LAIQUANGNAM
Laiquangnam giới thiệu
Cẩm Sắt 錦 瑟
và Nguyễn Du, Việt Nam qua bài Cẩm Sắt
Phần này gồm 8 phần nhỏ. “Nỗi ḷng biết tỏ cùng ai, Khúc đau đứt ruột ám hoài tim ta …” ( Lẫy Kiều ) Cẩm sắt tại phần một, bạn đă đọc và đă được một chút thư giăn v́ lối dẫn giải rất ư là tài tử và một bản dịch thất ngôn rất là tào lao của laiquangnam. Tại sao bạn lại không để lại lời mắng hắn? Hắn đáng bị mắng bởi các từ công cụ rất quan trọng nhưng lại không phải là từ mượt mà dành cho thi ca tỉ như “vô đoan, thử, th́." Vô đoan là bỗng nhiên, khi không, nay không thấy xuất hiện trong bản dịch sang thơ Quốc âm của hắn. Đó là các từ rất quan trọng, từ khoá, hay mắt thơ. Chính từ “vô đoan, thử, th́ ” này sẽ giúp Bạn Hiền hiểu đoạn Kim Kiều tái hợp vô cùng xuất sắc của Nguyễn Du sau này. Laiquangnam cho rằng đoạn Kim Kiều tái hợp, trong khúc đàn cuối mà tiên sinh Nguyễn Du mô tả, đó là một đoạn có diễn biến nội tâm rất xuất sắc của Kiều. ”Xin lỗi Tiên sinh, con không đủ đẳng cấp để khen Tiên sinh, nhưng mà con không nói ra th́ các thế hệ em con sẽ không quan tâm t́m đọc 200 câu thơ cuối trong Đoạn Trường Tân Thanh (Kiều) từ câu 3007 đến câu 3234 của Người“. ** Ḍng Thơ Đường của Lư Thương Ẩn thuộc loại “cao cấp “ bởi v́ ông đă thi ba lần mới đậu tiến sĩ. Lư Thương Ẩn thuộc về cả hai trường phái Nghệ thuật vị nhân sinh và nghệ thuật vị nghệ thuật. Đó là là hai trường phái đối kháng nhau. Phái Lư coi ông như con, họ đă dẫn dắt ông lúc ông chưa có ǵ và Phái Ngưu lúc này ông đă lận lưng được cái bằng tiến sĩ do sự giúp đỡ của phái Lư, và ông về làm rể phái này, ông thân cư thê từ đây. Đó là chuyện của văn học sử. Lư Thương Ẩn sau khi đậu tiến sĩ ông c̣n theo học lớp “ hậu tiến sĩ”; lớp này dạy cách cho người theo học viết biểu và tấu. Kiến văn của những người này vô cùng thâm hậu. Thâm hậu để đá gị lái nhau, bởi lính tôi viết bài biểu mà các quan anh “đếch hiểu ” thế không là thú sao. Tàu mà xỏ lá th́ hết biết. Ông là người phụ trách viết biểu tấu chuyên nghiệp, báo tâu về triều đ́nh hay dâng lên quan tướng quốc, thế nên ngôn từ của ông dùng nhiều điển từ và điển tích. Gia Long bổ nhiệm Nguyễn Du vào chức quan văn thuộc bộ Lễ, Lư Thương Ẩn là người tốt nhất mà Nguyễn Du có thể học tập ngôn từ cùng cách viết. Nguyễn Du đă biết cách để đi ngang về tắt, chính v́ thế mà Gia Long thăng chức cho tiên sinh vù vù. Lư do nào để Nguyễn Du xử dụng đến hai lần thơ của Lư Thương Ẩn, một ngoại lệ trong Kiều. Lần thứ nhất cho chàng Thúc sinh dùng câu “ con tằm đến thác vẫn c̣n vương tơ “ bài Vô Đề IV, và lần này Kiều nắn gân Kim Trọng, một viên tân quan - không chừng Kim Trọng đă có tiến sĩ - với bài Cẩm Sắt rất khó chịu.
Lư Thương Ẩn thường viết thơ thất ngôn bát cú đa sắc,
đầy ẩn dụ, cả ḍng vô đề và ḍng hữu đề nên khiến cho quư vị dịch thơ “
đôi khi ú ớ “. Bạn thử vào Google search sẽ thấy rât hiếm người dịch bài
này. Đa phần các bản dịch đều là dân viết biên khảo hay sách giáo khoa
nên buộc họ họ phải đối mặt với bài này để có mà dạy cho sinh viên ḿnh.
Lư ra người dịch hay giới thiệu phải dẫn ra cho được tại sao Nguyễn Du
lại cố t́nh cho nàng Kiều đánh đàn vào lúc tái hợp Kim Kiều để làm giàu
cho văn học nước nhà; thế mà Họ lại né bằng cách thay v́ làm như thế, họ
lại đội Hán thái quá, họ cho chúng ta đọc một bài văn học sử thời Tàn
Đường và tiểu sử của Lư Thương Ẩn cùng với chi tiết đại bịa về cây đàn
Sắt* quư giá, Cẩm sắt. Sắt này tiếng Tàu. Sắt là một loại đàn của Tàu.
Sắt Việt ngữ là thứ kim loại, Tàu viết là thiết. Họ viết lời dẫn miên
man chiếm đến 70-80 % bài viết, qua Google search bạn đọc thử, phí giờ.
Bạn thử tưởng tượng 50 dây, mỗi hai dây có khoảng cách một cm th́ đă có
49 khoảng có nghĩa là 49 cm cộng với hai biên cho 5 cm nữa vị chi cây
đàn rộng hơn nữa mét. Ngày xưa kỹ thuật đúc sắt thô sơ, cây đàn như thế
có thể nặng đến mức cả anh và tôi cùng hè nhau bưng chưa chắc nhắc nổi,
thế nên lời bàn rằng sách này sách kia rơ ràng đại xạo. Ba Tàu là chúa
xạo về điển tích, xạo vừa vừa để cho người đọc c̣n thở, c̣n tin chớ xạo
quá ai chịu cho nỗi. Đàn Sắt 50 dây chỉ là một khái niệm ẩn dụ. Thôi bỏ
qua chuyện bịa nầy đi . Nguyễn Du thừa biết hai câu cuối của bài thất ngôn bát cú luôn là hai câu hay nhất. Với các cao thủ th́ không phải là các câu “chơi chữ “ ở các cặp (3,4 ) và (5,6 ) là mắt thơ, bởi đây là đoạn gia công cần thời gian, trong khi hai câu cuối th́ thuộc về thi tài, công phu là của nghệ nhân (Đỗ Phủ), câu kết là của người nghệ sĩ (Lư Bạch). Cũng như ḍng tứ tuyệt hay tuyệt cú, câu thơ hay nhất luôn là câu cuối cùng, đây là câu tự nhiên để tiếng ḷng “thoát ra “ và mang tinh nhân loại, càng có tính nhân loại càng “xuất sắc “. Tính nhân loại là tính người được mọi người chia sẻ và đồng t́nh. Tiên sinh dùng thủ thuật “ḿnh không nói ra nhưng bài thơ nguyên tác đă nói ra dùm ḿnh”. Người đọc thơ ḿnh phải hiểu “ư ḿnh muốn nói ǵ “. Hóm hỉnh và dễ yêu. Ở hạng “ thấp thủ” th́ ḍng thất ngôn bát cú được dùng trong việc “xướng hoạ thơ Đường vào ngày Nguyên Tiêu“, các “cụ” cố rót công phu vào hai cặp (3,4) và ( 5,6), tôi tạm gọi là “ḍng thơ ĐườngThạch Chè Hiển Khánh” mà bản doanh trước 75 nằm ở cuối đường Phan Đ́nh Phùng của SG xưa. Hiển Khánh bán thạch chè. Thơ Đường của tôi, Hiển Khánh, công phu như thế th́ thạch chè của tôi càng công phu hơn. Tại Việt Nam hiện nay sau 75, có hội thơ Đường UNESCO mà hội viên đa phần là các “thầy hưu trí”. Thơ Đường thất ngôn bát cú ngày nay được các giới kinh doanh quảng cáo chuộng (giáo sư NHQ đă có nhận xét như thế) và dùng thơ Đường để tặng cho nhau, đó là cách chửi của thế kỷ 21 mà ta đă thấy trên mạng internet. Dĩ nhiên ta phải trừ ḍng thơ Đường cổ của tiền nhân ta hay của những người làm công tác văn học, dịch thuật buộc họ phải làm. Nguyễn Du nào có nhắc 2 câu đầu,
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền và hai câu cuối đâu
Thử t́nh khả đăi thành truy ức nhưng bạn đă đọc của tôi (Nguyễn Du ) đến 3000 câu th́ làm ơn phải hiểu rằng tôi biết bạn đă đọc toàn văn của Lư Thương Ẩn rồi. Nguyễn Du tiên sinh đă khéo đến mức nào, tiên sinh không nói hết ra nhưng nếu ta không hiểu nó tồn tại th́ ắt ta không đến đích. Ví dụ dấu không, tuy không viết ra như sắc huyền …nhưng ai cũng hiểu rằng nó tồn tại. Vậy mà Đoạn Trường Tân Thanh (Kiều) tại hai câu cuối Nguyễn Du viết như vầy :
Lời quê chắp nhặt dông dài
V́ sao lại sói đầu?
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp
II. ĐIỂN TÍCH TRUYỆN KIỀU, NXB Đồng Tháp lược ghi : “Qua lời yêu cầu tha thiết của Kim Trọng và "hai thân cũng quyết theo một bài"... Kiều đành phải chấp thuận, và cả hai làm lễ động pḥng. Nhưng rồi cũng trong đêm động pḥng "bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi t́nh xưa", Kiều lại tủi thẹn, than thở phận ḿnh, khiến chàng Kim phải an ủi "lọ là chăn gối mới ra sắt cầm", nên chuyển sang xin Kiều cho ḿnh thưởng thức ngón đàn ngày xưa. Kiều vâng lời "phím đàn d́u dặt tay tiên" với:
Khúc đâu đầm ấm dương hoà, (câu 3199 đến 3204) * (THEO ĐIỂN TÍCH TRUYỆN Kiều, NXB Đồng Tháp)
Câu “Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh?” Ấy là ai?, là tôi “tôi / I” hay Ấy là You, là …là; You ngày nay nên được chấp nhận trong ngôn ngữ Việt bởi You là một từ mà Việt ngữ đang cần. Việt ngữ chúng ta ngôi thứ hai phức tạp quá. You là xong chuyện. Khỏi anh tôi, bạn tôi, cô chị phiền quá!. Hồ Điệp? hay là Trang Sinh?, Kim Trọng à! You phải xác định You là Hồ Điệp thảnh thơi chập chờn hạnh phúc hay You là Trang Sinh, mà Trang Sinh vào thời điểm nào mới được, hay chỉ là anh Trang Sinh đang nằm mơ lúc vào tản sáng mà thôi. Nguyễn Du viết ” đơn giản như là đang giỡn”. “Ông Già” Nguyễn Du rất hóm hỉnh. KimTrọng chàng ơi, chàng có hiểu rằng “Trang Sinh hiểu mộng mê hồ điệp”. “Hiểu mộng” đấy nhé. Hiểu là buổi sáng sớm, lúc này thời gian ngắn lắm đấy, lúc này đă tàn giấc ngủ rồi. “Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp”. Hiểu Việt ngữ là biết rơ “mộng” ấy thực sự là ǵ, Mộng “mêhồđiệp”. Thật ra Trang Sinh đang ghen và tiếc nuối do tuổi đời chênh lệch, vợ ḿnh đẹp quá mà, trẻ quá mà. Chết phí. Nên nghĩ ông đă viết câu chuyện huyền thoại. Giấc Mộng là điều quỷ ám vào tâm ḿnh khiến ḿnh trằn trọc không sao ngủ được. Câu Kiều này “Ấy là Hồ Điệp hay là Trang Sinh?” là như thế. Người xưa thật kinh. Không nói ra, tuy anh là tân quan tiến sĩ Kim Trọng, anh phải hiểu là như thế không khác được.
Rồi đến câu Việt ngữ, “Ấy hồn Thục Đế hay ḿnh Đỗ-Quyên?”, Ấy hồn …. ,
ấy tính từ chỉ định, hay Ấy là you. Ấy hồn là you,hay là hồn ai?, Và
ḿnh là tôi, hay là “ḿnh “, ḿnh là chính you. Mới từng ấy đă đủ điên
rồi. Kim Trọng chắc điếc quá. Đă nói Kim Trọng thuộc dạng “tư ếch đi
Saigon” nên ta thông cảm cho anh, đâu sao. Nàng Kiều sau 15 năm bầm dập
nay đă cáo lắm rồi . Nàng Kiều chơi luôn Ấy hồn Thục Đế ? hay ḿnh
Đỗ-Quyên?. Hồn Thục Đế ? hay ḿnh Đỗ-Quyên, rất kỳ. Hồn và ḿnh là hai
phần của thân xác không chừng. Gác lại. Câu chuyện Thục Đế Câu chuyện Tàu, Đỗ Quyên-Đỗ Vũ Đỗ Vũ là vua nước Thục. Miết Linh là quan tướng quốc Thục, y có người vợ rất đẹp. Nhà vua bị người đàn bà đẹp hớp hồn, bà đẹp không những v́ đẹp trời cho khuôn mặt mà c̣n do v́ son phấn y trang, ngôn ngữ cũng như cách giao tế. Đàn bà đep đă có chồng xưa nay mới hút hồn đàn ông trồng trộng tuổi như Thục đế. Gái mới lớn chỉ có ngoại h́nh là đẹp thôi c̣n các nét kia đều khó hấp dẫn mấy cụ này. Mấy gă già dịch mới mơ gái dưới 20 chênh tuổi với ḿnh, dạng mê gái chứ không phải là dạng chiêm ngưỡng nhan sắc người phụ nữ như đám có quyền hành kia. Đỗ Vũ là tay sành điệu, ông có tam cung lục viện gái trinh thiếu ǵ. Vua Tàu mà. Chắc chắn tam cung lục viện thiếu “dạng” quư bà như vợ Miết Linh. Cơ hội đến, nước Thục bị lũ lụt, Đỗ Vũ giao cho tướng quốc Miết Linh đi giải quyết. Ở nhà, ông vua này cù riết cũng thắng lợi. Miết Linh xong việc, về nghe thuật lại chuyên nhà, nổi ghen đ̣i giết vua với binh quyền đang có trong tay. Bà Vợ nghe rét quá, bà khuyên ông hăy từ từ coi chừng bị tru di tam tộc. Miết Linh cho phải. Bà khuyên hăy giả đ̣ không nghe, không biết, không thấy. Và đừng nổi điên để rách việc, mọi sự bà sẽ tính. Bây giờ đă lỡ. Rằng tôi chút phận đàn bà. Bà nói cho đỡ quê. Ông có muốn như xưa e cũng không được, vả lại ông cần ôm tôi lúc nào mà chả được. Miết Linh mềm ḷng. Bà Vợ đem hết tài “hèn” thổi vào vua, thuyết phục Đỗ Vũ hăy truyền ngôi báu cho Miết Linh th́ y sẽ làm thinh và danh dự nhà vua được bảo toàn. Điều cần là thiếp muốn luôn được hầu hạ Bệ Hạ, trọn đời phục vụ và chăm sóc ngài. Mờ mắt, khi Miết Linh thề giữ kín và cấp đủ các quyền lợi cho hai người. OK. Vua dẫn vợ người ta vào rừng từ nay yên tâm hú hí. Nhà vua nói trớ với quần thần rằng ông muốn tu thiền, bởi đời người ngắn ngủi quá. Nay ông mới ngộ được điều như thế. Nước của tiên nhân! Các quan nài nỉ, kệ mẹ nó, nhà vua nghĩ. Ông phải sướng trước cái đă. Miết Linh tuy mất vợ nhưng được ngôi báu và có được cả tam cung lục viện. Vợ Miết Linh là người hớp hồn Vọng Đế nhưng không hớp hồn Miết Linh. Sợ cây kim trong bọc, sợ nhà vua sẽ đổi ư, sinh loạn, bởi các trung thần sẽ t́m đến thăm, xúi dại. Miết linh vội cắt bỏ lời cam kết. Nhà vua đói và chết. Thục Đế lúc lâm chung ngộ ra điều khôn dại, hồn không thoát. Không biết trời xui đất khiến ǵ mà sau khi lụt dứt, có loài chim kêu “ḱ quấc!, ḱ quấc!” xuất hiện nhiều trong các bụi rậm tại các vùng lấp xấp nước, họ bèn gọi loài chim mới này là Đỗ Quyên, tên tục của Thục Đế, cho rằng ứng với tiếng kêu thương nhớ nước của ông. Đúng là Thục Đế “ sướng con ….mù con mắt“. Thật ra, ông nghĩ ḿnh dại khờ khi đổi chác cùng Miết Linh nên ông kêu “kỳ quá! kỳ quá!” chứ Kỳ Quấc cái cóc x́ ǵ. Kim Trọng chàng ơi, hồn chàng đang ở đâu? trước hay sau khi được sex với vợ người. Đó mới là phần Việt ngữ bề nổi và bề ch́m là câu nguyên tác “Vọng đế xuân tâm thác Đỗ Quyên “. Xuân tâm là sức xuân hừng hực trong ḷng Vọng Đế. “thác” là gởi vào, Việt ngữ có từ kư thác. Gởi vào “Đỗ Quyên “ . ==> hay ḿnh Đỗ-Quyên. Khó trả lời vô cùng cho Kim Trọng và cho cả người đọc. Đọc đoạn Kiều bạn đọc cho kỹ , “ấy ḿnh Thục Đế hay là Đỗ Quyên”, th́ bạn thử đoán xem KimTrọng lúc nghe tiếng đàn th́ muốn ḿnh rơi vào thời điểm nào?. Thục Đế lúc mà Miết Linh dẫn lính đi trị thuỷ hay là lúc trắng tay như Đỗ Quyên. Nguyễn Du chữ nghĩa ác thiệt. Tách hẳn Thục đế và Đỗ Quyên làm hai nhân vật với sự khoái lạc thân xác khác nhau. Tôi đọc trên mạng câu này “Trong ṿng năm phút mà người thao thao bất tuyệt lư giải về một vấn đề cho ai đó hiểu mà người nghe này vẫn không hiểu th́ chính y cũng đếch hiểu vấn đề mà chính y đă nói “.Tôi nghĩ rằng ḿnh cũng “ đếch hiểu “ tiền nhân ta có ư kiến sâu sắc đến đâu khi mà tiên sinh cho Kiều gảy đoạn nhạc này. Chúa ơi !. Nàng Kiều nay không c̣n là Vương Thuư Kiều lúc 16 tuổi nữa bạn nhé. Kiến văn lời nói đă đỉnh đạt lắm rồi, cái nào cần nói th́ đă nói, cái nào không cần nói th́ chính chàng Kim Trọng phải hiểu lấy. Bạn đọc lại từ câu Kiều thứ 3007 đến câu 3234. Bạn sẽ thấy diễn tiến tâm lư cực kỳ phức tạp giữa nhân vật chính là nàng Kiều và các nhân vật phụ những kẻ đă yêu nàng. Bạn đọc kỹ đi, tôi mách bạn hai câu cuối, nói ǵ ? thông điệp ǵ ?
Thử t́nh khả đăi thành truy ức Câu 8-Chỉ thị đương thời dĩ vơng nhiên’,vơng là chán nản, Tạm dịch nghĩa như sau, th́ ra chuyện như thế, ngay lúc này đây nó chỉ để lại trong cho ta sự chán nản mà thôi . Tại sao lại chán nản (vơng) .Th́ ra t́nh yêu giữa lứa đôi chỉ là các cuộc đuổi bắt. Cái ḿnh muốn th́ nó không đến với ḿnh, cái ḿnh “muốn xù” th́ nó cứ “ a đầu vào “ phát bực.
© Thử t́nh khả đăi thành truy ức Ư thơ hết sẩy! Đấy bạn thấy đấy, th́ Lư Thương Ẩn đă nói rơ như thế rồi.
© 7- câu 7- 此情可待成追憶,
© 8-Câu 8- 只是當時已惘然。 => Đợi T́nh xưa, khuất vơi vơi / ( t́nh đang ở bờ kia, là nghĩa thật của từ “Thử t́nh”, thử là bờ bên kia, đối với thử là “bỉ ” bờ bên này). Đó bạn thấy sự quan trọng của chữ “Thử” chưa. Bây chừ cố nhớ, t́nh chơi sát ḿnh./ (Chỉ thị: đương thời, là bờ nên này, ứng vào chính tôi lúc này.) Lần nữa sự quan trọng của chữ “Th́”. Có lẽ Vương Thuư Kiều mà nói được tiếng Quảng Nam hay tiếng Huế th́ Kiều sẽ nói liền “Mụ nội nó!”,
=> Nhắc chi dĩ văng t́nh đau đáu,
Thử t́nh khả đăi thành truy ức
==> Đợi đi, đến lúc t́nh lui đă ..,
“Nỗi ḷng biết tỏ cùng ai, Bây giờ mời bạn đọc một bài giới thiệu về bài thơ của Lư Thương Ẩn trong một tinh thần nghiêm túc hơn. Bản dịch sang thơ Quốc Âm ở phần I tào lao, bạn làm ơn quên nó đi. Tôi làm thế bởi v́ Nguyễn Du nhà ḿnh một khi đă chọn thơ ai để làm điểm tựa th́ ông này phải tài hoa hay cao tay lắm, không như ai đó cho rằng Nguyễn Du dịch thơ Đường. Một phát biểu vừa ấu trĩ vừa là “kẻ đốt đền” trong văn học. Hy vọng với bản dịch này sẽ gợi hứng các bạn phần nào trong việc bắt tay vào phân tích tâm trạng nàng Kiều vào khúc đàn sau cùng này. Sau khi Kim Trọng và Vương Thuư Kiều biết thế nào là “ôm ấp thật sự “đối tượng mà ḿnh yêu trong bấy lâu nay .Và nàng Kiều các bước kế tiếp của nàng là ǵ, đi tu?... 1-Nguyên tác
錦瑟
Cẩm sắt. 3.1-Thơ của Lư Thương Ẩn, người có sức học hậu tiến sĩ, hậu tiến sĩ bởi ông dù đă đỗ tiến sĩ ông vẫn c̣n bỏ công sức ra học lối hành văn tại triều đ́nh để viết “biểu “, tờ tŕnh, kiến nghị, tỏ thái độ cho các “chef/boss “ của ông vốn là các quan đầu tỉnh, v́ vậy thơ ông đẻo gọt và chữ nghĩa “rối rấm khiến ḿnh rất dễ lạc đường”. Cách đẽo gọt chữ của Đỗ Phủ không sao bằng ông được cho dù Đỗ Phủ gáy “chọn chữ phải độc, cả một đời” thật nhiều. Nguyễn Du quan tâm đến Lư Thương Ẩn bởi chức vụ tại triều đ́nh Huế của tiên sinh có lẽ gần gần như thế; điển h́nh là vai tṛ của Nguyễn Du trong việc tiếp các đoàn của vương quốc Tàu. Chính v́ vậy mà ta thấy Nguyễn Du đọc và am hiểu thơ của Lư Thương Ẩn sâu sắc “khác thường ‘ và tiên sinh phải “chẻ chữ nghĩa lại” như ta thấy ở bài trước (link cùng tên) khi laiquangnam đề cập bài này trong đoạn Kiều, nay th́ cũng không mấy lạ lẫm nữa. Tài hoa t́m tài hoa là vậy. Để tránh hiểu cố tật của nhiều người Việt trẻ ít Hán, đọc Việt ngữ gặp thuật ngữ là lập tức đoán ṃ, họ có thể hiểu thuật ngữ “thương hải “/ thương hại, hay thương hải là biển xanh như xưa nay sách vở đă ghi như thế. Họ được giảng trong lớp “ thương hải biến vi tang điền “/biển xanh biến thành ruộng dâu’ , nghe qua cũng có cái lư của nó. Thật ra biển xanh là biển có sức sống, nó phải chuyển hoá từ giai đoạn sống khoẻ sang giai đoạn biển chết, biển thương, biển có màu sắc tối tăm rồi mới thành ruộng dâu được, đâu thể đốt giai đoạn. Tuy nhiên trong Việt ngữ biển xanh thành ruộng dâu th́ quá đúng bởi người Việt có thể chưa dùng khái niệm màu thương bao giờ. Tuy nhiên theo điều đă dẫn, th́ thươnghải (viết liền) là từ đối với lamđiền (viết liền ), cả hai đều là màu sắc của đất trời chuyển hoá theo thời gian. Từ màu sáng (bừng sức sống) là lamđiền rồi chuyển dần sang màu chết (tàn tạ, buồn bă thê lương ), thươnghải. Ngoài ra, điểm đặc biệt mà ta có thể nhận ra là bên cạnh các từ đầy chất bác học của Lư Thương Ẩn như trên, ông c̣n dùng các từ nối như vô đoan, thử, và chỉ thị khiến bài thơ này kéo người đọc thơ ông phải sa đà vào “ lư và sự“. 3.2-Vô đoan là bỗng nhiên, tiếng kêu kinh ngạc lẫn chút đau buồn khi hoài niệm, khi “chợt nhớ”. Ta có thể dịch là “ô hay”, “chu choa” vv và vv; laiquangnam không bao giờ nghĩ có từ “trang trọng“ và từ "nhà quê” trong thi ca bất luận là thể thơ nào cho dù dùng nó trong việc dịch thơ Đường như là tṛ “vui thôi mà“. Ngôn ngữ vốn b́nh đẳng, ăn hay thua là do người dùng và tâm trạng của người nghe họ có thấy “ đă “không mà thôi.
3.3-Thử là bờ bên kia, mé bên kia, mé bên tê, mé bên ấy, có nghĩa là
không phải phía bên đây, chỗ mà ḿnh đang đề cập. “Thử” là từ đối với “bỉ“,
bỉ là bờ bên này, bờ bên ni, bờ bên đây. Bên nớ là không gian kỷ niệm các mối t́nh xưa thời ḿnh c̣n trẻ “ dung dăng dung dẻ “, thuở c̣n “ngơm“/ngon cơm. Bên ni là không gian thực tại, t́nh nay tính ra chẳng c̣n chút ǵ vướng lại, nhớ càng thêm buồn, thêm nản mà thôi. Chu choa là buồn. Khó có một từ cùng ngữ nghĩa như “chu choa” của hai sắc dân này nói về một miền khác. Chu choa là âm t́nh cảm rất thật, từ con tim bật ngay ra đầu môi, khác với các từ khác, từ tim phải lên đầu rồi mới bật ra cửa miệng. Chu choa ơi là “trời đất ơi” trong nam, từa tựa như thế. 3.4 Xét hai câu 5,6 trong cặp đối
滄海月明珠有淚,
Ta thấy ǵ ? Ta dễ sụp lỗ chân trâu tại đây do v́ trong đời sống hàng ngày ta đă vốn đă quen, lam là màu xám nhạt của khói, qua câu hát nay vẫn c̣n đọng lại trong kư ức Người Việt hải ngoại, “ khói lam buồn như muốn nhuộm thời gian”, bài “Chiều làng em, Trúc Phương“. Màu khói lam từ bếp nhà ai và Lam c̣n là màu ngọc thạch. Cả hai đều không đúng theo Lư Thương Ẩn, Nguyễn Du và Hàn Mạc Tử (Vườn ai mướt quá xanh như ngọc, bài Ở Đây Thôn Vỹ Giạ). Lam có nhiều sắc độ do sự pha trộn giữa hai màu xanh lá của ruộng lúa với màu xanh da trời trong một ngày quang đăng. Do lam là sự pha sắc giữa hai màu này dưới tác động chói chan của ánh sáng mặt trời nên ta có giải màu kéo từ màu xanh lá cây của ngọc đến màu da trời nhàn nhạt. Sắc đậm ở hai bờ biên của lam là màu đồng rỉ và màu xanh bầu trời. Khi nào ta có màu lam, khi màu “chạm vào ṿm lá“ Lư Thương Ẩn giúp ta h́nh dung qua câu này
藍田日暖玉生煙
Vậy màu lam (trong lam điền) chỉ xuất hiện khi mà trong bầu trời thoả
cho ba điều kiện,
Hai câu cuối là hai câu mà Nguyễn Du không nhắc đến trong đoạn Kim Kiều
tái hợp, nhưng nó bàng bạc đâu đó trong ḷng Kiều một tâm trạng như vầy
. Hy vọng rằng cái anh chàng Kim Trọng “khù khờ và chậm tiêu “này không sao đọc nổi những ǵ đang len vào tâm hồn cô, trừ Bạn Hiền hoạ may khi được laiquangnam nhắc lại hai câu cuối của bài Cầm Gấm của LưThương Ẩn. Đó là mục đích khi laiquangnam bỏ công viết bài thơ đường cát đường phèn này. Sướng ích ǵ mà giới thiệu thơ Tàu Hán vào lúc này khi mà ḷng người Việt đang giận sôi gan với bọn “ Tàu lạ”. Nhớ lời hịch của đức Thánh Trần Hưng Đạo mà buồn cho thế hệ ḿnh. Bạn Hiền th́ sao ? Xin mời đọc bản dịch sang thơ Quốc Âm
4.1-Lục bát
4.2-Luật thi
Xin hăy đọc lại Kiều đoạn này để hiểu nội lực “lược“ thơ Tàu của tiền
nhân ta, nh́n sơ qua là biết con ruồi bay qua trước mặt ḿnh là ruồi đực
hay ruồi cái rồi, xừ Tàu nào làm thơ hay, xừ Tàu nào làm thơ dở, không
như lớp sau hiện nay bạ đâu cũng dịch, hể thấy Đường là xáp vào cho dù
dở ẹc. Khác nhau giữa thi hào và “thi sỡi” là vậy, tuy cùng là họ “thi”
cả, vậy mà. Dễ sợ và đáng tự hào thay khi nghĩ về Nguyễn Du. Bạn đă đọc bài thơ Cẩm Sắt của Lư Thương Ẩn nói ǵ rồi. Đă tạm chia sẻ cùng laiquangnam nội lực của tiền nhân ta rồi, vậy mà cách đây hơn 60 năm, Lê Văn Hoè nổi đ́nh đám qua tác phẩm có tên là “Truyện Kiều Chú Giải”, đă được trong nước tái bản với lời giới thiệu trang trọng. Không biết ông đă ăn thứ ǵ mà đă viết về Nguyễn Du như sau “Có lẽ v́ mượn tứ của thơ Đường,nên văn-lư (Nguyễn Du) mơ hồ, viễn vông khó hiểu .” tại trang 715 khi ông b́nh giảng sáu câu sau.
Câu 3199: Khúc đâu đầm ấm dương ḥa Đoạn văn tả đờn này h́nh như tác giả đă dịch thoát ư ở bài thơ Cẩm Sắt của Lư Thương Ẩn đơi Đường trong đó có các câu
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp Nghĩa là ông Trang Chu buổi sáng c̣n mơ ḿnh hoá bướm. Vua Vọng đế gởi ḷng thương tiếc th́ xuân vào chim Đỗ Quyên; bể rộng trăng sáng coi như ngọc hạt châu có nước mắt; núi lam điền mặt trời nắng ấm, ngọc như lên hơi.
Có lẽ v́ mượn tứ của thơ Đường, nên văn-lư (Nguyễn Du) mơ hồ, viễn vông
khó hiểu.”
V. Google search giùm bạn Vài Bản dịch sang thơ Quốc Âm khác
Bản dịch của giáo sư Trần Trọng San--
Đàn gấm gồm năm chục sợi liền,
Vậy khi ông dịch câu
th́ ai chê ông, rằng laiquangnam hỏi ông đă hiểu từ thương hải như thế
nào? và lam điền như thế nào?. “Lối” thường là một thuộc tính của vài
người tự cho ḿnh là nhất khi có một hai tác phẩm được xuất bản. Ông bớt
chút chê người xưa được không ? Vài chú thích thêm đọc cho biết 1) Cẩm sắt: 錦 瑟.Tên một loại đàn cổ. Đàn vẽ hoa văn đẹp như gấm gọi là cẩm sắt .“Sắt “ là một từ Tàu đừng lầm với từ Việt cùng âm .Sắt là một loại đàn có 25 dây vậy thôi. Sắt trong Việt ngữ, sắt là một loại kim loại , Tàu gọi thứ kim loại này là thiết.kư tự khác chữ này ,nhiều nét hơn. Đàn của Lư Thương Ẩn có đến 50 dây ,nghĩa là gấp đôi b́nh thường.
2) Trang sinh – hồ điệp: Trang Sinh là cách gọi khác của Trang Tử. Nhà thiết kế tư tưởng Lăo Trang, người Việt ḿnh rất lậm về nhân sinh quan của ông này. Trang Tử nằm mộng thấy ḿnh hóa bướm (hồ điệp) được bay nhởn nhơ vô tư lự, giật ḿnh tỉnh dậy, ông tự hỏi không biết ḿnh là bướm hay bướm là ḿnh. Riêng trong câu chuyện giả chết thử vợ của ông được giới “ vợ bỏ “ nhiệt t́nh ủng hộ. Sự thật là ông tiếc của trời. Ông ghen với người vợ trẻ của ḿnh sau khi ông chết. Ông là ông vua ích kỷ, bởi một thi sĩ xứ tôi đă viết . “Của trời trăng gió kho vô tận, cầm hạc tiêu dao …. “ Chết rồi c̣n ôm được đâu mà giữ hả ông?
3) Vọng đế - Đỗ quyên: -Vọng đế có tên là Đỗ Vũ, là vua nước Thục nên c̣n gọi là Thục đế. - Đỗ quyên: c̣n gọi là chim Từ qui hay Đỗ Vũ. Nhiều người đồng hoá Đỗ quyên (Tàu) là con chim cuốc v́ có tiếng kêu “quốc quốc (Việt ). Chim “ quốc quốc “ là chim quốc quốc, một loại chim đặc thù của Việt Nam. Có nơi gọi đỗ quyên Tàu là con chim tu hú của Việt Nam ta. Chim Quốc của Việt Nam khác với Đổ Quyên của Tàu v́ mỗi phong thổ mỗi vùng địa dư có một giống chim mang có các đặc tính khác nhau, khác về màu lông lẫn tiếng kêu. Sự đồng hoá chỉ làm cho chúng ta vọng Hán và đội Hán thêm chi cho nặng đầu, ví dụ hoa gạo là hoa đặc trưng của người Việt miền bắc mắc mớ ǵ thay nó bằng từ mộc miên. Cần dứt khoát trả từ “đỗ quyên” là một loại chim Tàu về cho Tàu và Quốc Quốc là một loại chim đặc thù hoàn toàn của Việt Nam. Chim quốc của ta là một loài chim luôn luôn nhớ nước và luôn tự vấn tại sao nước non này lại ra nông nỗi thế này. Mỗi con chim quốc hiện nay là hiện thân, là một kiếp khác của người Việt nào đó, khi mà trong đời sống làm người, họ đă không làm ǵ cho đất nước ḿnh, để cháu con họ có thể ngảnh mặt nh́n trời như các dân tộc khác. Chim Quốc của ta không nên gắn nó với loài chim sến Đổ Quyên của Tàu , v́ ham vợ thuộc hạ mà tiêu đời. Chim quốc của ta là là loài chim gắn chặt vào bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan
Nhớ nước đau ḷng con quốc quốc Học tṛ người Quảng Nam đọc quốc nghe như quốc /quấc / quất , và gia gia /da da thành ra câu như sau :
Quất! quất! là ǵ?
Thơ Việt đọc, nghe và thấy với ba tâm trạng khác nhau Roi cần phải đánh vào thân thể thằng con trai hư đốn chỉ biết ăn và nhậu, nước mất đến nơi, văn hoá bị ô nhiễm ngập tới lỗ mũi, vậy mà nhậu với nhẹt, than đời là bề khổ, đời người có bao nhiêu mà phải lo, lo chi cho mệt, có lo cũng không giải quyết được chuyện ǵ, người ta họ giỏi bằng trời c̣n không ăn thua huống ǵ ḿnh, người cha cầm roi đọc cho con nghe Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo rồi khóc.
Da! Da! là ǵ ? Thương nhà mỏi miệng, cái, da! da! Da da là tiếng kêu đau của người bị đánh. Tại sao phải có tiếng roi vọt ngọn đ̣n mỗi khi người Việt nghĩ về nước nhà. Đau! Da da, đó c̣n là tiếng kêu khi người con gái bị mẹ tát vào mặt, tối ngày chỉ biết lo ăn và lo diện, lo cho đẹp, xem thân thể của mẹ cha cho là của trời cho mang thân đi làm món quà trao đổi cho bọn chệch Phương Bắc, suốt đời chỉ mơ nghĩ đến Hán. Bánh đúc trao đi bánh ch́ trao lại, uổng công mang nặng 9 tháng 10 ngày, trao ‘hán” nọ đặng “hán” kia là lối sống của bọn chúng mày sao? . Người Quảng Nam quê tôi đọc “hán” nào cũng là “háng” cả. Da ! da!, lớn lên là chân dài, cởi đồ cho bạn Tàu săm soi rồi đánh cho đau hơn. Ô nhục, hèn ǵ hơn 200 năm trước, bà Huyện Thanh Quan chạnh buồn khi đi ngang qua Đèo Ngang, bây giờ gần gần Vũng Án, Nghệ An không chừng,
Dừng chân đứng lại trời non nước. Gần Hán và ôm Hán th́ ráng chịu chứ than thở mùi Hán nỗi ǵ.
4) Lam Điền:
Tên một huyện vùng núi ở tỉnh Thiểm Tây. 5) Khả đăi (可 待) : Khả : Phải nên, đáng để, có thể, có lẽ, h́nh như...Đăi : đợi. Khả đăi: có thể đợi, đáng đợi., khả là có thể ….
6) Đương th́ (當 時): Đang lúc ấy, đang thuở ấy. Theo tài liệu của giáo sư đại học Vĩnh Sính th́ dịch “Vơng nhiên” với nghĩa: không có ǵ, không biết ǵ cả, ngơ ngác như mất hồn, phôi pha (?) Bạn Hiền hăy lên internet, dư th́ giờ th́ bạn đọc chơi qua Google search “ cẩm sắt“, Lư Thương Ẩn, dạo chơi cho biết .
Đọc toàn văn đoạn Kim Kiều tái ngộ. Bạn nghĩ đi rằng ai đă “ đă hơn ai . Đoạn này là laiquangnam đoc dùm bạn những ǵ mà laiquangnam đă thấy trên mạng internet. Đôi lời bàn thêm về bài thơ ”Cẩm sắt” "Bài thơ này khá đặc biệt v́ “Nhiều nhà phê b́nh đă cho thơ của Lư Thương Ản có phong cách lăng mạn, cấu tứ kỳ công, t́nh ư sâu kín, sử dụng chuẩn mực nhiều điển tích giàu h́nh tượng và nhiều ẩn dụ khó giải mă. Điển h́nh là bài thơ “Cẩm sắt”. Bài này được cho là bài thơ hay nhất và khó hiểu nhất của ông. Bởi vậy , Vương Sĩ Trinh -nhà phê b́nh đời Thanh- đă đưa ra nhận xét: “Nhất biến cẩm sắt giải nhân nan”(Bài thơ cẩm sắt hiểu sao đây?). Đồng thời trong Vi lô thi thoại, nhà phê b́nh Ngô Kiều cũng đă có ư kiến: “Con đường ư tứ của Lư Thương Ẩn đă thâm sâu ảo diệu mà ông c̣n đặt lời để chẳng ai c̣n biết được ư ông. Bởi thế thơ ông đến nay đă 700 năm mà vẫn ít người biết đến”. Những lời nhận xét trên thật xác đáng. Mặc dù nhiều người thuộc ḷng các điển tích và các từ ông đă sử dụng nhưng để hiểu chính xác dụng ư của ông th́ không ai dám tin chắc.Tự thân của nó khiến cho nhiều người đă giảng nghĩa khác nhau . Thật vậy, mới khởi đầu vào câu thơ thứ nhất đă gặp khó khăn ở “vô đoan”, có người đă dịch: cẩm sắt là một thứ đàn không có đầu, trên có 50 dây (Ông Trần Trọng San). Một số người khác lại dịch với nghĩa “không hiểu v́ sao, do đâu, không rơ manh mối (Các ông: Huỳnh Minh Đức, Ngô Văn Phú, Phùng Hoài Ngọc. v.v...). Tiếp đến hiểu mộng cũng thế. Có người dịch là mộng sớm, giấc mộng buổi sớm (Trần Trọng San, Vĩnh Sính...). có người hiểu hoặc dịch là “Tỉnh mộng” (Đào Duy Anh, Huỳnh Minh Đức...). Đến hai câu kết:
“Thử t́nh khả đăi thành truy ức. Giáo sư ĐHSP SG Trần Trọng San dịch xuôi Mối t́nh đẹp đẽ thời hoa niên ngày nay không t́m được nữa. Ta hăy để cho t́nh ấy thành ra kỷ niệm êm đềm. Nhưng tiếc thay thuở xưa, t́nh ấy đă là một mối t́nh tuyệt vọng làm ta đau khổ chán chường.
Và ông đă dịch thơ:
Ông Huỳnh Minh Đức (dịch giả Trung Quốc triết học sử, dạy Hán văn trường
ĐHVKSG khoảng 72,75 ) đă dịch xuôi
Dịch thơ:
Ông Nguyễn Văn Xung (dạy văn đại học): Cũng hiểu theo ư trên và đă dịch
thành thơ:
Ông Ngô Văn Phú (dịch giả 300 bài thơ Đường): Dịch thơ:
Dằng dai t́nh ấy nên đeo đuổi
Ông Phùng Hoài Ngọc (tác giả Thi ca từ Trung Hoa, dạy Trung văn đại học
Cần thơ sau 75 ): VIII. Liệu nàng Kiều có đi tu không? (1) Nàng không đi tu, mời bạn đọc lại câu “Sư đà hái thuốc phương xa “ bài “Tầm ẩn giả bất ngộ” của Giả Đảo tại chính trang mạng này.
Cám ơn sự cộng tác của Daotran. Laiquangnam.
____
** Truyện Kiều
|