Hồ Đ́nh Nghiêm

 

TƯ ĐEN

 

 


         
Tư là tên gọi ở nhà. Bố mẹ anh chị em luôn miệng Tư ơi Tư à. Bạn bè chẳng mấy đứa kêu vậy bởi tên chính thức ghi trên giấy khai sinh: Nguyễn Văn Bốn. Bảng tên thêu chỉ xanh may trên túi áo không sai trật dấu.

Tư hay Bốn, thoạt nghe ngỡ giống nhau nhưng vẫn có chút khác biệt. Tư xà lỏn áo may dô đầu tắt mặt tối ở nhà trong khi Bốn th́ đồng phục chỉnh chu chuyên cần việc học, chưa tính là có năng khiếu đá banh, vua làm bàn trong đội tuyển của trường. Giữ vai tiền đạo nhưng khoác áo số 4, huấn luyện viên bảo: Một công đôi chuyện, em cần làm sáng cái tên em luôn thể. Người luôn đeo cái c̣i tu huưt ṭn teng trước ngực ngầm chứng minh: Tư hay Bốn hay 4 cũng đều một nghĩa như nhau, chớ lôi thôi định phận.

Mặt mày Bốn luôn đăm chiêu, coi bộ già trước tuổi. Đen đúa, rắn chắc và trời sinh hắn có cặp gị dài. Bốn ngồi bàn cuối, xóm nhà lá, được thầy cô giao khoán nhiệm vụ bảo vệ trị an giữ ǵn trật tự trong lớp. Dần dà sĩ số 42 tṛ tinh nghịch ấy thôi c̣n xẩy ra cảnh lấy thịt đè người ức hiếp bắt nạt nhau. Bốn được đôn lên làm trưởng lớp, rất uy tín. Tiếng thơm toả lan đến tai ban giám hiệu, tuy việc học kém cuối năm Bốn vẫn có phần thưởng bọc giấy kiếng xanh đỏ. Ôm về nhà, mũi ph́nh to, ngực nhô ra, hiu hiu tự đắc.

Bốn có người em gái học ở trường Nữ, đoan trang thuỳ mị trắng da dài tóc yểu điệu thục nữ khuôn trăng đầy đặn vào ra sương khói nghiêng một phố trưa làm đổ gục bao cây si ngấp nghé muốn gọi Bốn bằng anh. Nguyễn Thị Mộng Ngũ rất giỏi việc gia chánh nấu ăn. Giống như nấu cơm ta phải sàng lọc gạo, đăi trấu sạn trước khi đổ nước chụm củi thổi lửa, Mộng Ngũ cũng kén cá chọn canh nên lắm đứa lỡ phải ḷng có khi gạt lệ, biết phận mỏng thôi làm vướng chân nàng. Nàng đă chấm được anh sinh viên học Khoa Học năm thứ ba. Anh đến dạy kèm cho hai đứa em, thiên thời địa lợi nhân hoà thảy đều thủ đắc, chỉ là “t́nh trong như đă mặt ngoài c̣n e”. Anh gia sư dạy kèm môn Toán ấy lớn hơn Bốn tới sáu bảy tuổi nhưng xem chừng biết phép tắc, lễ độ trước mặt Bốn bởi dầu ǵ th́ Tư cũng anh nàng Ngũ, chứ Lục với Thất hả, giải sai phương tŕnh ta nạt nộ rầy la là chuyện đương nhiên. Ban đầu, tuần chỉ có hai buổi gơ đầu trẻ, tháng này qua tháng nọ ảnh đắm đuối tơ tưởng người chị, ḷng những muốn gửi gạo để có ngày được chung mâm.

Rồi Bốn thi hỏng tú tài buộc phải khoác chiến y. Mặt trận phía bắc ngày thêm ác liệt cuốn Trung sĩ Bốn nhập vào cảnh dầu sôi lửa bỏng. Từ chiến trường chẳng kiên cố việc pḥng thủ, luôn lâm vào thế bị động buộc phải chống trả, Bốn được tin em vội lấy chồng, Ngũ theo chàng về dinh càng xa vùng địa đầu chút nào hay chút đó. Chàng sinh viên đại học Khoa học thuở nọ nay đă là kỹ sư làm việc lặn lội tận trong Sài G̣n ấm êm hay lục tỉnh an lành. Phương này, Bốn đụng trận lia chia đến ù tai quáng mắt, đầu bù tóc rối để rồi bị lănh đạn lặt ĺa được trực thăng bốc về quân y viện Nguyễn Tri Phương, ruột để ngoài da mà tim gan phèo phổi lạnh tanh chẳng c̣n ai viếng thăm kề cận, quặn ḷng. Tất cả đều đă di tản lạc dấu. Nước mắt người lính trẻ chừng khô cạn. Ngay cả súng là vợ đạn là con cũng hơn một lần phụ rẫy, tay vụng về chỉ c̣n việc ôm ấp lấy vết cắt đau. Anh dũng bội tinh với chiến thương bội tinh mà ích ǵ cho buổi ấy. Người ta nương nhờ vào sức mạnh khi muốn cưỡng đoạt và v́ vậy người ta không hiểu được điều quan trọng, chỉ cần t́nh yêu, nó giúp người ta hoàn thành những sứ mạng khó khăn. Bốn không có sức mạnh, Bốn cũng chẳng c̣n t́nh yêu và xă hội đang ngàn cân treo sợi tóc kia vừa đón nhận một đứa tật nguyền, ghẻ lạnh.

Tôi gặp Nguyễn Văn Bốn t́nh cờ trên xứ lạ. Một bài viết gần như tự truyện đăng khiêm tốn trên tờ báo Việt ngữ ở chốn dung thân mới. Chữ viết thật thà cũng đủ hấp lực kéo người ngồi lại. Bốn không biết tôi, kẻ làm thơ vụn vặt dệt vần điệu chừng thương vay khóc mướn. Tờ báo chỉ trả nhuận bút cho truyện ngắn hoặc đoản văn, do vậy khi kéo nhau vào quán cà phê, Bốn nghiêm chỉnh trong lời đùa: Tôi có nhiệm vụ phải là người xuất tiền chi trả hoá đơn. Ở con người Bốn hiển hiện ra thứ ǵ đó khiến tôi liên tưởng, thoáng nhớ người anh đă khuất. Qua chuyện tṛ trao đổi, dần dà như vạch lá t́m sâu mới hay ra ngày ấy Bốn luôn gọi anh tôi là ông thầy, để sáng tỏ Bốn nói: Ổng là đại đội trưởng của tôi, đánh đấm rất ch́, gạt bỏ khoảng cách cấp bậc kiểu hệ thống quân giai, ổng vẫn đối xử với em út theo tinh thần huynh đệ chi binh, luôn quan ngại cho sinh mệnh đàn con măi theo ông không rời. Ổng gục xuống ở trận đánh chót ngoài ṿng đai thành phố và không ít thằng đệ tử đă mếu máo khóc than khi tẩm liệm ông thầy vào tấm poncho hoen ố bụi đất cùng máu và nước mắt.

Tôi nhớ lại cái quan tài có phủ lá cờ rủ liệt và dáng đứng xiêu đổ của má tôi. Tiểu đoàn thiệt hại nặng, biết bao người mẹ khác đă lạc hồn giống má tôi? Chôn anh không mấy lâu chúng tôi buộc phải chạy theo vết dầu loang, xa dần vùng đất cắm đầy mồ mả ông bà. Và Bốn, duy nhất là người đề cao cái chết của anh, nhân chứng sau cùng kể lại những sự hy sinh vô danh, vô ngôn và vô lư. Tôi trở nên thân với Bốn, lặp lại lời ai đó nói: Điều nguy hiểm nhất khiến trái tim phải nhuốm bệnh là khi bạn có một trí nhớ quá đậm sâu. Bốn cười nửa miệng: Tôi lại nghĩ khác, chúng ta đổ bệnh v́ sống với kẻ vong ơn, những đứa muốn trốn chạy bi kịch ngày cũ.

Tờ báo có tổ chức đêm liên hoan trong một nhà hàng chuyên đăng quảng cáo, một trong các ân nhân nuôi sống để cái “món ăn tinh thần” nọ được cầm cự chớ tắt thở. Bốn uống rượu rất cừ. Giải thích, đời lính tráng quen nằm gai nếm mật buộc phải vậy. Khi có chất men đổ vào người, Bốn ngâm thơ xuất thần, chất ngất tâm sự. Vả chăng chút khinh mạn, chút hào sảng nằm trong thơ Tô Thuỳ Yên vô t́nh đă ăn với chất giọng ấy, kể lể với một tâm thế xót đau trong lạc lơng.

“ở chốn mệnh danh là chốn cũ
dân gian thay mới những truyền kỳ
đất trời ủ lứa chiêm bao khác
dâu biển làm mưa nắng lạ đi
bụi rác mỗi thời một dạng loại
chồng sâu thêm những địa tầng quên
người về không biết có đúng chỗ
lịch sử qua đường đă cải trang

bạn lứa ta nhiều người đă chết
bó mang đi phần mộng góp chung
chuyện thuở nào vừa tai người thuở ấy
mỗi sự t́nh một tuổi đời riêng
độc giả về già chỉ đọc lại
đôi khi ta lười biếng chuyện tṛ
đôi khi ta lẩm bẩm ḿnh ta
nhà ta xưa nghe nói chẳng c̣n
di chỉ đời ta xưa mất theo…

thương quá chiều nay gió váng vất
xác diều vật vă ngọn tre cao
với bản thân ít nhiều ta có lỗi
lỗi chẳng ân cần cầm cộng những ngày vui”.

Bàn tiệc câm lặng như thể bị ngộ độc thực phẩm, như bị một sức nặng không dưng phủ chụp trong sát na. Sát na sau là hàng loạt tiếng vỗ tay tán thưởng, tỉnh thức sau cơn mê thiếp bởi nỗi buồn ùa tới, bởi cái đẹp va vấp vào. Hiện diện vây quanh bàn mười ghế đa phần là bạn của Bốn, những kẻ bỏ nhà đi phiêu bạt. Có người từng ngồi tù rừng sâu trong bốn năm, người ba năm người sáu tháng… Tựu trung nhân thân đều xấu mà muốn sống c̣n anh chỉ có duy con đường bỏ nước mà đi. Có người hỏi Bốn: Bề dày một cuốn lịch của dân Việt, ngày nào khiến người ta muốn xé bỏ nhất. Xé khác bóc. Chữ bóc lịch thường áp đặt vào thân phận một thằng tù. Bóc hai ba niên th́ nhằm nḥ ǵ, chưa đủ ṃn tay. Chỉ có thành phần thiên thu tại ngoại mới dùng chữ xé, xé bỏ từng ngày vô vị, chẳng tiếc thương. Bốn nói: Th́ tờ lịch 30 tháng 4 chứ c̣n tờ nào khác? Mày tên Tư, cúng cơm là Bốn, không ấy bọn này bầu mày làm chủ xị bữa đó. Hằng năm cứ vào cuối tháng Tư lá ngoài đường rụng nhiều và trên bàn chai lọ bàng bạc đổ vào mồm uống cho trôi cơn hạn.

 

Chuyện nhỏ! Bốn nói. Các vị nên lắng ḷng mà cám ơn đất nước này, ngoài ḷng hảo tâm việc cưu mang họ c̣n tôn trọng chúng ta, xem Ba mươi tháng Tư là nỗi đau của người Canadian gốc Việt. Tôi thực sự xúc động khi nh́n thấy phiên họp quốc hội với đông đảo dân biểu dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ may thành khăn quàng cổ và ông thủ tướng Justin Trudeau phát âm chuẩn mực bốn chữ Chúc Mừng Năm Mới. Những ly rượu nâng lên: Oh Canada! Họ hát không vẹn toàn bản quốc ca, tiếng Anh tiếng Pháp lộm cộm hai phiên bản.

Bốn nói với tôi: Giấy tờ bảo lănh có ṃi thuận lợi, nếu trời thương hai tháng nữa con em Mộng Ngũ sẽ sang tới đoàn tụ cùng thằng Bốn tứ cố vô thân này. Chồng nó bị xe đụng, chết mất đất. Nó vẫn ở vậy, ra đi ḿnh ên chắc không có ǵ trở ngại. Tôi hỏi: Vậy đă có chiến hữu nào rắp tâm chờ chực sửa giọng gọi Bốn bằng anh chưa? Bốn không trả lời. Vịn mặt bàn đứng dậy, đen đúa, yếu đuối: Đă khuya, tôi đọc bài thơ của Bùi Giáng rồi chúng ta chia tay:

“ta đứng lại bên này chờ đợi
ồ phải không? em đó phải không?
ta đếm lại từng ngón tay lẩy bẩy
đời chúng ta là mấy trăm tṛn

ngày vui ngắn? ḷng đă vơi mấy bận
ngày vui đi? mấy bận giữa ḷng ta
đổ lây lất mưa về xuân lấm tấm
ô thiều quang tan biến vội sao mà

em có khóc? ta xin em đừng khóc
em nh́n ta? lệ chảy có vui ǵ
trang phượng mở giữa nguồn em hăy đọc
nước xuôi ḍng ngàn thu hận tan đi”.


Cả bọn ngồi không cục cựa. Gió tháng Tư chạy luông tuồng ngoài cửa quán vừa lật lại tấm bảng open. Đèn đường vàng vọt, câm nín. Những dáng xiêu lạc rồi sẽ bị nó bẻ gập h́nh hài, cán mỏng xuống mặt lộ tối đen. Đèn đường chốn đó đă mọc được đôi chân khi vỉa hè bị dọn sạch? Mộng Ngũ bao giờ tới bến bờ Mộng lệ an?

Lần đầu, có lẽ vậy, Bốn say. Tôi ôm thân Bốn, quàng tay qua vai d́u đỡ người gọi tôi là “em ông thầy”. Tôi tự hỏi những bài thơ tôi viết, biết đến bao giờ được lọt vào mắt Bốn, thẩm thấu ḷng Bốn để đệ tử của anh tôi cất giọng đọc, ngâm lên với tất cả những hoài niệm đớn đau về vết thương chẳng thể thành sẹo.

Hồ Đ́nh Nghiêm

 

 


 

trang hồ đ́nh nghiêm

art2all.net