LAIQUANGNAM

 

“Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu.”

Laiquangnam giải mă


 

Tiểu dẫn

Tính đến nay Đoạn trường tân thanh ( Kiều ) đă xuất hiện trên dưới 200 năm. Người khảo sát Truyện Kiều của Nguyễn Du lần đầu tiên một cách tường tận và có hệ thống là ông Vân Hạc Lê văn Ḥe (1953) (1) với quyển Truyện Kiều Chú-Giải rất nổi tiếng trong văn giới và trong giới giáo dục. Ông dừng rất lâu lại tại câu Kiều thứ 942 này, với ưu tư là tại sao Nguyễn Du lại viết “ Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu”, mà lại không viết “ngày ngày Hàn thực, đêm đêm Nguyên tiêu”, bởi tất cả lễ lạc đông người dành cho quần chúng do triều đ́nh Tàu sắp đặt đều xảy ra, ban ngày cho Hàn Thực, ban đêm cho ngày Nguyên Tiêu. Sự ưu tư này kéo dài măi đến hơn nửa thế kỷ nay, đúng hơn là 60 năm nay.
 

Sau đó, tại Việt nam có một người Tàu tên là An Chi, khi giữ mục Chuyện Đông Chuyện Tây trên tờ KTNN vào đầu thập niên 90 tại Việt nam viết như sau về Nguyễn Du “Tóm lại…; trong điều kiện cụ thể của câu thơ đang xét th́ Nguyễn Du không thể vùng vẫy ngọn bút của ḿnh một cách hoàn toàn thỏai mái được, như chúng tôi đă chứng minh trên KTNN số 190, nghĩa là theo chúng tôi, th́ trên đường thiên lư, dù có là ngựa kư, ngựa kỳ e rằng cũng có lúc vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh”. Ngưỡng mộ thiên tài của Nguyễn Du theo chúng tôi, không có nghĩa là t́m mọi cách để biện bạch ngay cả những chỗ không hay trong thi phẩm của ông như câu “Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu” trong đó ông tác giả đă bị g̣ bó về thanh điệu và vần điệu...”, ngày nay câu này được tồn tại trên các trang web (2,3,4,5) lớn trong nước. laiquangnam tô đậm lời ví Nguyễn Du là con “ngựa kư ngựa kỳ” của Y. Ngựa Kư[驥], là ngựa chạy ngày ngàn dặm, một giống ngựa đă thuần hóa.

Nguyễn Du là người trước tác ra Đoạn trường tân thanh (Kiều ) và là người lập thuyết tài mệnh tương đố (6) thông qua tác phẩm này với trăi nghiệm cuộc sống bản thân, của các người phụ nữ đáng yêu của ông gồm Mẹ ḿnh, vợ ḿnh, và cả Cô Cầm người đánh đàn trong kinh thành Thăng long năm xưa (bài thơ chữ Hán, bài Long thành c(C)ầm giả ca) có “sơ suất như thế không?

Ta thử xem thiên hạ nghĩ ǵ và viết ǵ về tiền nhân ta nhé .

I-Nguồn gốc câu “Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu.”

Trong Đoạn trường tân thanh ( Kiều ) từ câu 941 đến câu 946.


Kiều c̣n ngơ ngẩn biết ǵ,
940- Cứ lời lạy xuống, mụ th́ khấn ngay:
"Cửa hàng buôn bán cho may
942-"Đêm đêm hàn thực, ngày ngày nguyên tiêu.
"Muôn ngh́n người thấy cũng yêu,
"Xôn xao anh yến, dập d́u trúc mai!
945- "Tin nhạn vẩn lá thư bài
"Đưa người cửa trước, rước người cửa sau!"
(7)

Đây là đoạn mà Nguyễn Du mô tả lần đầu tiên Kiều nhi nằm trong tay Tú Bà, một chủ chứa. Tú Bà van vái trước tượng thần Bạch mi (vị thần bảo trợ cho các động Đĩ ) cho bà được buôn may bán đắt. Nội dung các câu van vái đều xoay quanh trọng tâm này. Nội dung trên không hề xa lạ với người Việt nam bởi Kiều quá quen thuộc với người Việt chúng ta, trong ḷng mỗi người Việt luôn có đôi câu Kiều để ngâm nga và nghiền ngẫm lúc vui hay lúc buồn.(8)

Như đă nhắc, vào năm 1953, Cụ Lê Văn Hoè đă viết đại ư; Hàn thực, ngày 3 tháng 3 âm lịch, kỷ niệm ngày Giới Tử Thôi bị chết cháy. Bên Tàu, ban ngày tổ chức các cuộc vui chơi, ngày này là ngày cấm lửa, ăn (thực) nguội (hàn). Đêm Nguyên Tiêu là đêm rằm tháng giêng, đêm trăng tṛn đầu năm âm lịch. Ngày này thời Đường, vua lệnh cho mở hội đốt pháo bông, lễ Phật. Dựa trên ḍng người xuôi ngược ban ngày và ban đêm, Cụ Lê Văn Hoè viết, “ Lư ra phải viết như thế này th́ mới đúng:
“Đêm đêm Nguyên tiêu,ngày ngày Hàn thực
Hoặc
Ngày ngày Hàn thực,đêm đêm Nguyên tiêu.
Lấy đêm ví với đêm ( tiêu là đêm ),lấy ngày ví với ngày (tiết Hàn thực ăn về ban ngày) mới sát nghĩa …Có lẽ v́ nhu cầu vần thơ, tác giả phải viết:
Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu.” (9)

Cụ Lê văn Ḥe viết nhẹ nhàng, “Có lẽ v́ nhu cầu vần thơ” (tô đậm)

Đoạn thơ trên được mang vào giảng cho học sinh bậc Trung học đệ nhất cấp, lớp đệ tứ và bậc trung học đệ nhị cấp, lớp đệ nhị thời VNCH. Trong các lớp naỳ, khi bài được đem ra giảng, tôi nghĩ chắc chắn các bạn cũng đặt câu hỏi với Giáo sư Việt văn kính yêu của ḿnh với câu hỏi có cùng nội dung tương tự. Hay nếu không ai thắc mắc, nếu mà c̣n dư giờ th́ Giáo sư cũng mang nó ra làm câu đố, hay đặt câu hỏi, rằng “ các em có thấy ǵ lạ không?”, bởi ngày đó hai lớp đó là lớp phải thi. Rớt hả? A lê, giă từ học đường, hoặc Quang Trung hoặc Đồng Đế ngay lập tức. Thời chúng tôi c̣n là học sinh bậc trung học, các thầy giảng cho nghe như sau:

1- Trong văn chương có sự nói ngược nhưng người Việt hiểu không ngược là chuyện b́nh thường, tỉ như ta thường nghe thành ngữ “ Ḥn tên mũi đạn” mà không hề thấy chướng, chẳng ai các cớ hỏi tại sao không nói “ḥn đạn mũi tên”. Lư do v́ thanh điệu BB_TT thay v́ BT_BT mà thôi. Không một ai bận tâm v́ thành ngữ đó. Vậy th́ nghe câu “Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu” th́ có ǵ phải bận tâm!.


2- Mạch văn và ngữ cảnh đă giúp cho nó rơ nghĩa, điều này khiến cho người nghe chấp nhận một cách mặc định; đó là chuyện thường t́nh, xưa nay đều có tiền lệ như vậy cả. Lư trí luôn có những câu trả lời thích nghi. Việc quan trọng của người đọc Kiều là trong hơn 3000 câu thơ trữ t́nh của danh tác; vần điệu, thanh điệu và ngữ điệu đẹp cũng là điều quan trọng khi thưởng ngoạn. Bàn lắm chỉ tổ làm bẩn tai người nghe, mất vui!. Câu “ Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu” là một câu đẹp. Gọn. Nó gồm hai điệp ngữ và hai danh từ riêng và trong câu có hai câu tiểu đối hoàn chỉnh. Từ láy đêm đêm,ngày ngày, là cặp láy lặp, đêm đêm là mọi đêm, đêm nào cũng như đêm nào, ngày nào cũng cũng như ngày nào. Đó là từ láy chỉ sự lặp lại liên tục, thường xuyên và không gián đoạn. Hết.


3- Là người “cha”, người sinh ra tác phẩm này, lại là đại thi hào, nếu do vần điệu mà chúng ta nghĩ là khắc nghiệt, không thể để nó trong cùng một câu 8 trong vần điệu lục bát được th́ nhà thơ có thể dễ dàng tách ra làm hai câu mà không phá nát ư tưởng, hay nếu cần th́ bỏ nó đi cũng chẳng có tác hại ǵ cho danh tác, và không chừng có thể chúng ta sẽ có các câu khác mượt mà hơn. Nguyễn Du hoàn toàn có thể. Tỉ dụ “ai đó” khi dạy học, muốn cho học tṛ ḿnh được vui cùng thi nhân th́ họ có thể sắp lại, các từ có gạch bỏ là các từ mà các em học sinh có thể t́m lời đặt vào sao cho hay nhất ,

Kiều c̣n ngơ ngẩn biết ǵ,
940- Cứ lời lạy xuống, mụ th́ khấn ngay:
"Cửa hàng buôn bán cho may
942-" ngày ngày Hàn thực,
….”khách đầy chen vai" ,
Cửa hàng chộn rộn dài dài,
Đêm đêm
tài tử bầy bầy nguyên tiêu.
"Muôn ngh́n người thấy cũng yêu,
"Xôn xao anh yến, dập d́u trúc mai!
945- "Tin nhạn vẩn lá thư bài

Các cụm từ bị gạch bỏ
….”khách đầy chen vai ",  Cửa hàng chộn rộn dài dài , tài tử bầy bầy là các cụm từ mới thêm vào, trong tức thời cần có ví dụ minh họa ngay laiquangnam tôi đă vụng về chèn vào tṛ chơi “đố vui để học” như thế. Các thầy Việt Văn kính yêu của lớp B5 chúng tôi năm xưa, như các cố Giáo sư Trần vĩnh Bảo và Trần Văn Chương tại trường TQC Hội an, tỉnh Quảng Nam,  đều giảng cho chúng tôi như thế cả. Kỹ niệm này vẫn c̣n ghi dấu trong lớp chúng tôi. Chắc Thầy việt văn kính yêu của các bạn có khi giảng c̣n hay hơn thế. Ai đă từng được học với Thầy Vũ Hoàng Chương tại Sài g̣n năm xưa hẳn nhiều kỹ niệm về câu thơ trên. Một sân chơi mở ra cho học sinh các lớp ban B thời VNCH. Ban B, toán hệ số 5 và Việt văn hệ số 2 mà c̣n được giảng như thế đó, huống hồ ǵ dân ban C, văn hệ số 5 , toán hệ số 1.

Vậy th́ hà cớ ǵ mà các ông học giả Đào Duy Anh (1974), rồi ông Nguyễn Quảng Tuân (cũng là Giáo sư việt văn thời VNCH ) lại lặp lại câu hỏi với nội dung tương tự mà lớp thầy chúng tôi coi như đă giải quyết xong với thế hệ chúng tôi. Chính sự lặp lại của hai ông khiến cho anh Tàu này được cơ hội ngàn vàng, lấy nhị vị là hai người Việt nam có ăn học làm cột mốc chân lư (?) (link 2,3,4,5), trong đó “dại dột!” nhất là ông Đào Duy Anh viết : …Nguyễn Du dịch ( tô đậm ) câu này nhưng v́ vần nên đổi “ngày ngày“ xuống dưới, cho “đêm đêm “ lên trên (Tự Điển Truyện Kiều, HaNội 1974, tr127).(10) .


Để luận cứ cho ḿnh thêm chặt chẻ, An chi đă dùng thêm hai tác giả người Tàu, tiền nhân ông, một là Thanh tâm tài nhân(10), hai là Chiêm văn Thị, tác giả bộ Kim cổ kỳ quan, cả hai đều viết ” triêu triêu hàn thực, dạ dạ nguyên tiêu “ như là sự quy chiếu ( 2,3,4,5). Lập luận của ông ta như thể dạy lại “Người Đă Khuất” là sách Tàu từ xưa đă nói như thế, từ đó ông viết: ”…Tóm lại…; trong điều kiện cụ thể của câu thơ đang xét th́ Nguyễn Du không thể vùng vẫy ngọn bút của ḿnh một cách hoàn toàn thoải mái được, như chúng tôi đă chứng minh trên KTNN số 190, nghĩa là theo chúng tôi, th́ trên đường thiên lư, dù có là ngựa kư, ngựa kỳ (tô đậm), e rằng cũng có lúc vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh ". Ngưỡng mộ thiên tài của Nguyễn Du theo chúng tôi, không có nghĩa là t́m mọi cách để biện bạch ngay cả những chỗ không hay trong thi phẩm của ông như câu “Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu” trong đó ông tác giả đă bị g̣ bó về thanh điệu và vần điệu.( tô đậm). Ai cũng biết rằng tiết Hàn Thực là những ngày ăn thức ăn nguội, để tưởng nhớ Giới Tử Thôi, c̣n tiết Nguyên tiêu là lễ hội đêm rằm tháng giêng. Lẽ ra phải viết ”Ngày ngày Hàn thực, đêm đêm Nguyên tiêu” th́ mới đúng luận lư. Lời cầu khẩn của Tú Bà trong nguyên văn câu tiếng Hán của Thanh tâm tài nhân cũng là “Triêu triêu Hàn Thực, dạ dạ Nguyên Tiêu”. Chẳng qua do luật thơ bắt buộc nên Nguyễn Du mới phải hoán vị “ngày ngày” với “đêm đêm“. Điều này ai cũng thấy. Chiêm văn Thị đă viết truyện Đỗ Thập Nương trong sách Kim cổ kỳ quan: “Triêu triêu Hàn Thực, dạ dạ Nguyên Tiêu” ……Câu này Nguyên Lục cũng có. Truyện đổi ra: Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên Tiêu để tiện áp luật “. “Ai ai cũng thấy như thế. Con người tài hoa từng trăi như Nguyễn Du có lẽ nào lại không thấy? Chẳng qua v́ …túng vận nên ông mới lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm đó mà thôi”. (tô đậm). Tôi không hiểu “ai ai” là ai vậy? Chỉ có 5 người thôi mà. Cụ LVH không kể v́ cái tâm của cụ sáng quá. Cụ không có th́ giờ thôi, vả lại lúc ấy cụ LVH c̣n trẻ không chừng..

Bạn thấy đấy, một khi ai đó có vai vế nêu lên một nghi vấn, một vấn đề mà không giải quyết rót ráo, hay viết câu lại gởi gấm cho thế hệ mai sau, th́ vấn đề ấy sẽ được khai thác ở một thế vô cùng bất lợi cho văn hóa dân tộc ḿnh. Tuy nhiên trong trường hợp này, đối với đại thi hào Nguyễn Du đâu có ư như mấy “ ông nội kia " nghĩ. Tôi không nghĩ tiền nhân ta lại lơi tay. Tôi tin Nguyễn Du, tiền nhân tôi, tôi tin người Việt thân yêu của tôi đọc “ Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu” với không một chút bận tâm, ḷng luôn cảm thấy thú vị. V́ sao?

II-Tại sao Nguyễn Du viết “ Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu.”

Có sự khác biệt như nước và lửa, đó là sự thật khi bàn về chiều sâu giữa hai tâm hồn người Phương Nam và người Phương Bắc. Người Phương Nam chúng ta xưa nay tính t́nh vốn đă rất khác với người Phương Bắc. Phải tỉnh lắm th́ mới nhận ra. Người đội Hán+ nặng th́ không thấy, nhưng người Việt b́nh thựng th́ lại thấy. Đó là nỗi bất hạnh của dân tộc ta, tại Việt nam không ít người, càng có ăn học th́ lại càng đội Hán+ lên đầu ḿnh. Nguyễn Du là một tâm hồn của người Phương Nam có ăn học nhưng không hề ở trong số ấy. Muốn hiểu hồn người Phương Nam ư? Hăy đọc câu “Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu” do Nguyễn Du viết th́ ắt sẽ nhận ra được vấn đề.

II-1-Nguyễn Du, tại sao lại viết “ Đêm đêm Hàn Thực,”

Hàn thực là ǵ? Đó là một danh từ riêng. Tích Tàu kể, Đời Xuân Thu, tại nước Tấn xảy ra biến loạn, Công tử Trùng Nhĩ con của Tấn Hiến công phải làm thân lưu vong t́m đường phục quốc. Gian nan đói khát trên đường là điều không sao tránh khỏi. Một hôm Trùng Nhĩ bị đói lă, trong đám chạy cùng theo chân ông có Giới Tử Thôi là người hầu cận, xót xa, GTT đem dâng cho ông bát cháo  thịt. Trùng Nhĩ, khỏe sau khi ăn xong , hỏi: “Nhà ngươi t́m đâu ra thịt tại xứ này”. Thôi thưa: “Đó là cháo nấu từ thịt đùi của tôi. Tôi nghe rằng kẻ hiếu tử bỏ thân thờ cha mẹ, bề tôi trung bỏ thân để thờ vua . Việc này người dân trong nước loạn ai cũng đều làm như thế cả, đâu phải chỉ riêng tôi. Công tử đừng bận tâm, hăy để tâm lo việc lớn của thiên hạ”. Trùng Nhĩ rơi nước mắt, nói: “Ơn này, ta măi măi không bao giờ được phép quên”. Thời gian sau, Trùng Nhĩ phục quốc thành công. Ông lên ngôi lấy hiệu là Tấn Văn công. Ông hào phóng ban thưởng cho mọi người có công. Khi ban thưởng lắm cảnh tranh ăn, kể công, c̣ kè bớt một thêm hai. Riêng Giới Tử Thôi chán nản và lặng lẽ rút. Ông lui về nhà phụng dưỡng mẹ già. Ông sống bằng nghề may vá giày. Có người hàng xóm biết công lao của Giới Tử Thôi (GTT) qua bà mẹ kể; người hàng xóm cũng kể những ǵ mắt thấy tai nghe cho mẹ ông nghe. GTT th́ luôn dấu biệt, ông sợ mẹ buồn. Thấy con khổ, một hôm bà mẹ nói với con, ” sao con không xin Chúa Công ban cho ít lộc để cho con được bớt khổ có hay hơn không?”. Giới Tử Thôi thưa: “Tấn Hiến công có nhiều con, duy chỉ có Chúa Công là người hiền hơn cả. Huệ công và Hoài công không bằng. Chúa công nay được hưởng phần là lẽ trời đất. Đâu có ǵ lạ mẹ ơi. Việc phục quốc là trách nhiệm tự nhiên của mọi người dân lẽ nào nay đất nước thanh b́nh ḿnh lại được phép kể công. Nhớ hay không là bổn phận của người lănh đạo. Nay con lấy làm xấu hổ khi đứng cạnh họ. Con thà vá giày nuôi mẹ như thế mà tâm con được yên vui. Mẹ thấy sao ?” Người mẹ suy nghĩ hồi lâu; Con ta là người liêm sĩ bấy lâu nay mà ta đâu hay. Con ta đă là người như thế, lẽ nào ta là mẹ sinh ra nó mà không làm được điều liêm sĩ hơn sao, rồi Bà từ tốn đáp: ”Con là người liêm sĩ lẽ nào ta là mẹ của con lại không hiểu con trai ḿnh. Nay, ta thật sự muốn cùng con t́m chỗ ẩn thân, ḷng mẹ con ta từ nay sẽ an ổn”. Nói rồi, hai mẹ con dắt nhau vào núi, hái cây trái rừng mà sống qua ngày. Người hàng xóm vốn kính nể mẹ con họ, nay quay lại, thấy mẹ con họ đă lặng lẽ ra đi. Ông đă t́m mọi cách thông báo cho nhà vua biết về việc bỏ sót GTT. Nhớ ân xưa, vua vội vă cho người đi t́m lại ân nhân ḿnh. GTT đă đi rồi. Sau bao nhiêu cực nhọc, nhà vua được biết GTT đă cơng mẹ vào rừng, vua t́m đến đó. GTT vẫn biệt tăm. Biết GTT là người con hiếu để, vua bèn nghĩ đến kế, đốt rừng để GTT v́ nóng ắt phải cơng mẹ chạy ra. Măi không thấy, khi tàn lửa, nhà vua tận mắt thấy hai mẹ con họ ôm nhau mà chết cong queo. Vua đấm ngực, than trời và rơi lệ. Nỗi buồn của vua?Một ngày mà tổ quốc ông đă chết hai người con liêm sĩ. Thật là một đại lỗi với tiên nhân ông. Không c̣n người tài, người liêm sĩ đất nước này về đâu? Vua truyền lệnh, kể từ ngày này, lấy đây là ngày giỗ của GTT, mọi nhà đều không được đốt lửa, cùng ăn thức ăn nguội để tỏ ḷng thương tiếc, tôn kính hai người con liêm sĩ đă ra đi trong cùng một ngày. Vua ban nghiêm lệnh, vào ngày này các nơi phải tổ chức vui chơi vào ban ngày để giúp mọi người luôn tưởng nhớ người xưa mà bắt chước, học tập những điều đạo đức tối thiểu khi làm người. Họ vui chơi để quên đi điều xằng bậy trong giờ tuần chay.

 

Câu chuyện Hàn thực là như vậy. Là người có chút liêm sĩ, giả sử bạn đang là dân Tấn, bạn có để ḷng tưởng nhớ GTT không? Và để như thế nào? Tiền nhân ta tuy là người Phương Nam nhưng lại hiểu rất thấu đáo câu chuyện này trong khi những người như Thanh tâm tài nhân, Chiêm văn Thị, hai tiền nhân của An Chi, kể cả ĐDA? không chừng, NQT (ngây thơ), cả năm đă hè nhau vào động đĩ, nơi đó tiện cho họ tỏ ḷng thương tiếc GTT. Ngộ quá!


Laiquangnam xin dẫn thêm một minh chứng cụ thể. Tại nước Tàu xưa, thời Đường, qua ḍng Đường thi, Hàn Hồng (713-756?) là một trong thập tài tử thời Đại lịch [762,-779], đă có bài thơ Hàn Thực như sau, có lẽ đại thi hào Nguyễn Du ta hẳn đă đọc nát như tương và đă chia sẻ nội dung sâu của nó. Laiquangnam dẫn lại để các bạn ta cùng chia sẻ.

II-1a Nguyên tác chữ Hán

韓翃‎
Hàn Hồng

寒食
春 城 無 處 不 飛 花,
寒 食 東 風 御 柳 斜。
日 暮 漢 宮 傳 蠟 燭,
輕 煙 散 入 五 侯 家。

Phiên âm:


Hàn thực
Xuân thành vô xứ bất phi hoa
Hàn thực đông phong ngự liễu tà
Nhật mộ Hán cung truyền lạp chúc
Khinh yên tán nhập ngũ hầu gia.

Tạm dịch nghĩa ư thơ

Đô Thành trong sắc xuân không nơi nào không có hoa bay.

(Vào) Ngày hàn thực, ngọn gió xuân (đông phong) [gió từ hướng đông, gió miệt biển thổi về ] làm liễu nghiêng ḿnh trong vườn ngự.

Chiều tối (nhật mộ) trong cung Hán (vua ) truyền lệnh đốt đèn sáp.

Làn khói nhẹ bay tản mát vào nhà của đám Ngũ hầu ;

 

Mộ là chiều hôm, trời sắp ngă hoàng hôn.

Khinh yên, khói mỏng, có sách ghi là thanh yên, khói xanh.

Liễu là từ ước lệ, liễu được dùng như biểu tượng đón đưa trong ngày chia ly.

Hàn Hồng viết câu cuối rất xuất sắc, khói nhẹ len vào vào nhà đám “Ngũ hầu”, hàm ư rằng đám Ngũ Hầu cần nghe động tĩnh từ nơi điện ngọc là biết giờ “xả cảng”, v́ từ sáng tới hoàng hôn họ đành chịu ép xác. Nhịn thèm.

 

Ư thơ toàn văn có thể diễn đạt thêm như sau: ”Thành đô ngày vào xuân, Gió xuân thổi về, nhưng trời trở gió không như lệ thường. Hoa rụng rắc đều khắp mọi nhà. Đất nước một màu buồn v́ thương nhớ hai mẹ con người liêm sĩ. Trong vườn ngự uyển cũng một màu tang. Lệnh nghiêm cấm ǵn giữ đạo đức làm người được thi hành nghiêm ngặt. Chiều tối, lệnh xă cảng được ban ra. Trong cung vua đèn đuốc bật sáng sau khi trời chớm hoàng hôn, khói len lơi vào nhà đám Ngũ Hầu, họ hiểu, nay là giờ họ được phép ăn chơi."

Bản dịch quốc âm

Hàn thực
Thành xuân hoa rắc nhà nhà
Gió đông Hàn thực liễu tà ngự viên
Chiều buông cung Hán lên đèn
Ngũ hầu tiền sảnh khói len, lờ mờ (?)
Laiquangnam

Việc đă rơ. Mọi người bất cứ ai, trong ngày Hàn Thực đều phải tỏ ḷng tôn kính qua hành động. Việc “ xả cảng” chỉ bắt đầu khi trời sập tối mà thôi. Sau giờ xả cảng chuyện ǵ xảy ra? Nơi lầu xanh khách dập d́u, lúc này là lúc mà thanh lâu có nhiều khách sộp, ngày vui chơi trọn vẹn với họ. Họ là đối tượng mà Tú Bà nhắm đến. Đi cho đông mà trong túi không tiền phỏng có ích ǵ cho Bà Tú? Ai cũng tuân thủ vào ban ngày để tỏ ḷng thành. Ḿnh phải làm ǵ? Nhịn mấy giờ chết sao? Những tên khốn nạn!.


Đó là thông điệp thứ nhất mà tiền nhân ta đă truyền đạt và dặn ḍ một cách kín kẻ.


II-2-Nguyễn Du tại sao lại viết “ ngày ngày Nguyên Tiêu"

Nguyễn Du là người Việt nam. Ông có người mẹ yêu mất rất sớm, rồi sau đó lại mồ côi cha. Hơn ai hết, ông hiểu mẫu tử, phụ tử t́nh thâm. Giá mà c̣n cha c̣n mẹ để được hầu hạ sớm trưa, cho dù ḿnh có phải hy sinh các lạc thú khác ông cũng làm. Ông khác xa những thuộc tính của những ai như AN CHI ( y chang!) hay Huệ Thiên, người cao ngạo khi tự cho ḿnh có Huệ giác bằng trời ( thiên).

Ngày Nguyên Tiêu là ngày rằm tháng giêng. Ngày trăng tṛn đầu tiên trong năm mới. Ngày này được gọi là ngày của trời. Đó là ngày, vua trời lâm triều và ban phúc cho thế gian. Ngày xưa các v́ vua phong kiến tại các nước chịu ảnh hưởng văn hóa Tàu xem ngày này là ngày tốt để khai trương công việc ;từ cá nhân cho đến đến quốc gia. Sau giao thừa là một thời gian nghỉ xả hơi dài ngày, có khi cả tháng giêng không chừng. Ngày Nguyên Tiêu là ngày vua chọn “động thổ”, khai trương việc trị quốc của ḿnh. Đây là ngày vua ban áo mũ cho các quan tân trạng, thiết tiệc để đăi các tân trạng và cùng bàn việc nước với các quan đại thần. Ngày này cũng là ngày các quan đến các tân đ́nh (như kiểu nhà khách công vụ của chính phủ bây giờ) để nhận lệnh bổ nhiệm về nhiệm sở mới. Buổi sáng, nhà vua chọn giờ nước lớn (thủy triều lên), độ 9 giờ sáng gọi là giờ hoàng đạo. Sau tiệc ngắn ban ngày, các quan ai nấy ra về. Họ làm ǵ sau đó? Rủ nhau đi “xả xui” trước khi chia tay. Bạn bè mấy khi gặp mà không bù khú cùng nhau. Lúc này các quan bà có ghen cũng đành chịu phép. Các quan đi đâu? Ngày xưa đâu phải như ngày nay, chỗ vui rất ít . Kỹ viện, Thanh lâu, nơi đó họ được nghe các cô đầu đàn ca, múa hát. Họ đi từ A đến Z. Họ là các khách xộp của Bà Tú. Do v́ sự kém hiểu biết của người giảng, cứ dựa vào hai lệ xưa, thấy đông, hay là đông, lấy cái ” ta “ muốn thay cho cái muốn của Tú Bà. Tú bà khấn chứ ta nào có khấn thay cho Tú Bà đâu. Nguyễn Du viết “ ngày ngày Nguyên Tiêu’, giúp học sinh chúng ta hiểu ngày nguyên tiêu vào thời điểm sau mười giờ sáng, đó là lúc mà Tú Bà thu gom được tiền nhiều nhất. Tiền đến do từ các quan lại của triều đ́nh, bởi lẽ ngày đi nhậm nhiệm sở, vợ con họ đă chuẩn bị chu đáo, tiền bạc rủng rỉnh nhiều, nay cứ tiêu cho đă rồi hăy tính. Thế c̣n ban đêm ngày Nguyên Tiêu th́ sao? Như đă nói bên trên, ngày Nguyên Tiêu là ngày của Trời, Trời ban phúc lộc cho người vào ngày này. Ngay từ thời Trần của ta, ngày nguyên tiêu các chùa làm lễ rất lớn, mục đích để các con đưa cha mẹ đến chùa, lúc này vào đêm khí hậu dịu lại, các cụ bà có thể đi xa được. Ngày này là ngày các con làm đẹp ḷng cha mẹ.


Đêm đêm thắp ngọn đèn trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con

Cadao Việt .


Lẽ nào chỉ một đêm thôi trong năm, vào giờ khắc linh thiêng nhất lại nỡ bỏ mẹ già, chịu chui đầu vào động đĩ!, họa hoằn chỉ có một người, Huệ Thiên!.
 


III- Kết luận

Tiền nhân ta vô cùng độc đáo, chỉ một câu thơ kín kẻ khiến cho người dă tâm cũng ḷi mặt chuột. Nguyễn Du giúp chúng ta hiểu được ḷng người Việt “ Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu” là một phát biểu đúng cho đoạn thơ trên. Bản thân thi ca ngôn ngữ đă phức tạp. Ngôn ngữ Việt ngữ của Nguyễn Du càng phức tạp hơn. Khi lạm bàn một câu Kiều xin thận trọng, đôi khi một câu tưởng dễ chê, tưởng như lư luận chắc cú như câu “Đêm đêm Hàn Thực, ngày ngày Nguyên Tiêu.” Cũng đủ cho ba ông “học giả” Huệ Thiên, ĐDA, NQT sụp bẫy. Lầm chết! Đọan mở đầu, Nguyễn Du lập thuyết, đă bao nhiêu người Việt đọc măi c̣n chưa thấy được cái hay và chiều sâu của tiếng Việt huống hồ ǵ một người Tàu cho dù họ ở Việt nam bao lâu chăng nữa (11)

Trăm năm trong cơi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn ḷng.
Lạ ǵ bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong t́nh cổ lục c̣n truyền sử xanh
.
 


IV- Ghi Chú và tâm t́nh :

1-Ông anh Lê xuân Lít từ nay ngủ yên nhé!, cho dù tôi không biết ông là ai nhưng tôi xin chia sẻ những ǵ mà ông giận dữ khi An Chi ví Nguyễn Du là “ ngựa kư ngựa kỳ “. Chính sự giận dữ và lên tiếng của ông đúng lúc khiến tôi “ kính ông ". Tôi đă theo dơi cuộc bút chiến nẩy lửa giữa ông và An Chi. Về sau An Chi (Huệ Thiên) phải mất b́nh tĩnh và dùng “ngôn ngữ đường phố “ với ông. An Chi phải rời chuyên mục “chuyện đông chuyện tây” và anh Nguyễn Công Thuần ( ĐHSPII ban VH, Huế), tạm thời đảm trách. Những ǵ mà tôi viết ra đây chỉ là một phần tội ác của An Chi với văn hóa dân tộc trong các sách của ông ấy. Nay nhân đọc lại những ǵ liên quan đến đại thi hào Nguyễn Du, người sắp được LHQ tôn vinh vào danh nhân văn hóa thế giới vào năm 2014-2015, sau Nguyễn Trăi,  tôi thấy ḿnh cần phải lên tiếng vậy thôi.

2-Tôi thực sự không sao hiểu nổi, An chi tấn công vào văn hóa cội nguồn của dân tộc Việt qua một số bài viết khi giữ mục Chuyện đông chuyện tây gom lại trong 7 quyển sách. Trong hơn 15 năm, một ḿnh một chợ, phà hơi độc vào độc giả “cực kỳ dễ thương “ của KTNN hiện nay, không những độc giả trong nước không phản ứng mà ngay những người có bằng cấp tiến sĩ, Giáo sư Đại học trong nước rất mực thán phục và khen ngợi ông ta. Tôi không hiểu sinh viên của các vị Giáo sư ấy nghĩ ǵ về kiến văn của quư vị. Các vị nay đang đứng lớp tại trường ĐH KH và XHNV, tp HCM ( link 2,3,4,5 ), đọc kỹ lại sáu tác phẩm của Y dùm, rồi gợi ư cho các em SV ban cử nhân giúp t́m ra sự thật trong các buổi seminar. Đó là không khí đại học. Nay An Chi c̣n sống, nếu như quư Giáo sư khi làm thinh có nghĩa là đă tự nhận ḿnh không đủ kiến văn để tranh luận. Sợ bươi ổ kiến lửa?. Y chết rồi th́ Giáo sư tranh luận vói Ai?. Có khi lên tiếng quá chậm, nhiều người nghĩ ḿnh hèn không chừng.



V –Tham khảo và chú thích.


1-Vân Hạc Lê Văn-Hoè, Truyện Kiều Chú-Giải, nxb Quốc học thư xă, Hanoi, in lần thứ nhất 1953
 

2-http://www.bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/4324-1528-633760906824606372/Hoi-dap-Dong-Tay/Nhan-xet-cach-nhin-cua-tac-gia-Nguyen-Te-Nhi-ve-so-do-cua-Tu-Hai.htm
 

3-http://nhavantphcm.com.vn/an-chi-nha-nghien-cuu-thu-vien.html
 

4-http://petrotimes.vn/news/vn/hoc-gia-an-chi-giai-dap/khong-biet-thi-dung-noi.html
 

5-http://petrotimes.vn/news/vn/hoc-gia-an-chi-giai-dap/truoc-nguyen-du-tau-da-co-loi-loi-chau-ngoc.html


6- laiquangnam sẽ viết về Nguyễn Du và tác phẩm do một người Tàu tại Việt nam phóng tác theo danh tác Đoạn trường tân thanh ( Kiều ) mà Nguyễn Đ́nh Diệm dịch ra "Việt ngữ " thời VNCH trong một bài khác kỹ hơn. Với chứng cứ rơ ràng khó mà chối căi được. Tác phẩm này đă gây tác hại khôn lường cho văn học Việt nam từ hơn nửa thế kỷ nay.

Tại Việt nam hiện nay, ông Phạm Đan Quế, viết quyển đối chiếu “ Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện, Nguyễn Du và Thanh Tâm Tài Nhân”, nxb VĂN HỌC 2000 là một việc đáng chê trách. Tôi sẽ quay lại trong các bài viết sau.
 

7- Nguyễn Thạch Giang, Truyện Kiều, Nguyễn Du, nxb ĐH &THCN,1975
 

8- Chính điều này tại Việt nam có đến 4, 5 quyển cùng có tên là Kim Văn Kiều lục được người Việt chuyển từ văn vần ra văn xuôi bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm, trong đó có tác phẩm của ông Tàu mà tôi đề cập ở (6)


9-Sách đă dẫn sđd (lvh,tr232,233,234)


10- Tôi chịu trách nhiệm khi chê ĐDA dại dột, bởi ông viết từ “dịch” này. Chắc ǵ Nguyễn Du đă dịch của Thanh Tâm Tài Nhân? hay có khi Nguyễn Du đă dùng cùng văn bản gốc Vương Kiều Nhi truyện của Từ Học Mô trong truyện Từ thị Hải ngưng tập, đời vạn lịch năm thứ 5, khắc bản vào năm 1577, gồm 800 chữ như Thanh tâm tài nhân hay không. Ai trong chúng ta đă đọc được bản của Thanh tâm tài nhân gốc tại Thư viện Hoa Kỳ hay tại thư khố Nhật Bản? Không biết mà quy tiền nhân ta dịch lại nếu không dùng từ “ dại dột “ th́ dùng từ ǵ bây giờ?

 
11- Xin xem lại trên talawas, Đổng văn Thành việc bài so sánh giữa Nguyễn Du và Thanh tâm tài nhân.
[驥] kư là con ngựa đi ngày ngàn dặm nhưng nay đă thuần,
[朝朝 triêu triêu được hiểu như ngày ngày, ban ngày. Triêu là sáng sớm.


12- Lê xuân Lit, ông được mệnh danh là nhà Kiều học. Ông là một tác giả sau 75 đă có quyển sách, đúng hơn là quyển Đại từ điển về Nguyễn Du, rất dày trên dưới 2000 trang rất nổi tiếng một thời. Hằng năm cứ đến ngày mất của Nguyễn Du th́ ông luôn làm đại lễ tưởng niệm đại thi hào tại nhà ḿnh.


Thân ái.


Quê người ngày 30 chờ đón Giao thừa.
Laiquangnam.

 

 

________

Kỳ tới :
-Tội ác và sự xuẩn ngốc của Phạm Đan Quế 
-Sự thật về quyển Vương thúy Kiều truyện do Nguyễn Đ́nh Diệm dịch thời VNCH có phải của Thanh tâm tài nhân sáng tác chăng?

____

 

a2a : Tác giả Lê Văn Lít

Băi rác

  

 

www.art2all.net