệp Trung Học Đệ Nhất Cấp xong có người vào trường chuyên nghiệp như Nông Lâm
Súc Bảo Lộc, Cán Sự Y Tế Huế, Nữ Hộ Sinh Quốc Gia (Sâge Femme Huế), Cán Sự Bưu
Điện Sàig̣n…Người nào học lên phải thi vào Quốc Học (đỗ hạng B́nh khỏi qua thi
tuyển), không đỗ th́ vào Trường Trung Học Bán Công Huế, trường Mê Linh, trường
Bồ Đề Hữu Ngạn..
Lên Đệ Tam Quốc Học chỉ c̣n gặp vài bạn như Trần Nhơn Ban A, Vĩnh Cao, Hồ Xuân
Tịnh ban B, Lê văn Ngăn Ban C, các bạn khác thời Nguyễn Du không c̣n gặp nữa
không rơ đi đâu. Lớp Đệ Tam B3 nằm trong dăy nhà trệt mới xây dựng dọc bờ tường
giữa Quốc Học Đồng Khánh. Các bạn mới có Lê Đức Viêm, Lê Lợi, Trần đ́nh Văn, Bùi
Thiệp có nước da ngăm ngăm đen, một cầu thủ chủ yếu của đội bóng tṛn Quốc Học (bóng
tṛn ngày nay gọi là bóng đá xem ra hợp lư hơn, chứ bóng tṛn th́ bóng nào chả
tṛn). Kỷ niệm khó quên là chuyện đá thạch anh mà Trần đ́nh Văn nhờ cô Trần Thị
Như Lưu, giáo sư vạn vật, lấy trong túi quần, và bạn Trương đ́nh Thư đi học bằng
xe gắn máy. Những giờ nghỉ giữa buổi hoặc cuối tuần Thư thường hay chở đi chơi
nhiều nơi (thời này học sinh hiếm có xe gắn máy), cuối năm Đệ Tam bạn Thư đi đâu
không rơ. Giờ ra chơi bọn Đệ Tam chúng tôi thường tụ tập dọc hành lang đối diện
với dăy nhà hai tầng có các lớp Đệ Nhất với một số ít nữ sinh Đồng Khánh học
trong đó, chỉ chỏ luận bàn lung tung ḥ reo chọc phá các đàn chị Đệ Nhất, có chị
Tương Giang con Thầy Hiệu Trưởng, đúng là nhất quỉ nh́ ma thứ ba học tṛ.
Về thầy giáo, năm Đệ Tam có Thầy Nguyễn như Truyền dạy Quốc Văn, thầy Tôn Thất
Dinh dạy Anh văn, chúng tôi đặt biệt danh “keep silence” v́ thầy luôn luôn nói
keep silence mỗi khi thầy tới lớp. Thầy Nguyễn Hữu Kiêm dạy tóan, thầy hắc ám
nhất, thầy ra tóan quá khó, phần đông 2/3 dưới điểm 6/20. Thầy lấy bài ca dao ra
biểu áp dụng đại số lập phương tŕnh để t́m số người nói tới trong đó (lâu ngày
quên bài ca dao đó), thầy luôn luôn mang tất (vớ). Thầy Trần Đ́nh B́nh dạy Lư
Hóa kiêm Giáo Sư hướng dẫn, thầy có dạy ở trường Bán Công Huế và kết hôn với
Phan thị Xuân một hoa khôi của Nguyễn Du. Thầy Đ̣an Nê dạy Pháp Văn, thầy say
sưa giảng về thời Phục Hưng (Renaissance) của văn học Pháp với giọng khàn khàn
trầm trầm nhừa nhựa, thầy hay kể nhiều chuyện vui trong văn học Pháp, chúng tôi
hay xin thầy kể tiếp, rất thích nghe (để thầy không c̣n giờ truy bài chúng tôi),
kể về thời gian vào tiếp thu ở Nam Ngăi sau hiệp định Genève, dân tới gơ vào xe
tăng rồi la lên: “ồ bằng sét (sắt) thiệt bà con ơi” v́ trong thời gian dưới
quyền cai trị của Việt Minh dân được tuyên truyền xe tăng làm bằng giấy cạc tông
(giấy bồi) đừng sợ, chuyện nh́n qua lỗ khóa.
Năm Đệ Nhị có các thầy Trần như Uyên dạy Quốc Văn, thầy Phan Khắc Tuân dạy Lư
Hóa. Thầy Tuân có mang đôi mắt kiếng khá dày, có lẽ thầy bị cận thị nặng như
thầy Đinh Qui Hiệu Trưởng. Thầy Nguyễn Đức Mai dạy Anh Văn, bên cạnh thầy luôn
có một người bạn Mỹ đi kèm, sau này có thời gian thầy được cử giữ chức Trưởng Ty
Thông Tin Thừa Thiên Huế. Thầy Bùi đ́nh Nhuận dạy Toán, thầy đẹp trai, ít cười
khi nào nét mặt cũng nghiêm, thầy đi dạy không cần sách vở cặp da ǵ cả, đi tới
lớp với hai tay không.
Các thầy năm Đệ Nhất có Bà Nguyễn Châu dạy Triết thường gọi bằng khuê danh là Cô
Lan, thầy Lê vĩnh Kiến dạy Lư Hóa, sau này thầy chuyển qua hoạt động chính trị,
liên danh của thầy đắc cử Thượng Viện, thầy Tóan vẫn thầy Nhuận, thầy Vĩnh Quyền
dạy Anh văn, thầy Lâm Tài dạy Sử Địa. Thầy Tài đi một chiếc xe hơi màu hoa lư
rất đẹp làm nhiều người mơ ước. Thầy Ngô Bút dạy Công Dân, thầy Cao Hữu Hoành
dạy Pháp Văn. Năm Đệ Nhất có các bạn Bùi hữu Vừa, Phan tử Duy, Hà thúc Thụy, Lê
văn Tiu, gia sư con gái nhà Mỹ Thắng (hoa khôi Đồng Khánh) sau du học Tây Đức,
Lê Tự Rô, Ngô văn Tường…
Thời gian này bù đầu lo học cho đậu Tú Tài I rồi Tú Tài II nếu không đậu đời sẽ
bi đát lắm, “rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ” (Tú tài trong câu nói này là Tú Tài I),
cho nên ít giao du rong chơi mà chỉ lo “dùi mài kinh sử”. Lên Đệ Nhị Cấp chỉ
rảnh năm Đệ Tam, bận nhất hai năm liên tiếp Đệ Nhị phải đậu Tú Tài I mới lên Đệ
Nhất. Thời đó Tiểu học phải thi, Trung Học Đệ Nhất Cấp cũng thi. Lúc đi thi tất
cả các môn (trừ Tóan) đều trong đầu viết lên trên giấy nên phải thuộc ḷng, cái
nóng mùa hè ở Huế mà phải học bài quá vất vả. Học sinh Quốc Học mang bảng tên
màu trắng thêu chữ màu xanh nước biển, hai đầu tên là các gạch, ví dụ: một gạch
(─ tên ─) là Đệ Tam, hai gạch chồng lên (═ tên ═) là Đệ Nhị, anh nào mang ba
gạch (≡ tên ≡) là Đệ Nhất tức là chàng ta đă có trong tay mảnh bằng Tú Tài I rồi
khỏi lo, có thể ra đời kiếm sống, nếu đi lính th́ Chuẩn Úy trong tay. Nữ sinh
Đồng Khánh tinh mắt lắm hay liếc nh́n bảng tên trước tiên khi đối diện chuyện
tṛ cho thích hợp. Mang ba gạch là oai lắm v́ là Niên Trưởng trong trường, ngoài
xă hội là ông Tú-nửa, phải học hết năm Đệ Nhất đậu được Tú Tài II mới đưọc gọi
là ông Tú, cửa vào đời rộng mở để tiếp đón, kể cả con tim của mấy nàng cũng rộng
mở. Nếu vào Đại Học Huế th́ c̣n oai hơn, con tim mấy nàng càng mở rộng hơn nhiều.
Lúc đó nh́n xuống thấy một đ̣an đàn em đông đảo, nh́n lên thấy các sinh viên Đại
Học Huế oai quá, gặp đối tượng nữ sinh xinh xắn hay nghêu ngao chọc ghẹo:
“Sông Hương lắm chuyến đ̣ ngang
Chờ anh em nhé đừng sang một ḿnh”
Năm tiếp theo vào giảng đường Đại Học Khoa Học Huế ở Morin, thử MatGén (Mathématique
générale) quá khó, xoay qua MPC (Mathématique Physics Chimie) cũng không xong v́
chiến sự ngày càng ác liệt, thanh niên phải nhập ngũ cầm súng, thế là đành “xếp
bút nghiên” theo nghiệp Hải Quân, giang hồ vùng vẫy, “giă từ Cố Đô” nổi trôi
theo vận nước lưu lạc xứ người.
Thế hệ chúng tôi hầu hết đă bị đốt cháy trong lửa đạn chiến chinh, người phía
này kẻ phía kia trở thành kẻ thù tàn sát lẫn nhau, c̣n được sống đến hôm nay quả
rất may mắn, là những hạt gạo c̣n sót lại trên sàng. Ngày nay chỉ c̣n gặp lại
một số ít người bạn học cũ đếm không hết các ngón của bàn tay. Lần trở lại thăm
Huế năm 2008, bạn bè đồng trang lứa cũ không c̣n mấy, hoặc đă chết hoặc đi nước
ngoài. Ghé qua Quốc Học, vào Đại Nội, dạo chơi bờ sông Hương, nơi nào cũng thấy
tẻ lạnh, chỉ thấy ḍng nước buồn thiu không muốn chảy, phải chăng gịng nước
đang ngậm ngùi cho cuộc bể dâu, hay cảm thông cho số phận những mái đầu xanh
thời trai trẻ đă từng soi bóng nước Hương Giang nay đă bạc màu v́ bụi thời gian
và truân chuyên trong cuộc sống? Thẩn thờ nghĩ đến quá khứ thời hoa niên, những
kỷ niệm cũ tràn về: những ngày cùng nhau đi trại ở Vạn Niên, hái dâu, ăn thanh
trà ở Nguyệt Biều, tắm sông Hương ở Lương Quán, tắm biển Thuận An, du ngọan đồi
Thiên An, Vọng Cảnh, dự lễ giỗ Cụ Ngô đ́nh Khả đầu năm âm lịch trong tư dinh ông
Cẩn ở Phủ Cam với đầy đủ các thành viên của một gia đ́nh đang nắm quyền lực, đi
xem Cầu Ngói Thanh Ṭan, Hổ Quyền, những ngày biểu t́nh băi khóa, tiếng ḥ reo
xem chừng cơ hồ như c̣n ḥa lẫn trong gió chiều vi vu trên bờ sông. Tất cả đă
lùi về quá khứ như một giấc mơ. Chuông chùa Thiên Mụ boong… boong… boong… vang
lên từng tiếng một, uể oải, thong thả ngân dài, buông lơi tan dần trong không
gian u tịch lúc chiều xuống khiến viễn khách chạnh ḷng nhớ lại những người có
duyên lành đă t́nh cờ từng được gặp gỡ trên đất Thần Kinh thưở nào nay chỉ c̣n
là kỷ niệm của một kiếp người, ḷng bâng khuâng tự hỏi:
“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”
Vũ đ́nh Liên.
Sacramento,California
Cuối Thu Tân Măo, tháng 11 năm 2011
Hoàng-Huy Hoàng Phước Quyến
____
Ghi chú:
(*) Paul Bert sinh năm 1833, xuất thân trường École polytechnique ở Paris, giáo
sư Đại học Bordeaux (1866), Sorbonne (1869), Bộ trưởng Giáo Dục (1881-1882),
tháng 1 năm 1886 được cử giữ chức Thống Sứ (resident-général) Bắc và Trung Kỳ,
nhậm chức tháng 4 đến khi qua đời tháng 11 năm 1886 tại Hànội. Pháp coi ông là
kiến trúc sư tổ chức lại thuộc địa và qui hoạch Hà Nội trước khi vua Đồng Khánh
giao Hà Nội làm nhượng địa cho Pháp.
(**) Thoạt kỳ thủy các giáo sĩ kư âm tiếng Việt bằng mẫu tự latinh tạo ra chữ
Việt v́ nhu cầu truyền giáo. Với truyền thống thông minh và quật cường của dân
tộc, các trí thức yêu nước đă biết vận dụng văn tự này góp sức chỉnh sửa phổ
biến thành chữ Quốc Ngữ chúng ta dùng ngày nay, thông qua chữ Quốc Ngữ truyền bá
văn hóa mới mở mang dân trí đưa dân tộc thoát khỏi lối học từ chương nho giáo cũ
dành độc lập cho nước nhà lại là chuyện khác ngoài dự tính của các giáo sĩ và
của thực dân Pháp. HPQ
Đính Kèm: Chỉ Dụ của Vua Thành Thái, Nghị Định của Toàn Quyền Đông Dương
và Xóm Ngự Viên của Nguyễn Bính
Tồn Nghi: Trong tài liệu này ghi “Năm Thành Thái thứ hai (ngày 17 tháng chín),
Cơ Mật Viện triều Thành Thái…”, tôi e có nhầm lẫn chăng? Theo Việt Nam Sử Lược
của Trần Trọng Kim, năm 1888 là năm Thành Thái nguyên niên, lên ngôi ngày 28
tháng 1 năm 1888, như vậy năm 1896 phải là năm Thành Thái thứ Tám, có nhiều
người viết “năm Thành Thái thứ 8 lập trường Quốc Học”. Mong BS Hồ Đắc Duy có đọc
được Tồn Nghi này nên xem lại bản gốc do thầy Châu Tăng cung cấp để chỉnh sửa v́
đây là sử liệu cần tính chính xác. HPQ
I- DỤ NGÀY 23-10-1896 :
http://h.1asphost.com/quochochue/tsQH.htm
Năm Thành Thái thứ hai (ngày 17 tháng chín), Cơ Mật Viện triều Thành Thái cung
lục "dụ chỉ" như sau :
"Muốn
cho việc giáo dục đuợc hoàn bị, không nên hạn chế học vấn trong khuôn khổ hẹp
ḥi. Trái lại, để bảo đảm cho việc giáo huấn được điều ḥa cần mở ra các lớp học
thường xuyên.
Nay ngoài những thánh kinh, hiền truyện của Trung Hoa lại c̣n nhiều sách trước
tác ở các nước khác và trách nhiệm của người đại diện phát ngôn trong lúc giao
thiệp trên trường quốc tế rất là quan trọng. Vả lại, phát triển giáo dục là
phương tiện duy nhất để mở mang trí thức, đào tạo nhân tài.
Trong t́nh h́nh hiện tại không thể xem thường những nhận xét trên đây được, bởi
v́ ở nước ta việc giáo huấn theo sách vở Khổng học, trừ trường Quốc tử giám đến
các trường công ở tỉnh tuy rất phổ thông và hoàn toàn, nhưng việc giảng cứu các
môn học tây phương đến nay vẫn c̣n nhiều thiếu sót cần phải được bổ cứu".
Trẫm đă xét kỹ lời tŕnh tấu, vậy nay giáng dụ chỉ thành lập một trường lấy tên
là "QUỐC HỌC", môn dạy chính là Pháp văn. Tuy nhiên, chương tŕnh học c̣n có môn
Hán tự nữa. Các công tử, tôn sanh, sinh viên trường Quốc tử giám cùng các học
sinh trường công các tỉnh lỵ đều có thể xin học vào trường này và được học bổng
theo lệ định với điều kiện tuổi từ 15 đến 20. Những người quá hạn tuổi, những
học sinh con nhà thường dân đều có thể được đặc cách nhận vào nếu học lực xuất
sắc.
Dụ này sẽ chuyển đạt cho qúy Toàn quyền đại thần để bổ nhiệm vị Chưởng giáo ( có
ấn kiếm) và chuẩn y những nguyên tắc đại cương của nhà trường.
Ấn kiếm làm bằng đồng đen, theo kiểu mẫu ấn kiếm của trường Quốc Tử Giám. Ấn lớn
khắc chữ lớn "QUỐC HỌC TRƯỜNG QUAN PH̉NG", tiểu kiếm khắc chữ Hán "QUỐC HỌC".
Khâm thử.
II- NGHỊ ĐỊNH NGÀY 18-11-1896 CỦA PHỦ TOÀN QUYỀN ĐÔNG DƯƠNG.
Khoản 1. Nay thiết lập tại Huế. một học đường lấy tên là QUỐC HỌC (Quốc Gia Học
Đường). Pháp văn sẽ chiếm phần lớn trong chương tŕnh dạy, tuy Hán văn vẫn được
chú ư để cho sinh viên sẽ vào ngành quan lại có thể đồng thời học hai thứ chữ.
Khoản 2. Trường Hành Nhân nay băi bỏ và trường Quốc Học thay thế.
Khoản 3. Ngoài sinh viên trường Quốc Tử Giám và trường Hành Nhân cũ, không một
sinh viên nào được nhận vào trường Quốc Học nếu không có đủ 15 tuổi.
Khoản 4. Được nhận vào trường. các công tử con hoàng thân, các tôn sanh chi
nhánh trong hoàng gia, các ấm tử hoặc những con quan được hưởng đặc quyền, sinh
viên trường Hành Nhân và sinh viên trường Quốc tử Giám.
Khoản 5. Có thể được nhận để theo học các khoa ở trường Quốc Học những thanh
niên bản xứ muốn theo đuổi học vấn và được nh́n nhận sau một thời kỳ khảo thí là
đủ tŕnh độ Hán học để theo dơi các khóa học.
Khoản 6. Những học sinh dưới 15 và trên 8 tuổi có thể được nhận học ngoại trú
vào một lớp riêng mở tại nhà phụ thuộc của trường.
Khoản 7. Ban Giám đốc trường gồm 01 chưởng giáo, 01 giáo sư hạng nhất, 01 giáo
sư hạng nh́, 01 giáo sư hạng ba, 01 giáo sư hạng tư , 01 giáo sư phụ trách các
lớp nhỏ, 02 kiểm khán viên.
Khoản 8. Chưởng giáo do Toàn quyền bổ dụng được cấp phẩm hàm đối chiếu trong
ngạch quan lại và có thể trực tiếp giao thiệp với Khâm sứ Trung kỳ, Viện Cơ Mật
và các vị Thượng Thư.
Khoản 9. Các giáo sư chỉ được phép dạy sau khi được Hội đồng do Khâm sứ Trung kỳ
cử khảo thí năng lực.
Khỏan 10. Ngoài lương bổng tính theo phẩm trật ngạch quan lại ông Chưởng giáo và
các giáo sư sẽ được hưởng phụ cấp chức vụ.
Khoản 11. Chưởng giaó, giaó sư đuợc cư trú trong trường.
Khoản 12. (chế độ nhà trường, thời biểu học, sĩ số.)
Khoản 13. Học viên. được hưởng những quyền lợi thích đáng
Khoản 14. Các khoản chi phí về nhân viên, khí mảnh, công tác xây dựng và tu bổ
trường ốc sẽ do chính phủ Nam triều đài thọ.
Khoản 15. Ông Khâm sứ Trung kỳ và Hội đồng Cơ mật chiếu nhiệm vụ thi hành nghị
định này.
Kư tên :
A. Rousseau
(Tài liệu này do thầy Châu Tăng cung cấp và Nguyễn văn Sa - Hồ Đắc Duy lược ghi
theo yêu cầu của nhóm cựu học sinh QH/61-64 )
~~oOo~~
Xóm Ngự Viên
Lâu nay có một người du khách
Gió bụi mang về xóm Ngự Viên
Giậu đổ dây leo suồng să quá
Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng
Buồn thu rơi nhẹ đôi tờ lá
Xóm vắng rêu xanh những lối hè
Khách du lần giở trang hoài cổ
Mơ lại thời xưa xóm Ngự Viên.
Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên?
Sớm Đào, trưa Lư, đêm Hồng Phấn
Tuyết Hạnh, sương Quỳnh, máu Đỗ Quyên
Cung tần mỹ nữ ngời son phấn
Theo gót nhà vua nở gót sen
Hương đưa bát ngát ngoài trăm dặm
Cung nữ đa t́nh vua thiếu niên
Một đôi công chúa đều hay chữ
Hoàng hậu nhu ḿ không biết ghen.
Đất rộng can chi mà đổi chác
Thời b́nh đâu dụng chước ḥa Phiên
Mẫu đơn nở đỏ nhà vua nhớ
Câu chuyện: "Hô lai bất thượng thuyền."
Có phải ngày xưa vườn Ngự uyển
Là đây, hoa cỏ giống vườn tiên?
Gót sen bước nhẹ lầu tôn nữ
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng nguyên
Mười năm vay mượn vào kinh sử
Đă giả xong rồi nợ bút nghiên
Quan Trạng tân khoa tàn tiệc yến
Đi xem hoa nở mấy hôm liền
Đường hoa, má phấn tranh nhau ngó
Nhạc ngựa vang lừng khắp bốn bên
Thắp hương tôn nữ xin trời phật
"Phù hộ cho con được phỉ nguyền."
Ḷng Trạng lâng lâng màu phú quí
Quả cầu nho nhỏ bói lương duyên
Tay ai ấy nhỉ gieo cầu đấy?
Nghiêng cả mùa xuân Trạng ngước nh́n.
Trạng bắt sai rồi, lầu rủ sáo
Có người đêm ấy khóc giăng lên
Bóng ai thấp thoáng sau bờ trúc
Chẳng Tống Trân ư cũng Nguyễn Hiền?
Khách du buồn mối buồn sông núi
Núi lở sông bồi cảnh biến thiên
Ngự viên ngày trước không c̣n nữa
Giờ chỉ c̣n tên xóm Ngự Viên
Khoa cử bỏ rồi, thôi hết Trạng!
Giời đem hoa cỏ trả vườn tiên
Tôn nữ ngồi đan từng chiếc áo
Dân thường qua lại lối đi quen.
Nhà cửa xúm nhau thành một xóm
Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men
Mụ vợ bắc nam người tứ xứ
Anh chồng tay trắng lẫn tay đen
Đổi thay t́nh nghĩa như cơm bữa
Khúc "Hậu đ́nh hoa" hát tự nhiên.
Nhọc nhằn tiếng cú trong thanh vắng
Nhao nhác đàn dơi lúc đỏ đèn...
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
Nguyễn Bính
art2all. net