HOÀNG THỊ BÍCH HÀ

 

 

KIỀU NỮ của TRẦN DZẠ LỮ

 

 

Nghe người gọi em chính là kiều nữ
Có nụ cười xé lụa đất thần kinh
Ta ú ớ...bởi ḿnh là cô lữ
Xa sông Hương nên dậy sóng u t́nh...

Em đài các c̣n ta kẻ lênh đênh
Răng lại ước chuyện phu thê em hí?
Đời bất toại, nên ngày về lí nhí
Câu thơ buồn bẻ mộng giữa chiều xanh

Trong điện ngọc, áo cung phi em mặc
Một sắc vàng chới với trái tim khô ?
Qua mấy cửa ta chờ! Chi lạ rứa !
Bên hoàng thành, bóng ngựa nhớ hương xưa...

Giận chiếc cầu cong cứ thả sương mù
Về chưa kịp, xót v́ mười hai nhịp...
Mỗi nhịp thương người lặng thầm, ta biết
không c̣n ai nghiêng chiếc nón bài thơ.

Không c̣n ai để gọi lúc sang mùa
Đông xám xịt, màu trăng tàn đỉnh Ngự
Em vào Nội, nghĩa là ta trấn thủ
phía không nhau, ngơ ngác kiếm cung thừa...

Cứ dáo dác kiều nữ vẻ anh thư
Khi hát hỏng câu nam b́nh thương nhớ
Con mắt ai, nhốt hồn ta trong đó
Có bao giờ tiêng tiếc gă khờ chưa?


Trần Dzạ Lữ

 


          Thi ca là nghệ thuật cao cấp, mà đă là nghệ thuật th́ rất cần cái đẹp. Một trong những vẻ đẹp tạo hóa hoàn mỹ nhất có lẽ là h́nh bóng giai nhân .Vẻ đẹp của giai nhân là nguồn cảm hứng bất tận từ bao đời nay cho tất cả các loại h́nh nghệ thuật nói chung và thi ca nói riêng. Chính v́ vậy khi bắt gặp một dáng h́nh “kiều nữ” đă gợi cho thi nhân những cảm xúc mănh liệt trước cái đẹp để dệt nên những vần thơ để đời. Vẻ đẹp Á Đông của phụ nữ Việt Nam nói chung và vẻ đẹp của phụ nữ Huế nói riêng đă làm thổn thức không biết bao nhiêu tao nhân mặc khách. Nói về cô gái Huế qua tâm t́nh thi nhân, thi sĩ Nguyễn Bính đương thời có câu:

“Những nàng thiếu nữ sông Hương
Da thơm là phấn, má hường là son”


Bài thơ KIỀU NỮ là một trong những bài thơ t́nh đặc sắc của nhà thơ Trần Dzạ Lữ. Chúng ta hăy cùng khám phá vẻ đẹp của bài thơ này.

Mở đầu bài thơ là một lời giới thiệu về một giai nhân xứ Huế:

“Nghe người gọi em chính là kiều nữ
Có nụ cười xé lụa đất thần kinh”


Kế thừa thi pháp cổ điển nhà thơ gợi chứ không tả chi tiết cụ thể mà chỉ trong một câu thơ mang tính ước lệ “Nghe người gọi em chính là kiều nữ.” Hai chữ kiều nữ ngắn gọn mà súc tích để người đọc sẽ có một h́nh ảnh người đẹp cho riêng ḿnh rất diễm lệ, “có nụ cười xé lụa đất thần kinh.” Nụ cười gịn tan trong trẻo như tiếng xé lụa. Ở đây tác giả lựa chọn h́nh ảnh so sánh, kế thừa h́nh ảnh nói về giai nhân trong thơ cổ điển. Chỉ hai câu thơ ngắn gọn h́nh ảnh bóng hồng hiện ra trước mắt chúng ta, đẹp cả thanh và cả sắc. Trước vẻ đẹp kiều diễm này có lẽ không chỉ một ḿnh thi nhân đâu mà có lẽ không ít chàng trai cũng “ Choáng váng” nói không nên lời :

“Ta ú ớ...bởi ḿnh là cô lữ
Xa sông Hương nên dậy sóng u t́nh...”


Có thể nói rằng hai câu đầu giới thiệu về một giai nhân bất ngờ gặp gỡ, c̣n hai câu tiếp theo là tự giới thiệu về ḿnh. Ta chính là một chàng trai gốc Huế “ Xa sông Hương” “nên dậy sóng u t́nh” rất phong trần và lăng mạn.

Khổ thơ tiếp theo tiếp tục với h́nh ảnh rất ước lệ : “ Em đài các”- một vẻ đẹp quư phái , sang trọng tiếp tục khẳng định thêm lần nữa vẻ đẹp diễm lệ của giai nhân xứ Huế. Câu thơ là một phép tiểu đối .” Em đài các” “ ta kẻ lênh đênh” th́ khát vọng vươn tới hạnh phúc cùng em là điều c̣n trong ao ước : “Răng lại ước chuyện phu thê em hí?” Đây là một câu hỏi tu từ. Tác giả sử dụng khéo léo và gieo vần đúng chỗ với phương ngữ Huế tạo nên nét đặc sắc rất riêng của thi nhân gốc Huế. Nhà thơ tự nói với chính ḿnh như là một phép phân thân lưỡng ngôn để đối thoại. Trước vẻ đẹp kiễu diễm ấy ai mà chẳng một lần ao ước có em trong mái ấm phu thê. Điều này có vẻ đúng với tất cả một nửa đàn ông đa t́nh trên thế giới chứ không chỉ thi nhân đâu. Huống hồ thi nhân lại là người có trai tim đa cảm và lăng mạn có thừa, th́ sóng ḷng trào dâng để dệt nên những vần thơ t́nh là điều dễ hiểu.

“Em đài các c̣n ta kẻ lênh đênh
Răng lại ước chuyện phu thê em hí?
Đời bất toại ,nên ngày về lí nhí
Câu thơ buồn bẻ mộng giữa chiều xanh”


Không phải bao giờ mọi ước muốn cũng trở thành sự thật. V́ thế mà “ Đời bất toại nên ngày về lí nhí’ Nỗi buồn chỉ nằm lại nghẹn ḷng không thể thốt nên câu và v́ thế mới có “ câu thơ buồn” “ Bẻ mộng giữa chiều xuân”. Mộng đă tan rồi giữa một giấc mơ đẹp.

Khổ thơ thứ ba với những h́nh ảnh so sánh ấn tượng tiếp tục làm bật nổi vẻ đẹp quư phái của thiếu nữ đất thần kinh. Vừa so sánh vừa có phép tiểu đối trong câu. Em điện ngọc trong chiếc áo cung phi thật sang trọng và quư phái với sắc vàng quyến rũ c̣n ta “ Trái tim khô” cảm thấy “ chới với “ trước vẻ đẹp kiều diễm này. Ta là kẻ đa t́nh mơ mộng, thi ca đă trao cho ta một sứ mệnh là chuyển tải cảm xúc vào thơ nỗi ước mong, khao khát về t́nh yêu hạnh phúc lứa đôi như bao chàng trai đa t́nh trên trái đất này! Đây là khát vọng chính đáng. Em đẹp lộng lẫy như thế th́ chỉ có nơi điện ngọc mới là chỗ xứng với em thôi. C̣n ta “ trái tim khô” lấy ǵ mà ao ước? Vậy mà ta vẫn thổn thức vẫn mong chờ “Qua mấy cửa ta chờ! Chi lạ rứa !” chính ta cũng không thể hiểu nổi ta: “Chi lạ rứa !” Tiếp tục với biện pháp tu từ là nghệ thuật làm tăng thêm sức biểu cảm cho thơ.

“Trong điện ngọc, áo cung phi em mặc
Một sắc vàng chới với trái tim khô ?
Qua mấy cửa ta chờ! Chi lạ rứa !
Bên hoàng thành, bóng ngựa nhớ hương xưa...”


Thế rồi ! Nàng trong hoàng thành c̣n ta với vó ngựa rong ruổi với cuộc đời lữ thứ, vẫn mơ tưởng nhớ “hương xưa”. Chất đa t́nh lăng mạn làm nên sức cuốn hút trong thơ t́nh Trần Dzạ Lữ.

Ước mộng không thành, ta giận chính ta hay giận cả chiếc cầu “ Nhịp cầu cong” với sương mù lăng đăng . Vẫn vẻ đẹp liêu trai trong buổi sớm sương mù với mười hai nhịp vốn có, nhưng ta lại cảm thấy có ǵ đó như là một nỗi xót xa . Như là một sự lỡ hẹn ǵ đầy tiếc nuối bâng khuâng “Chưa về kịp’’ để xót v́ mười hai nhịp hay xót cuộc t́nh đơn phương của thi nhân và giai nhân ?

“Giận chiếc cầu cong cứ thả sương mù
Về chưa kịp, xót v́ mười hai nhịp...
Mỗi nhịp thương người lặng thầm, ta biết
không c̣n ai nghiêng chiếc nón bài thơ.”


Qua mỗi nhịp cầu ta đếm giữa chơi vơi . mỗi nhịp cầu là một lặng thầm thương ai chỉ một ḿnh ta biết. . và thấp thoáng một nỗi buồn tiêng tiếc : “không c̣n ai nghiêng chiếc nón bài thơ.”

“Không c̣n ai để gọi lúc sang mùa
Đông xám xịt , màu trăng tàn đỉnh Ngự
Em vào Nội, nghĩa là ta trấn thủ
phía không nhau, ngơ ngác kiếm cung thừa…”


Nếu cuộc đời ” không c̣n ai để gọi lúc sang mùa”, nghĩa là không c̣n h́nh bóng người đẹp cố đô đó nữa .Cảnh vật bây giờ thật buồn chán biết nhường nào ! Mùa đông trở nên xám xịt c̣n trên đỉnh Ngự chỉ c̣n ánh trăng đă tàn …. Bởi em đi thật rồi! “ Em vào Nội” Th́ ta “ Trấn thủ” “Phía không nhau” . Cung kiếm cũng trở nên “ Ngơ ngác” và thừa thải ! Ở đây tác giả sử dụng phép nhân hóa . Cung kiếm “ Ngơ ngác hay hồn ta ngơ ngác khi không em” ?

“Cứ dáo dác kiều nữ vẻ anh thư
Khi hát hỏng câu nam b́nh thương nhớ
Con mắt ai, nhốt hồn ta trong đó
Có bao giờ tiêng tiếc gă khờ chưa?”


Tác giả sử dụng 2 cặp từ láy “ngơ ngác” và “ dáo dác” rất hay, dùng từ rất đắt để nói về tâm trạng không có thể có từ nào hay hơn thế để lột tả tâm trạng này .Khi “ em’ đi rồi từ ngơ ngác cả kiếm cung thừa , không biết làm ǵ hơn ! Mắt “dáo dác” kiếm t́m một làn hương vừa mới phảng phất đâu đây.Trước “ Kiều nữ vẻ anh thư, đài các trong ḷng ta đă mang thương nhớ ! Câu Nam b́nh thương nhớ, câu hát cất lên trong ḷng ngực đă không như ư nguyện“ hát hỏng câu nam b́nh” rồi c̣n đâu nữa? Đầy tiếc nuối!

Bài thơ khép lại với hai câu thơ thật cô đọng :


“Con mắt ai, nhốt hồn ta trong đó
Có bao giờ tiêng tiếc gă khờ chưa?


Vâng! con mắt nàng đă nhốt hồn tôi từ buổi ấy . Ta là một gă si t́nh , lăng tử . « Có bao giờ tiêng tiếc gă khờ chưa? » Câu hỏi tu từ lần nữa xuất hiện khép lại áng thơ t́nh để người đọc cũng thấy tiếc nuối theo. Đây là câu thơ hàm chứa cả niềm tiếc nuối bâng khuâng của thi sĩ. Thi nhân tiếc bóng h́nh giai nhân. cũng có thể phân thân để hỏi: Người đẹp có tiếc thi nhân không ? Thi nhân tự gọi ḿnh là gă khờ đó –gă khờ đa t́nh lăng mạn tài hoa chẳng lẽ người đẹp nào không tiêng tiếc sao ?

KIỀU NỮ là một bài thơ t́nh hay ! Bằng thủ pháp nghệ thuật gợi nhiều hơn tả, Nghệ thuật dùng h́nh ảnh so sánh, ẩn dụ , hoán dụ , tượng trưng và phép tiểu đối ở trong thơ đưa đến cho độc giả áng thơ t́nh đẹp . Nhà thơ cảm thấy ḿnh hụt hẫng chơi vơi trước một mối t́nh đơn phương mộng ảo, một chút t́nh mong manh mà tha thiết lăng mạn. Sự phối hợp các thanh bằng trắc hợp lư tạo nên nhạc điệu trầm bổng của bài thơ để làm nên sắc điệu trữ t́nh có giá trị biểu đạt cao. Từ một rung cảm thường t́nh giữa thi nhân và người đẹp tạo nên chất liệu thi ca. Giọng thơ tâm t́nh, lời thơ dịu ngọt, tứ thơ dạt dào xúc cảm, thể hiện một hồn thơ và giàu chất suy tư. H́nh tượng xuyên suốt bài thơ cho thấy rơ nét tư duy nghệ thuật tinh tế và sâu sắc. Khẳng định một thi pháp độc đáo, sáng tạo rất riêng của hồn thơ Trần Dzạ Lữ. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng trước vẻ đẹp và thẫn thờ tiếc nuối… H́nh ảnh và cảm xúc hội tụ trong sáu khổ thơ bát ngôn là câu chữ toàn bích. Ngôn ngữ dung dị, thi ư ngọt ngào, cảm xúc hồn nhiên. Từ niềm rung cảm khát khao, mơ mộng…của cái tôi trữ t́nh đến biểu cảm nồng nàn tha thiết, lăng mạn, tạo nên chất men say cuốn hút của thơ t́nh Trần Dzạ Lữ.

 

Hoàng thị Bích Hà

 

 

 

 

art2all.net