Hồ Đ́nh Nghiêm
HUẾ, CHỐN XƯA CHƯA
VỀ
Định
cư ở Montréal năm 1981 tôi quen được nhà thơ Hoàng Xuân Sơn. Nhớ hôm ấy,
sau han hỏi đôi câu trên điện thoại để biết chính xác địa chỉ, anh lái
chiếc Toyota xám đến chở tôi đi, đăi ăn bún ḅ ở cái quán nhỏ của người
đồng hương nằm không xa nơi tôi ngụ. Dĩ nhiên buổi gặp gỡ ban đầu kia
xẩy ra trong ấm áp, rất nồng hương, rất mặn mà do khung cảnh và thức ăn
mang lại một phần. Qua thơ văn, hai kẻ người Huế lưu lạc nh́n ra nhau để
chẳng có ǵ thích hợp hơn là kéo nhau vào ngồi trong quán cố đô, hay
thần kinh, hay sông Hương núi Ngự, hay Huế đang bừng sống trong hoài
niệm, chan lùa với ruốc mặn ớt cay.
Theo dơi chân đi của nhà thơ qua năm tháng, tôi luôn bắt gặp chút ảnh
h́nh, chút phong vị của Huế lẫn trốn đâu đó. Nói nặng t́nh cho chốn xưa
th́ chẳng hàm oan. Hoàng Xuân Sơn có những câu thơ quá đỗi mượt, mà tôi
tin cái thổ ngơi Huế kia đă tác thành ra người, làm nên bầu khí quyển
rất mực riêng tư:
Nhớ Huế êm đềm mưa nghiêng sợi
Thương màu áo dạ phố đông sang
Buổi sáng em cười mắt ngái ngủ
Đêm qua lạnh quá giữa mưa phùn
….
Bước chân phiêu lăng c̣n trên phố
Buổi chiều tà có mắt ai trong
Bàn tay năm tháng mềm như lụa
Ngồi đây thương nhớ cũng tang bồng.
Ai chưa đi ngang Huế một lần th́ xin mường tượng, tôi sống lâu dài với
Huế nên nh́n ra ngay thứ màu sắc, thứ khí hậu, thứ lănh thổ nửa hư ảo
nửa khói sương rất đặc thù nọ. Thủ pháp của Hoàng Xuân Sơn luôn ngang
dọc những nét sắc mạnh, nhưng mỗi bận nghĩ về Huế, ta nh́n thấy một bức
tranh mềm mại của màu nước
vừa hiện thành qua tay anh. Cũng thế, tôi luôn đồng ư khi có người cho
rằng: Nếu không phải người Huế, Trịnh Công Sơn sẽ chẳng viết được những
ca từ thơ mộng và nhiều ẩn dụ đến vậy.
Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn sớm rời xa Huế để xuôi nam, neo thân tại Sài G̣n.
Trong cuốn phóng bút “Cũng Cần Có Nhau” xuất bản năm 2013, người
đọc sẽ thấy “bước chân phiêu lăng” của anh. Nói đến Huế th́ đa phần ai
cũng nhắc về một vết thương khó thành sẹo. Chương Mười trong cuốn phóng
bút ấy mang tiểu tựa “Mậu Thân Trong Ḷng Cuộc Chiến”, nhà thơ trải ḷng:
“Năm
Mậu Thân 68, tôi quyết định về Huế ăn Tết với mạ và gia đ́nh… Không hẹn
mà gặp, Trịnh Công Sơn, Phạm Nhuận cũng về Huế năm này… Huế vẫn muôn đời
trầm lặng. Không có ǵ thay đổi lớn ngoài bầu không khí vẫn rất thiêng
liêng gần gủi của những ngày cận Tết ở Huế, có thể thấy được, đọc được
trên dáng đi, trong mắt trên môi người…”
Nhà thơ có nhắc tên Trịnh Công Sơn và tôi nhớ người nhạc sĩ này cũng
từng viết về biến cố đau thương ấy trong đoản văn, dưới tựa “Huế Hôm
Nay” đăng trên báo Văn Học số chủ đề “Huế Trong Trí Nhớ” phát hành ngày
15/4/1974. Tôi xin vay mượn nguồn của nhà văn Trần Hoài Thư để chép lại
ra đây một tiếng nói, một nhân chứng ngày cũ. Trịnh Công Sơn viết:
“…Bản
chất của Huế nằm trong kích thước nhỏ bé của nó. Nó không ồn ào và bận
rộn. Những lề đường của Huế thân mật. Trên con đường của thành phố, bạn
có thể giơ tay vẫy bạn bè suốt ngày. Khách lạ mới tới Huế có cảm tưởng
rằng tất cả mọi người ở Huế đều có họ hàng với nhau…
Một sự sợ hăi lớn lao đă đến với Huế. Thật là điều khó khăn đối với tôi
để quên, mùi xác thịt thối rữa trên đường Lê Lợi khi tôi cùng gia đ́nh
tản cư ngang qua đó… Tôi nghe giọng buồn nhất ở khắp nơi trong địa ngục
kéo dài suốt tháng này. Họ là những người sống sót trong những cuộc chém
giết, dường như họ chỉ c̣n thân xác mà không c̣n hồn. Nỗi buồn trốn mất
khi nỗi đau khổ quá lớn. Tất cả dân Huế sống cùng với nhau trong suốt
khoảng thời gian nguy hiểm nhất, đều đă thở bầu không khí bẩn thỉu nhất
của trại tỵ nạn. Tất cả đều đă được biết sự tận cùng của khổ đau. Tôi
nh́n những căn nhà bên kia sông bị nổ tung v́ đạn đại bác, tạc đạn rơi
trên ḍng sông Hương làm mặt tung bọt trắng xoá. Trong những ngày đầu
của trận chiến, gia đ́nh và tôi ngồi yên lặng trong nhà. Buổi sáng đi
qua trên những khuôn mặt khổ năo. Các anh em tôi ngồi nhấp nháp rượu
trong khi đạn pháo réo ngang đầu. Qua khung cửa, chúng tôi nh́n thấy
những người lính Bắc việt di chuyển, nấu ăn, đào hố trong vườn trước mặt
nhà. Đó là những ngày đẹp trời của mùa xuân, những giọt mưa nhẹ như sợi
chỉ đan vào nhau. Tôi muốn tản bộ dọc theo những con đường đầy bóng mát
trước của nhà. Tôi muốn có cốc cà phê ở một tiệm bên kia sông, trong nội
thành, đằng trước trường Âm Nhạc và Mỹ Thuật. Nhưng tôi đă ngồi bất động
hơn 15 ngày. Anh em tôi ví những ngày của chúng tôi với những ngày của
Anne Frank… Một bản quảng cáo của rạp chiếu bóng Châu Tinh vẫn c̣n treo
ở trước cửa chợ Đông Ba, phim này dường như cũng là một điềm gở: “Le
Temps Du Massacre”…
Huế đă sống qua những ngày tàn nhẫn. Bao đoàn người đă đào lỗ để t́m xác
cha, mẹ hay chị. Những tiếng khóc của đám ma có thể làm rung chuyển cả
núi rừng… Tôi không thể nói được ǵ cả khi đời sống chỉ là một tṛ đùa…
Tôi không biết phải làm cái ǵ với cảnh tàn phá này. Căn bản luân lư của
chiến tranh đă ra khỏi giới hạn của năng lực loài người để chịu đựng.
Huế ơi! Tôi hy vọng có một ngày thanh b́nh nào đó, tôi có thể trở về để
ăn bánh bèo ở cây Phượng, bánh ướt thịt nướng ở Kim Long, bún ḅ tiệm bà
Rớt. Tôi muốn quay trở lại để ngủ đêm trên ḍng Hương và gọi ông Bê mang
cho tôi một bát bún rất cay, cay đến nỗi chảy nước mắt. Tôi sẽ gọi cô
gái trên thuyền mang cho tôi một con mực nướng khô, một cốc rượu nhỏ,
thật nhỏ để làm cho đêm trở nên ấm hơn, những bài hát nửa đêm trở nên
hay hơn và giấc ngủ hiền hoà hơn trong lúc sông lặng lờ trôi…”
Hai người Huế cùng mang tên Sơn, cùng dân Huế, cùng sinh hoạt với nhau
một thời văn nghệ ở Sài G̣n mà thơ nhạc họ không ngớt xưng tụng vẻ đẹp e
ấp, trầm lắng của một Huế nhiều biến động, nhiều đau thương.
Mới đây, băo lụt lại trở về. Miền Trung, nh́n vào bản đồ đất nước, nó
tựa như cái đ̣n gánh chịu lực nặng nề của hai đầu Bắc Nam khiến phải oằn
cong. Tôi có email, điện thoại về hỏi thăm những người thân măi loay
hoay ăn dầm ở dề với những bất hạnh. Và lạ lùng thay, tôi lại đón nhận
những uỷ lạo ngược từ chốn xa tôi không về được.
Bên nớ đông sắp tới, băng tuyết trơn trợt nhớ đề pḥng chuyện đi đứng hỉ.
Băo số 7 đi ngang nhà cửa có bị chi không?
Ẻ ba bại. Khung ăn thua. Chao, nghe mi găy xương khiến tao giựt chắc.
Quá vô hậu! Quá ba lơn!
Lụt lội th́ răng?
Th́ rứa cha răng. Noái chi, tao dư kiềng ba chưn. Khung can chi mô.
Mậu Thân 68, Hoàng Xuân Sơn lánh nạn trong trường trung học Kiểu Mẫu,
Trịnh Công Sơn tản cư qua Thư Viện Đại Học, tôi và họa sĩ Đinh Cường ẩn
náu ở Hồ Mưng trong Nội Thành. Và tháng sau, giữa đổ nát, ngập mùi tử
khí, Dương Nghiễm Mậu từ Sài G̣n ra Huế viết xong bút kư “Địa Ngục Có
Thật”.
Huế, không nhắc th́ thôi. Nhắc, mộng ảo nhập nhằng, trôi la đà trên từng
giấc thở dài, nặng nhọc. Đă sống qua, đă bơi sang bên bể trầm luân, đậu
lại chốn đây, phải tự an ủi: Khung ăn thua. Có răng mô nà. Khung can
chi. Hoặc dỗi hờn: Kệ cha mệ nội, hết xôi th́ rồi việc. Rứa đó. Rứa đó.
Hồ Đ́nh Nghiêm
trang hồ đ́nh
nghiêm
art2all.net
|