Laiquangnam giới thiệu thơ tiền nhân
LONG THÀNH CẦM GIẢ CA
Long Thành Cầm Giả Ca là bài thơ chữ Hán hay nhất trong số 250 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Năm 2015 là năm UNESCO thuộc Liên Hiệp Quốc kỷ niệm 250 năm ngày sinh của của thi hào Nguyễn Du (SN 1765), một danh nhân văn hoá thế giới.
Nguyễn Du đă quá nổi tiếng với Đoạn Trường Tân Thanh ( Kiều ), th́ nay với bài thơ Long Thành Cầm Giả Ca rất hay này chưa được lớp trước tôi khảo sát tường tận nên nó đành chịu lép vế trước bài T́ Bà Hành của Bạch cư Dị qua bản dịch sang thơ Quốc Âm tài hoa của Phan huy Vịnh (Thực ?) . Long Thành Cầm Giả Ca nói ǵ trong đó. Đó là những gịng nhật kư được tiên sinh giữ rất kín kẻ. Trong một xă hội trả thù vượt tính người như thời Gia Long lên ngôi, lần đầu tiên xảy ra trong lịch sử của dân tộc Việt, một vương triều mang luật của kẻ thống trị áp đặt lên dân bị trị đó là luật nhà Thanh lên đất nước của chính dân Đại Việt của ḿnh. Nhà Thanh đô hộ dân tộc Hán Tàu trên dưới 400 năm. Điều đó cho thấy sự khắc nghiệt của bộ luật này. Luật khiến ai cũng sợ. Do đó bài Long Thành Cầm Giả Ca tuy chứa nhiều dữ kiện giúp ta giải mă về thái độ t́nh cảm của tiên sinh với các chế độ đương thời từ thời Lê, Tây Sơn rồi Nguyễn Ánh. Rằng trái tim ông thuộc vào ai nhưng lại được tiên sinh Nguyễn Du giữ rất kín kẻ? Các thế hệ đàn anh tôi thời VNCH họ đă làm việc giải mă này và được Talawas đăng lại toàn văn số Văn đặc biệt về Nguyễn Du (1). Bài Long Thành Cầm Giả Ca được nhiều tác giả trong số Văn ấy đă được đem ra làm luận cứ. Tuy nhiên trước đây không có một ai làm sáng tỏ bản văn quan trọng này nên nhiều luận cứ dựa vào nó tôi cho là quá yếu ớt và hời hợt. Một thiếu sót thật đáng tiếc. Nay với chút kiến thức văn học rất hạn chế của ḿnh v́ văn học vốn không phải là sở trường của ḿnh, nhưng trộm nghĩ ḿnh như một sĩ quan “delot” cứ ghi dấu “địch quân“ trước đă, phần c̣n lại của chiến trường là việc của các vị chỉ huy, các phi công ném bom, của pháo thủ và của lực lượng bộ binh xung trận giải quyết dứt điểm. Chúng ta có lẽ cũng cần làm làm quen với việc tự phân công ra hiểu phần nhỏ và tự giải quyết nó trong một vấn đề về văn học lớn hơn. Làm được bước nào hay bước nấy.
Loạt bài viết dưới đây được xem như là quà tặng cho các “chú em tôi” thuộc thế hệ 1, 5 tại Hải ngoại. Hy vọng rằng các chú em 1, 5 của chúng ta sẽ đỡ chút nhọc nhằn khi lật lại hồ sơ Nguyễn Du và giải quyết dứt điểm. Cũng nhân đây, Tôi xin bày tỏ tỏ ḷng tri ân tấm ḷng của hai vị, một là chị Đặng Lệ Khánh và hai là anh Trần Kiêm Đoàn, cả hai đều đă “ nổ đom đóm mắt” đọc lại và cho lời động viên cùng nhận xét tốt về việc làm này của ḿnh.
Loạt bài Long Thành Cầm Giả Ca, Nguyễn Du này gồm 4 phần
Phần 1. Hiệu khảo bản văn Long Thành Cầm Giả Ca của Nguyễn Du Bản chữ Hán đă hiệu khảo và bản dịch thơ của laiquangnam
Phần 2 –Những điều chưa biết về nội dung bản văn. Trong đó có phần giả mă về nội dung của “Khúc Cung Phụng”
Phần 3 Các bản dịch đáng chú ư theo các trường phái khác nhau.
Mong rằng với loạt bài này Bạn Hiền sẽ t́m được câu trả lời được một phần nào các câu hỏi sau đây, câu hỏi mà lớp đàn anh chúng tôi đă đặt vấn đề trong văn học.
1- Tại sao Nguyễn Du trong đời ḿnh không có một câu phê phán Tây sơn? 2- Nỗi buồn phiền sâu lắng của ông là ǵ ? 3- Tại sao ông chán nản trong khi đă chịu ra làm quan với tân triều Gia long ? 4- Tại sao Nguyễn Du lại dồn nổ lực của ḿnh cho việc viết thi ca bằng chữ nôm vào đoạn cuối đời sau khi đi sứ Trung quốc về?. 5- Tại sao ông lại chọn nhân vật Vương Thúy Kiều làm nhân vật trung tâm cho tác phẩm thơ dài hơi của ḿnh sau danh tác này của tiên sinh?. 6- Nguyễn Du khéo léo ra sao, kể từ khi lập ư đồ và phác họa nó qua dàn bài bằng văn xuôi qua lời người dẫn truyện đến việc thể hiện thành công một bài thơ tuyệt tác. Nguyễn Du thừa biết sự trả thù cực kỳ man rợ của tân triều Nguyễn Gia Long khi mang luật Thanh (luật người Thanh đô hộ người Tàu Hán ) ra áp dụng cho chính đồng bào ḿnh người Việt của ḿnh và ông đă kín đáo tự bảo vệ được ḿnh bằng thủ pháp nào?.
Laiquangnam.
~~oOo~~
Bài thứ nhất Phần I
HIỆU KHẢO BẢN VĂN LONG THÀNH CẦM GIẢ CA CỦA NGUYỄN DU
Hiện tại việc truy cập internet dễ dàng và nay chữ Hán đă trở nên tử ngữ bởi chữ quốc ngữ tiến lẹ quá, cộng vào đó có sự tam sao thất bổn trên các văn bản đánh máy không sao tránh được khi ta copy & paste bản văn này từ internet về. Lười cũng là một lạc thú. Một bản văn cổ như bản văn Long Thành Cầm Giả Ca này mà các sách tham khảo không có bản chữ Hán đi kèm đôi khi khiến bạn đọc cảm thấy khó chịu*. Có nhiều từ Việt ngữ xưa khi nghe ta có thể h́nh dung được nhưng cũng có từ nay nó đă trở thành tử ngữ, lư do ta không có điểm tựa, hay v́ từ này nay không c̣n được dùng hằng ngày nên ta thấy thiêu thiếu, kỳ kỳ. Ví dụ: nói sơ phong (gió thoảng) có người biết nhưng nói lương phong (gió nồm hay lại nồm) th́ không mấy ai hay. Nguyễn Du dùng từ rất kỹ và chắt lọc theo từng ngữ cảnh, v́ vậy lương phong và sơ phong rất khác nhau. .
Tại sao lại có sự tam sao thất bổn như thế?
Có bốn lư do sau : 1- Một là, Bối cảnh chính trị và chính sách trả thù tàn bạo của Gialong khi GiaLong mang luật ThanhTriều ( luật đô hộ dân bị trị ) để cai trị chính dân tộc ḿnh. 2- Hai là, Nguyễn Du viết thơ chữ Hán như là trang nhật kư nên sự sao chép bằng tay tác phẩm thi ca của tiên sinh có lẽ phải ở trong ṿng bí mật. 3- Ba là, Việt Nam thời ấy giấy mực đều phải nhập từ China, kể cả việc khắc bản, thế nên sách vở do người Việt sáng tác đều khó phổ biến rộng răi. 4- Bốn là, Chữ Tàu là thứ chữ mà người Việt vay mượn, học chữ nào th́ đọc được chữ ấy, thế nên có nhiều chữ mà tŕnh độ người sao chép hạn chế nên họ đọc không ra, dẫn đến hiện tượng đoán ṃ. Vả lại đọc một văn bản chữ Tàu qua bản chữ “thảo”/ viết láu (tháu) hay chập nét viết chấm phẩy nhất là các chữ nhiều nét gói trong một không gian nhất định nên rất khó đoán là chữ ǵ.
Thật đáng kinh ngạc khi đă có đến 17 vấn đề xuất hiện cần hiệu
chính khi mà bài thơ mà văn bản chỉ có 50 câu. Kinh Khủng việc tam sao
thất bổn trong ḍng cổ văn. Việc chép tay lại bằng chữ Hán của tiền nhân
thật là quá khó khăn để giữ đúng 100% nguyên tác. Laiquangnam nay chỉ
làm mỗi công việc là t́m chữ nào mà ḿnh cho cho đúng nhất trong câu ấy
trong hai nhóm bản văn về bài Long Thành Cầm Giả Ca đă được công bố hơn
50 năm qua tại miền Bắc cũng như tại miền Nam Việt Nam. Việc này nó
không phải là công việc lớn lao to tát ǵ, vậy mà không có ai làm*. Hiệu
khảo là sửa lại cho đúng một bản văn. Việc Hiệu khảo này tôi thấy là cần
thiết bởi v́ giá trị văn học của bản văn này.
Laiquangnam dựa trên nguyên tắc sau để làm công việc hiệu
chính, “cho dù có một chút “khảo” trong này ” đó là laiquangnam đưa ra
lập luận để bảo vệ ư kiến ḿnh và
tuyệt đối không thay từ mới đă có
do lớp đàn anh đă khổ công sưu tầm và sắp xếp. laiquangnam
chỉ chọn từ đă có mà các bậc trưởng thượng đă làm sẵn, sau đó cân nhắc
và đánh giá lại mà thôi. ” Việc này chỉ nhằm làm cho các thi nhân nào
có ư định muốn dịch văn bản này ra thơ quốc âm, một khi ḿnh đă có
trên tay một văn bản tạm gọi là tin cậy
được trước ḿnh khi bắt tay dịch. Việc này laiquangnam thấy cần, một là giúp cho dịch giả sẽ
khỏi tiếc công ḿnh ngồi dịch, hai là nhằm giúp cho thầy cô giáo khi họ
cần giảng cho học sinh, sinh viên của ḿnh hiểu ư một
bản đă dịch thành thơ quốc âm sẽ có được một tư liệu khả dĩ tin
cậy để khai triển rộng ra ư kiến mà ḿnh thấy.
Laiquangnam cho rằng các tác giả sau đây là người có thẩm
quyền nhất về văn bản Long Thành Cầm Giả Ca của Nguyễn Du, đó là các
vị:
4-Lăng Nhân (LN) (1907–2008), Hán văn tinh tuư, nxb NAM CHI TÙNG THƯ, năm 1965, Saigon. Do không có sách gốc, tôi xử dụng bản văn của Ông Lê Văn Đặng công bố tại trang www.viethoc.org. Tại đây có bản dịch xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 19 của cụ Học Canh, ông là người đầu tiên dịch Cầm giả dẫn (một tên khác của bài Long Thành Cầm Giả ca).
Có ǵ đặc biệt trong 4 tư liệu quư giá kể trên?
Sau khi đọc bốn nguồn văn bản về cùng nội dung nói về “người đánh đàn” của Nguyễn Du từ các sách đă được công bố của quư ông bên trên, laiquangnam gom lại chỉ thấy có hai nhóm; nhóm một gồm ba văn bản giống nhau đó là các bản của Đào Duy Anh (ĐDA), Nguyễn Thạch Giang (NTG)- Trương Chính và của Quách Tấn(QT), nhóm hai là bản văn của Lăng Nhân (LN). Bản văn của nhóm hai LN có nhiều câu xuất sắc hơn bản của nhóm I (ĐDA, QT, NTG), tuy rằng bản văn của ông ít được người biết hơn.
V́ sao việc này cần được làm gấp?
Phải có một bản văn gốc hay th́ Bản dịch sang thơ Quốc Âm mới hay được. Có bản dịch nôm hay th́ “trẻ mới yêu thích” và trân trọng văn học và văn tài của tiền nhân ta. Nếu có bản dịch tốt th́ lời b́nh sẽ nhiều vấn đề sẽ sáng ra, và chính yếu là ngôn ngữ Việt của một học sinh cấp hai sẽ giàu hơn do bọn chúng nó phải học thuộc ḷng văn bản. Ví dụ minh hoạ, bài T́ Bà Hành của Phan Huy Vịnh dịch của Bạch cư Dị là một ví dụ cu thể, suy cho cùng đấy cũng là một bản dịch từ thơ của China mà thôi. Minh hoạ một trường hợp khác: Bà Đoàn thị Điểm. Bà đă làm sống măi tác phẩm Chinh phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, người Việt sáng tác, lần này th́ OK.
Nay là năm 2015, năm LHQ kỷ niệm 250 năm ngày sinh của danh nhân văn hoá thế giới : Thi Hào Nguyễn Du của dân tộc Việt Nam.
Tôi thật sự không hiểu, lớp đàn anh của tôi trong giới văn học sử nhiều người đă dựa vào bài này để truy t́m t́nh cảm riêng tư, nhân sinh quan cùng là quan điểm chính trị của Nguyễn Du về ba triều Lê, Tây Sơn và Nguyễn Gia Long nhưng tôi linh tính, “có khi họ cũng c̣n lờ mờ”, "cỡi ngựa xem hoa”; hay là họ "kê vào cho có"?. Đôi khi “ai đó?” trong vai tṛ “một kẻ cả” trong giới văn học sử cũng không nhận ra tính đa dạng ẩn tàng trong bản văn Long Thành Cầm Giả Ca nên lầm tưởng bài ca chỉ nhắc về một người phụ nữ với tinh trạng vật đổi sao dời khiến ḷng “ nhân” của tiền nhân ta Nguyễn Du lay động. Ví dụ minh hoạ: GS. Nguyễn Lộc, Từ điển văn học (bộ mới), Nxb thế giới, 2004, viết tại trang 1122 như sau:“Long thành cầm giả ca là tác phẩm viết về một con người tài hoa một thời, bây giờ nhan sắc tiều tụy, không c̣n ai chú ư đến nữa. Nhà thơ tỏ ḷng xót thương ngậm ngùi của ḿnh, và nghĩ đến cuộc đời dâu bể. . . Bài thơ mang một tinh thần nhân đạo cao cả. ” Phát biểu của giáo sư Nguyễn Lộc thật sự có đúng chút chút nhưng so với phần trọng điểm c̣n lại của bản văn th́ không thấm vào đâu. Bản văn là một trang nhật kư với nhiều nước mắt của một kẻ sĩ ưu tư về vận nước. Đất nước ta chắc chắn sẽ trả giá cho sự suy đồi trầm trọng sau khi Gia Long lên cầm quyền với một sai lầm khó có thể tha thứ, đó là việc tự nô dịch dân tộc ḿnh khi áp đặt văn hoá China lên đồng bào ḿnh và nhiều bí ẩn khác nữa. Đó là việc phục hồi chữ Hán làm chủ đạo trong văn hoá dân tộc. Một tội ác tày trời. Trời không tha đất không dung. Ngày nào Nguyễn Du c̣n được dân tộc thương mến và tưởng nhớ th́ ngày ấy bản án ghi dấu tội ác đội Hán của Gia long vẫn c̣n qua văn bản này cho dù sự đội Hán này của Gia Long chỉ là một sự vô t́nh v́ nhà vua có thể không thấy hết các tác hại của nó kéo dài đến tận thế kỷ thứ 21.
Bài Long Thành Cầm Giả Ca, nguyên tác có 50 câu. Ngay từ
câu “ zero” tức là tiêu đề bài thơ đă lệch rồi, thêm vào đó lần lượt
theo thứ tự các câu 2, 3, 7, 9, 10, 13, 14, 18, 20, 26, 34, 36, 40, 43,
45 là có sự lệch từ cần hiệu khảo, bởi cho dù chỉ một độ lệch rất nhỏ
cũng có thể làm câu thơ mất một phần nào đó độ lung linh của nó khi mà
ta giảng xuôi cho học tṛ ḿnh qua Việt ngữ ngày nay. Các Bản dịch
sang thơ Quốc Âm sẽ bị hạn chế từ và thi luật nên đành hy sinh các từ
“công cụ“ (4*) ấy. Nhưng trong các bản văn dịch xuôi “rất kiệm lời” của
cả bốn tác giả kể trên th́ laiquangnam không thấy mấy ai để ư để giúp
các “ thi nhân tài hoa“ ngày nay rung cảm để rồi từ đó họ sẽ chuyển bản
văn gốc của tiền nhân ta thành một bản dịch với chất giọng quốc âm xuất
sắc hơn những Bản dịch sang thơ Quốc Âm trước, đó là điều mà chúng ta
đang chờ mong. Bản dịch sang thơ Quốc Âm không hay th́ lời b́nh của các
cô thầy giáo sẽ không mấy phấn khích, học sinh sẽ đâm chuộng thơ Tàu hơn
thơ Việt. Ngày nào mà trên xứ ta bản văn này át bản văn T́ Bà Hành của
Bạch cư Dị là ngày đó giới “yêu mến Nguyễn Du. có thể tự xoa tay gác kiếm
được rồi. Dĩ nhiên việc này của laiquangnam là vô nghĩa nếu sau này ta
t́m được văn bản chính tay Nguyễn Du viết. I- Bắt tay khởi sự
Có một vấn đề cần lưu ư
Hiện có hai ngôn ngữ trong cùng một văn bản của Nguyễn Du. Ngôn ngữ “thô“ khi Nguyễn Du dùng trong phần tiểu dẫn và ngôn ngữ ẩn dụ tinh lọc, lời gởi gấm dấu kín nỗi niềm cô đọng trong từng từ trong suốt bài thơ.
Nhớ trong ḍng thơ chữ Hán của ông trong cùng tập Bắc Hành Tạp Lục, Nguyễn Du đă có câu” b́nh sinh bội phục vị thường ly”/ vốn xưa nay tôi rất phục ông và không xa rời (thơ) ông (Đỗ Phủ ). Đó là ư thơ trong một câu thuộc bài Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng Mộ. Câu này có nghĩa là Nguyễn Du phục Đỗ Phủ v́ thơ ông vốn là bậc thầy về phương diện chọn từ, cân nhắc từ trong từng câu thơ của ḿnh. Đỗ Phủ là một thiNghệNhân. Nhưng Nguyễn Du của chúng ta vừa là một thiNghệNhân và thiNghệSĩ. Nguyễn Du rất rành tính láu cá và tư tưởng rất đại Hán của ông này. Bạn chỉ cần đọc hai bài thơ trên là đủ hiểu Nguyễn Du chê Đỗ Phủ là rất kém tư cách đến độ nào (6)
Có hai tiêu đề, chọn tiêu đề nào? Cầm Giả Dẫn và Long Thành Cầm Giả Ca.
Tại sao lại có sự tam sao thất bổn như thế? Tiêu đề Cầm Giả Dẫn, xuất hiện trong sách của LN, kèm theo bản dịch của Học Canh là người sống vào cuối thế kỷ thứ 19. Tại sao lại mất chữ Long thành?
Lư giải
1- Năm 1803, trên dưới một năm Gia Long cầm quyền và cũng cố được ngai vàng, ông lập tức ban lệnh đổi Thăng long (龍) Rồng sang Thăng Long (隆) Thịnh. Mục đích ǵ phải đổi tên một cố đô? Gia Long có vẻ sợ nhân sĩ Bắc Hà và trấn áp họ. Đổi để biết ai khiếp sợ, ai là kẻ c̣n có ư muốn chống lại vương quyền của ông.
2- Nguyễn Du chức ǵ trong thời điểm đó? & thái độ của một Kẻ Sĩ. Năm 1803: đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc, (quan văn, bộ Lễ ). Năm 1805: thăng hàm Đông Các điện học sĩ. Năm 1807: làm Giám khảo trường thi Hương ( chấm đỗ cử nhân) ở Hải Dương, rồi làm Cai bạ dinh Quảng B́nh (chức vụ hành chính, rành luật lệ đương triều ). Năm 1813: thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc, viết tập Bắc Hành Tạp Lục. Có thể năm này là năm Nguyễn Du viết bài thơ này.
Nguyễn Du cố t́nh nhắc Long Thành, Long là (龍)
Rồng trong bài này là thái độ của một Kẻ Sĩ.
Người sao chép lại tiêu đề bài thơ đă giản lược đi thành ra “Cầm Giả
Dẫn” có lẽ v́ sợ nhà cầm quyền nên đă bỏ hai từ Long Thành đi trước nó
chăng?. Long thành là hai từ vô cùng quan trọng với tâm tư Nguyễn Du. Một là thành Thăng Long (rồng bay) rất yêu quư đối với ông bởi suốt khoảng đời ấu thơ cho đến lúc trưởng thành ông đă sống tại nơi đây. “Nguyễn Du sinh năm Ất Dậu (1765), niên hiệu Cảnh Hưng, tại Thăng Long. Tổ tiên ông là Nguyễn Xí là đại công thần khai quốc nhà Lê, do đó sáu bảy thế hệ viễn tổ trước ông đă từng đỗ đạt làm quan. Nguyễn Du thuộc về một gia đ́nh khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. . Thân phụ ông là Nguyễn Nghiễm (1708-1775), đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Xuân Quận Công dưới triều Lê sống vinh quang tại đây” ( theo vi-wikipedia). Măi đến năm 1796_1797, lúc này ông trên 30 tuổi ông mới rời nơi đây để về lại Tiên điền. Ông là người con của Thăng Long (rồng bay).
3- Tiêu đề “Long Thành Cầm Giả Ca” bởi nó quá quen thuộc, là một thương
hiệu quá phổ biến từ trước 45, nói ǵ ngày nay ai cũng biết tên này mà
không mấy ai biết “Cầm giả dẫn”. Thế nên tiêu đề phải là “Long Thành Cầm Giả Ca”, Bài ca về người nữ danh cầm (hay Cầm) tại kinh thành Thăng Long. Đó cũng là tấm ḷng của chúng ta trân trọng Kẻ Sĩ Nguyễn Du.
Vấn đề số 2 Tại câu thơ thứ 2
不記名字 (LN) // bất kư danh tự Và 姓氏不記清 ((ĐDA) // tính thị bất kư thanh
Hiểu chữ kư này ra làm sao ? Kư là nhớ, hay kư là ghi ra giấy ? Trong ngữ cảnh này hiểu là cá nhân phải khai báo cho nhà cầm quyền làng xă làm lư lịch hành chánh cho ḿnh; bất là chẳng. Trên đời không có ai lại không nhớ tên ḿnh cả ( bất kư). Thế nên ở đây được hiểu là không chịu kê tên làm sổ lư lịch. Mục đích là muốn giấu ? Tại sao giấu ? Trong phần tiểu dẫn, Nguyễn Du viết (5) “Người gảy đàn đất Long Thành ấy, tên họ là ǵ không rơ.“, rơ ràng chủ từ trong tiểu dẫn là của người kể chuyện ( Nguyễn Du) nên không có nghĩa là nàng đă quên tên. Tuy nhiên nếu hiểu nàng đă quên tên (trong bài thơ ) th́ giá trị bản văn cao hơn, và cao trào đă được đẩy lên ở một cung bậc khác. Nhưng nếu ta để ư đến câu này “Nghe nói lúc nhỏ nàng học đàn Nguyễn nơi đội nữ nhạc trong cung vua Lê. … Những bản đàn do nàng gảy là những khúc trong cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không ai biết. ” (Quách Tấn) Điều đó chứng tỏ nàng là người có liên hệ gần với hoàng tộc nhà Hậu Lê. Có lẽ nàng xuất thân từ cành vàng lá ngọc. Vào lúc Nguyễn Du viết bài này, 1793 th́ vua Lê Chiêu Thống đă ôm chân giặc về Tàu. Đó là một sự nhục nhă cho hoàng tộc nhà Lê. Nên người đánh đàn đă giấu tông tích. Tốt đẹp ǵ khi khoe ḿnh là dân hoàng tộc của một thời bán nước. Bạn đọc cho hết phần tiểu dẫn sẽ thấy thái độ bất cần đời của nàng th́ bạn sẽ hiểu ngữ cảnh của toàn văn bản. Từ đây nếu bạn chịu suy nghĩ tiếp th́ bạn sẽ thấy mối quan hệ “tương cận “ giữa Chàng thi nhân thiên tài và người nữ nghệ sĩ đánh đàn.
Câu " bất kư danh tự ” phù hợp với khẩu khí và tính cách của Giai nhân Long Thành hơn. Hăy đọc đoạn tiểu dẫn do Nguyễn Du viết như sau :
“…. Không đẹp lắm, nhưng da trắng trẻo, khéo trang điểm, mày thanh, má phấn, áo màu hồng, quần sắc túy, hớn hở có bề phong tao. Tánh lại hay rượu, ưa hí hước. Đôi mắt long lanh không để một ai vào tṛng. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu, nàng uống say vùi, nôn mửa bừa băi, nằm lăn trên đất, bạn bè chê trách, không lấy làm điều.“ (Quách Tấn)
Câu của LN mới là phù hợp ngữ cảnh trong toàn văn bản. Bạn đọc đến lần đánh đàn thứ hai bạn mới hiểu tư cách của người đánh đàn.
Kết luận: V́ lư do trên laiquangnam chọn câu bất kư danh tự (LN) ==> ( Giai nhân) chẳng chịu khai báo tên tuổi. Có thể tôi không đủ thuyết phục bạn, nhưng trong khi chờ đợi bạn “ có lư hơn tôi “ th́ xin bạn hăy tạm thời chấp nhận sự lựa chọn của tôi.
Tổng thể, laiquangnam đang giải mă bài Long Thành Cầm Giả Ca của Nguyễn Du là Người đang viết trang nhật kư kín đáo về đời ḿnh. Đề bài Long Thành Cầm Giả Ca chỉ là vỏ bọc mà thôi. Dân con nhà, là Kẻ Sĩ, nên Nguyễn Du có khẩu khí khác thường. (6)
Vấn đề số 3 1. Tại câu 3 :
獨善阮琴 ( (ĐDA) // độc thiện Nguyễn cầm 獨善 絃 琴 (LN)// độc thiện huyền cầm
Chọn Huyền hay Nguyễn? Huyền cầm là loại đàn dây. Huyền là dây bằng tơ đă được người gia công thành dây đàn. Huyền cầm chung chung không có ǵ gọi là đặc sắc. Nguyễn cầm th́ sao ? Cha của Nguyễn Du, cụ ông Nguyễn Nghiễm là một nhà đại khoa bảng, từng làm tướng quốc. Cụ Cố của Nguyễn Du là Nguyễn Bậc là một trong các cột trụ xây dựng vương triều Lê. Một cận thần của Lê lợi.
Nguyễn Du tự hào về ḍng họ Nguyễn của người Việt. Cha ông, Nguyễn Nghiễm là một trong năm người sáng tác chính về gịng ca khúc, về điệu đàn trong vương triều nhà Hậu Lê. Lê quư Đôn cũng là một người trong số ấy.
Một câu đầy ẩn dụ. Độc thiện Nguyễn cầm: người đánh đàn “Độc thiện Nguyễn cầm“, hay Nguyễn Du là “Độc thiện Nguyễn cầm” ? Ngoài ra đó là một sự tài hoa mà Nguyễn Du đă đưa nó vào ba câu đầu với mỗi câu 4 từ, nhằm tập trung thính lực của người nghe vào bài ca ngay từ lúc khởi đầu.
Ta cùng đọc lại :
Long Thành giai nhân
7-Dư tại (在)
thiếu niên tằng nhất kiến.
(LN),
7-Dư ức (憶
) thiểu niên tằng nhất kiến (ĐDA)
(100%)
9-“Thử th́ (此 ) tam thất chính phương niên” (LN ) Thử th́ đang ở 21 tuổi.
Tạm dịch nghĩa như sau “ước chừng khoảng độ 21. “ Điều này phù hợp với
câu (2) Nguyên tác, 獨善絃琴 bất
kư danh tự, chẳng chịu nói tên th́ làm sao biết chính xác tuổi.
(chọn, 80%)
Vấn đề số 6
4-Tại câu © 10-(X
) (X ) 掩 映 桃 花 面
10- “Xuân phong (春風
) yểm ánh đào hoa diện”
(LN) chọn 100% Vấn đề số 7
13-Hoăn như lương (涼)
phong độ tùng lâm(LN)
Thế nên hoăn như là một tiểu khúc chứ không như trong Đoạn Trường Tân Thanh (Kiều) là một tiếng đàn. Đă là tiểu khúc th́ cần thời gian dài để đàn cho hết một khúc.
6- Tại câu © 14-
清 如
(X ) 鶴 鳴 在 陰
14-Thanh như chích (隻) hạc minh tại âm.
(LN
)
14-Thanh như song (双) hạc minh tại âm. (ĐDA). Song là hai. Tại sao phải là hai con hạc. Hạc là loài chim thiên di. Trống (Chồng) đâu mái (vợ) đó. Hạc là loài sống chung thuỷ nhất trong các loài sinh vật. Chung thuỷ là điều ước muốn của mọi cặp t́nh nhân thực sự yêu nhau kể cả con người. Thanh như song (双) hạc là ước lệ của T́nh yêu. Lư Thương Ẩn trong một bài thơ của ḿnh, ông rất yêu vợ, khi vợ lâm chung ông không có mặt tại chỗ, ông buồn phiền và than rằng, phải chi ông và vợ ông được như đôi uyên ương (tức song hạc ) cùng bay đi bay về với nhau khi trời thu đến. T́nh như thế là tuyệt đẹp. (8*)
Nên tại đây ta hiểu là một khúc t́nh, thay v́ là một âm thanh mô
phỏng như trong Đoạn Trường Tân Thanh ( Kiều ) “trong như tiếng hạc bay
qua” ( Kiều) mà là
Vấn đề số 9
7-Tại câu © 18-(X
) 是 中 和 大 內 音
18-Tận thị (盡
) Trung Ḥa Đại Nội âm (LN)
Tận thị, đúng rồi, bắt tận tay, tận mặt, chính xác không trật đi đâu
được. Chọn 70%.
8-Tại câu © 20-徹 夜 追 歡 不 知
(X )
20-Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu (曉)
(LN)
Truy là là đuổi theo, từ rất quen tai truy đuổi, truy là đuổi. Hoan là
cuộc vui, từ rất quen tai hoan ca, hoan hỷ.
Triệt dạ truy hoan bất tri băo ==> tạm dịch ư, đă tàn đêm mà c̣n theo đuổi cuộc vui mà chẳng thấy đă. Chuyện này xảy ra giữa chốn công khai. địa điểm là Hồ Giám, vị trí Quốc Tử Giám, Hà nội bây giờ.
Do câu 19, từ cuối là đảo, câu 20 là băo. Lấy âm khi ngâm, đảo
(cuối câu 19) => băo (cuối câu 20). Tuy nhiên người ngâm sẽ dùng thời
gian ngừng, ngắt, th́ âm hiểu cũng dễ nghe và dễ ngâm.
* Câu này nằm trong ngữ cảnh 4 câu 19, 20, 21, 22 thể hiện tính cách của người Tướng sĩ người Đàng Trong, Quảng Nam-B́nh Định. Cách chơi này và tính cách này gợi cho ta nhớ khí thế bừng bừng khi tướng lănh người B́nh Định & Quảng Nam tham gia trong hàng tướng lănh năm xưa (1789), nay có thể họ đang ngồi đây, các vị Khán thính giả này, Họ đă từng đánh quân Tàu xâm lược tan tác với một khí thế mà ta khó có thể h́nh dung được trong binh sử. Chơi chết bỏ, đánh chết bỏ “ như thế mới là người Đàng Trong dưới quyền v́ vua rất trẻ, mới trên dưới 30, vua Quang Trung.
23-Hào hoa ư khí lăng công (公)
hầu (LN)
Nguyễn Du có ư khi nhắc đến khách tham dự của Bạch cư Dị nay bị khớp bởi
sự hào hoa của viên chức Tây Sơn. Điển từ Nguyễn Du dùng T́ Bà Hành như
là một “văn bản dựa” v́ nó là văn bản cổ, nhiều người đă biết. Đó là thủ
thuật nén ư mà người làm thơ sau th́ dùng điển từ của người đi trước đă
có tiếng tăm. Đó là một thủ thuật của Đường thi. Chọn 100% Với từ “Ngũ lăng” giúp Nguyễn Du đă mở rộng ư thơ của ḿnh ra khá xa. Bạn có thấy ư tưởng độc đáo khi Nguyễn Du dùng lại từ Ngũ Lăng của T́ Bà Hành. Cùng là một khán giả“ Ngũ Lăng” mà khi bọn Tàu ngồi nghe T́ Bà Hành th́ c̣n hiểu đôi chút, c̣n rục rịch, c̣n ném khăn gấm, thẻ tiền tưởng thưởng, nhưng khi bọn này ngồi nghe “ Khúc Cung Phụng “ trong bài Long Thành Cầm Giả Ca th́ đám khán giả Ngũ Lăng Tàu này lại ngồi “ xếp xương”. Tại sao? Có ba lư do; một là, Khúc Cung Phụng khó nghe quá, nó là khúc nhạc có tầm cao chỉ dành cho người có ưu tư về t́nh yêu tổ quốc. Khúc Cung Phụng là niềm vui, là nỗi buồn, nói xa gần về chuyện nước non, chuyện hết sức to tát chỉ dành cho Kẻ Sĩ, nó không dành cho người b́nh thường chỉ nghĩ đến chuyện vụn văt trong cuộc sống hàng ngày như bọn Tàu Hán kia; hai là, tài năng người đánh đàn giỏi quá, lôi cuốn quá, ba là Quan tướng Tây Sơn lịch lăm quá. Câu số 22-Nê thổ kim tiền thù thảo thảo ==> tiền là phấn thổ hồi hồi phà ra !. “Nê thổ kim tiền” có nghĩa là ‘tiền là phấn thổ”, đó là nửa câu ngạn ngữ mà người Việt xưa hay dùng, “tiền là phấn thổ nghĩa tự thiên kim”, tiền là phấn là bụi đất chỉ có “Nghĩa t́nh “ mới đáng quư mà thôi. Nguyễn Du là người rất tài hoa khi xử lư ngạn ngữ và ca dao Việt ngữ trong các danh tác của ḿnh. Đó là một thái độ của một Kẻ Sĩ học rộng không đội Hán, Vọng Hán, Khớp Hán bao giờ. 9*.
Vấn đề số 12
26-Hoạt tố (活) (做
) Trường An vô giá bảo ((ĐDA) Hoạt tố là tố chất sống. Tố chất Trường An là tố chất sống của
người tại kinh thành. Hoạt tố Trường An vô giá bảo,
tạm dịch nghĩa như sau Tố chất linh hoạt của người tại kinh thành Trường
An là vô giá.
Như đă nói Nguyễn Du là người yêu Thăng Long (rồng bay). Với ông Thăng
Long ( rồng bay ) là nhất, thế nên ông hoàn toàn hănh diện về “Hoạt tố
của con người Trường An” trong ông. Bạn đọc lại phần đầu tiểu sử và tâm
tư ông gắn bó với Thăng Long thành. Bạn đọc ngữ cảnh 2 câu 25,
26.
Tại câu © 34-顏
(X ) 醜 神 枯 形 略 小
34-Nhan xú (醜)
thần khô h́nh lược tiểu (LN) 醜=xú
=xấu quá, xấu tệ. Việt ngữ có từ xú uế.
2. Xú không phải là ngôn ngữ thơ của người xưa trong ngữ cảnh này. Đối
với người phụ nữ b́nh thường Tiên sinh vốn đă tử tế huống ǵ nay đối với
người đánh đàn mà ông vốn đă có nhiều kỷ niệm này. Từ Xú bị lược bỏ
trong câu.
Xét 2 câu, một của LN và một của Đào Duy Anh
誰知便是當年城中第一調 (LN) Thuỳ tri tiện thị đang đương thời thành trung đệ nhất điệu [調]
Tiện là sao? Từ rất quen tai, tiện lợi, thuận tịện, tiện có ư xa gần đă nghe quen.
Điệu [調] là ǵ ? Có nhiều nghĩa. Trong Việt ngữ, có người đồng điệu là người cùng phong cách, và từ điệu nghệ, cô kư điệu. Điệu là cung nhịp.
Ư thơ câu 36 ==> Ai có biết rằng cô đă là người “điệu nghệ” nhất trong thành đă đạt được thành quả như thế vào thời ấy
Sang xét câu của Đào Duy Anh :
誰知就是當時城中第一妙 (ĐDA) Thuỳ tri tựu thị đang đương thời thành trung đệ nhất diệu [妙]
Tựu (就) thị =Đă được là như thế, như thể. Từ rất quen tai, thành tựu, thành là tựu.
Trong câu này có chữ Điệu hay hơn chữ Diệu nhiều.
36-“Thuỳ tri tựu thị đang đương thời thành trung đệ nhất điệu” 誰知就是當時城中第一調 (8) => Đệ nhất nhân!, sắc nước một thời,
Mời bạn đọc lại
_Có người ngồi cuối chiếu hoa?, 34_Mặt gầy, da héo tóc đà sang đông!. Mày phờ phạc, buồn không chải chuốt, 36-Đệ nhất nhân!, sắc nước một thời, Khúc xưa rưng rức lệ rơi, 38 Lắng nghe từng tiếng bời bời ḷng ta. Chạnh ḷng, _ ra!, hai mươi năm trước, Từng thấy Ai chiếu tiệc Giám hồ! Người xưa, thành cũ, _ thuở nao, 42) Bể dâu chợp mắt, nhớm bao ngùi ngùi.
Vấn đề số 15
40-Giám hồ tịch (席
) trung (中)
tằng kiến chi (ĐDA) 40-“Giám Hồ hồ biên tằng kiến chi “(LN)
Ở đây cũng cho thấy ngôn ngữ trong thơ đẹp hơn ngôn ngữ của tiểu dẫn
nhiều, và khác bối cảnh cũng có phần hơi khác chút ít với tiểu dẫn.
Trong tiểu dẫn th́ tác giả đứng lấp ló sau cánh cửa để xem tại đây th́
tác giả thấy rơ hơn, có lẽ lúc này t́nh cảm và sự cố
nhớ ra “ xem ra ai đó nghe chừng quen quen”.
43-Tây Sơn cơ nghiệp nhứt đán tận tiêu vong (LN)
Đây là câu quan trọng nhất trong bản văn của LN. laiquangnam tuyên dương
cụ Lăng nhân Phùng Tất Đắc. Đây là sự đóng góp vô giá trong việc giải mă
t́nh cảm của Nguyễn Du đối với nhà Tây Sơn khi hai từ “ nhất đán “
xuất hiện.
Long Thành Cầm Giả Ca là
“bài ca” là vậy. Khoảng này khá dồn dập, chỉ sau ba đến bốn câu đều đều
gồm 7 từ là đến ngay câu 9 từ. Ta lần lượt gặp tại câu 31 (9 từ), 36 (9
từ), 39 (9 từ), 43 (9 từ). Tại câu 43 hai từ than tiếc “nhất đán”
xuất hiện kịp lúc, đúng lúc, “nhất đán “ đă kết thúc sự lên giọng
bất thường sau đó là các câu thất ngôn (7 từ) cho đến khi hết bài ca. 2. Từ cách nghe nhạc, cách chơi hết ḿnh của quan tướng Tây sơn ngồi nghe đánh đàn vào khoảng đầu thập niên 90 của thế kỷ 18 (1786-1792?) khi họ xem “tiền là phấn thổ, nghĩa tợ thiên kim” hoàn toàn khác với đám tướng “đàn gẫy tai trâu“ thời Gia Long. Các viên chức tân triều không biết ǵn giữ viên ngọc quư lại cho văn hoá dân tộc, một điều đáng lên án. Khúc nhạc đă mất, cây đàn Nguyễn (10*) cũng mất và người chơi đàn cũng mất. Mất sạch rồi. Một tân triều đội Hán lên ngôi. Một tai hoạ được dự báo trước, chính v́ thế mà Nguyễn Du đă năm lần bẩy lượt xin từ quan mà Gia Long không cho. Tuy Nguyễn Du không ra quyết định cho chính sách quốc gia nhưng tham gia vào chính quyền ra chính sách ấy cũng là “dấy máu ăn phần”. Thái độ rất kẻ sĩ của một người “nghệ sĩ” thật là đáng kính. Nguyễn Du chỉ tội nghiệp cho chúng ta là những kẻ sinh sau đẻ muộn không c̣n có cơ hội được nghe bản nhạc hay nhất trần gian của dân tộc này, không c̣n được thấy cây đàn Nguyễn đặc trưng của vương triều nhà Hậu lê 1428 -1800 nữa. Cả người đánh đàn với các kinh nghiệm học từ cấm cung nay cũng không c̣n cùng bản nhạc. Tội ác này cũng lớn như tội bán nước vậy.
3-Xem thử danh sách quan tướng Tây Sơn tham dự lần ấy là ai? Là danh tướng Trần Quang Diệu, là đô đốc Lộc cộng với nhân sĩ Bắc Hà thuộc cánh Ngô Gia Văn Phái và người ẩn sĩ Nguyễn Thiếp.
Trấn thủ Long Thành lần sau là ai vào thời Gia Long? Đó là bọn Lê Chất,
Nguyễn Huỳnh Đức cộng với tên " đầu ḅ “ Đặng Trần Thường. Đặng Trần
Thường là kẻ đă ḷng dạ nhỏ nhen đă dùng roi đánh chết một văn tài lỗi
lạc nhất của đất nước thời ấy. Chắc chắn rằng cái chết của Ngô Thời
Nhiệm đă gây cho những người từng là bạn thân của ông có ảnh hưởng đến
Nguyễn Du. Đó là anh ruột ông, tiến sĩ Nguyễn Nễ, là anh vợ tiến sĩ Đoàn
Nguyên Tuấn và danh sĩ Nguyễn Thiếp, học tṛ cưng của cha ông. Tất cả họ
đều buồn phiền lẫn phẫn nộ. Những vị này là các quan văn rất gần gũi với
vua Quang Trung –Nguyễn Huệ. Họ đă đóng góp nên trận Đống Đa năm xưa
cùng việc xây Viện quốc âm Sùng Chính, san định và dịch sách chữ Hán
sang chữ Nôm. T́nh cảm đối với Tây Sơn từ các vị này chắc đă tác động
lên tư tưởng Nguyễn Du sau khi ông được triệu ra làm quan cho Gia Long.
Trong đời làm quan với Gia Long ông đă ba lần t́m cớ từ quan mà không
được. Cuối cùng ông tự sát vào năm 1820 khi chối từ uống thuốc, lúc này
ông mới 54 tuổi. ( Xem lại bài Thái
B́nh Mại Ca Giả đă
viết. )
Vấn đề số 17
Tại câu © 45-瞬息百年(X
) 幾 時
II- Ư kiến cá nhân
III- Kết quả
Bản văn Long Thành Cầm Giả Ca đă được hiệu chính. Tạm gọi là bản văn Long Thành Cầm Giả Ca (3), hai bản văn kia là của Đào Duy Anh, Long Thành Cầm Giả Ca (1) và của Lăng Nhân Phùng Tất Đắc, Long Thành Cầm Giả Ca (2).
I- Nguyên tác
龍 城 琴 者 歌 (3)
1. 龍城佳人 2. 不記名字 3 獨善阮琴 4. 舉城之人以琴名 5. 學得先朝宮中供奉曲 6. 自是天上人間第一聲 7. 7-余憶少年曾一見 OK 8. 監湖湖邊夜開宴 9. 9-其時三七正芳年 ok 10. 10-春風掩映桃花面 ok 11. 酡顏憨態最宜人 12. 歷亂五聲隨手變 13. 緩如涼風度松林 14. 清如隻鶴鳴在陰
15. 烈如薦福碑頭碎霹靂 16. 哀如莊舄病中為越吟 17. 聽者靡靡不知倦 18. 18-盡是中和大內音 OK 19. 西山諸臣滿座盡傾倒 20. 20-徹夜追歡不知曉 OK 21. 左拋右擲爭纏頭 22. 泥土金錢殊草草 23. 23-豪華意氣凌公侯 OK 24. 五陵年少不足道 25. 并將三十六宮春 26. 26- 活做長安無價寶 OK 27. 此夕回頭二十年 28. 西山敗後余南遷 29. 咫尺龍城不復見 30 何況城中歌舞筵 31. 宣撫使君為余重買笑 32. 席中歌妓皆年少 33. 席末一人髮半華 34. 34-顏瘦神枯形略小 ok 35. 狼藉殘眉不飾粧 36. 36-誰知就是當時城中第一調
37. 舊曲新聲暗淚垂 38. 耳中靜聽心中悲 39. 猛然億起二十年前事 40. 40-鑑湖席中曾見之 ok 41. 城郭推移人事改 42. 幾處 桑田變蒼海 43. 43-西山基業一旦盡消亡 44. 歌舞空留一人在 45. 瞬息百年曾幾時 46. 傷心往事淚沾衣 47. 南河歸來頭盡白 48. 怪底佳人顏色衰 49. 雙眼瞪瞪 空想像 50. 可憐對面不相知
II- Phiên Âm
Long Thành Cầm Giả Ca 3
1- Long Thành giai nhân 2. Bất kư danh tự 3. Độc thiện Nguyễn cầm 4. Cử thành chi nhân dĩ cầm danh 5. Học đắc tiên triều cung trung phụng khúc 6. Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh 7. 7-Dư ức thiếu niên tầng nhất kiến 8. Giám Hồ hồ biên dạ khai yến 9. 9-Kỳ thời tam thất chánh chính phương niên 10. 10-Xuân phong yểm ánh đào hoa diện 11. Đà nhan hàm thái tối nghi nhân 12. Lịch loạn ngũ thanh tuỳ thủ biến 13. Hoăn như lương phong độ tùng lâm 14. Thanh như chích hạc minh tại âm
15. Liệt như tiến phúc bi đầu toái phích lịch 16. Ai như trang tích bệnh trung vi việt ngâm 17. Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện 18. 18-tận thị Trung Hoà đại nội âm 19. Tây Sơn chư thần măn toạ tận khuynh đảo 20. 20-Triệt dạ truy hoan bất tri hiểu 21. Tả phao hữu trịch tranh triền đầu 22. Nê thổ kim tiền thù thảo thảo 23. 23-Hào hoa ư khí lăng công hầu 24. Ngũ lăng niên thiếu bất túc đạo 25. Tinh tương tam thập lục cung xuân 26. 26- Hoạt tố trường an vô giá bảo 27. Thử tịch hồi đầu nhị thập niên 28. Tây sơn bại hậu dư nam thiên 29. Chỉ xích long thành bất phục kiến 30. Hà huống thành trung ca vũ diên 31. Tuyên Phủ Sứ Quân vị dư trùng măi tiếu 32. Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu 33. Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa 34. 34-Nhan sấu thần khô h́nh lược tiểu 35. Lang tạ tàn my bất sức trang 36. 36-Thuỳ tri tựu thị đang đương thời thành trung đệ nhất điệu 37. Cựu khúc tân thanh ám lệ thuỳ 38. Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi 39. Mănh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự 40. 40-Giám Hồ tịch trung tầng kiến chi 41. Thành quách suy di nhân sự cải 42. Kỉ xứ tang điền biến thương hải 43. 43 Tây Sơn cơ nghiệp nhất đán tận tiêu vong 44. Ca vũ không lưu nhất nhân tại 45. Thuấn tức bách niên tầng kỷ thời 46. Thương tâm văng sự lệ triêm y 47. Nam hà quy lai đầu tận bạch 48. Quái để giai nhân nhan sắc suy 49. Song nhăn trừng trừng không tưởng tượng 50. Khả liên đối diện bất tương tướng tri ( bản do laiquangnam hiệu khảo)
Bản dịch sang thơ Quốc Âm Song thất lục bát
Long thành cầm giả ca
*Long Thành Giai nhân sao sao lạ, Tính danh nàng dấu quá kỹ càng, Một đời diệu thủ Nguyễn đàn 4-Người thành đối nghiệp tặng nàng “ Cầm” danh.
Khúc Cung Phụng ḷng thành luyện sơi, 6-Đệ nhất thanh trong cơiNgườiTa, Thiếu thời nay sực nhớ ra 8-Tiệc đêm hồ Giám, Ai đà ngồi chung?.
Ai ngày ấy ước chừng hăm mốt, Sắc xuân nồng ran tóc mặt hoa. Ngây thơ má rượu ráng pha, 12-Năm cung réo rắt tay ngà phím loan.
13-Khúc Khoan!, ”_ lạiNồm đàn thông nhạc” 14-Khúc t́nh!, ru song hạc vờn mây. 15- Khúc Nghiệt!, sấm dậy từng giây” Ầm ầm bia nát, tan ngày công phu!. ”
16-Khúc Bi!, “ _thương thân tù Trang Tịch, Tiếng quê cha ngâm khúc đời tà”. 17-Chiếu trên chiếu dưới ngà ngà, 18-Khúc đàn đại nội Trung Ḥa là đây!
Quan Tây Sơn ngất ngây ngồi rán… Thả hồn theo, tâm trạng đầy vơi. _Tháo khăn đầu, tả hữu bồi, 22_Tiền là phấn thổ!, hồi hồi… phà ra.
Hào hoa quá!, _Công hầu phải chịu, Đám Ngũ Lăng niên thiếu?, _ nín khan, Nghe chừng băm sáu cung xuân, 26-Đúc nên quốc bảo Trường An một người.
Hai mươi năm, sau ngày tàn tiệc, Tây Sơn tàn, phải việc vào Nam. _Thăng Long, bao bước!_lạ lầm, 30-Trong thành tiệc hát?, _ sao kham, _nỗi ḿnh!
Quan Tuyên Phủ thấm t́nh bày tiệc, Tuyển ca nhi xinh biết đàn ca, _Có người ngồi cuối chiếu hoa?, 34_Mặt gầy, da héo tóc đà sang đông!.
Mày phờ phạc, buồn không chải chuốt, Đệ nhất nhân! sắc nước một thời, Khúc xưa rưng rức lệ rơi, 38 Lắng nghe từng tiếng bời bời ḷng ta.
Chạnh ḷng, _ ra!, hai mươi năm trước, Từng thấy Ai chiếu tiệc Giám hồ! Người xưa, thành cũ, _ thuở nao, 42) Bể dâu chợp mắt, nhớm bao ngùi ngùi.
Ôi!, một sớm, Tây Sơn mất sạch Làng đàn ca nay mót một ai! Trăm năm một tiếng thở dài, 46-Bồi hồi chuyện cũ lệ ai vơi đầy.
Rời Nam về, tóc vây bạc thuếch 48-Trách chi người, nhan sắc không phai. Trừng trừng ai cố nhớ ai, 50-Thương thay! _đối mặt, ngẫm hoài không ra! Laiquangnam
Xin mời đọc tiếp phần 2 Long Thành Cầm Giả Ca qua các bản dịch sang thơ Quốc Âm. Với phần chú nghĩa từ, câu và các bản dịch khác. Đặc biệt có một bản dịch bằng ḍng ngũ ngôn xuất sắc và đầy cảm xúc của một nữ thi nhân.
III- Tham khảo và chú thích
*-Chữ có màu đỏ giúp bạn t́m tư liệu với Google search qua cụm từ màu đỏ này.
** Việc đọc chữ thảo, chữ viết tháu bằng tiếng Tàu của tiền nhân ta rất khó đọc mà không hề sơ sót. Viện Hán nôm HANOI quy tụ cả cử nhân lẫn tiến sĩ trước 1915 thời Nguyễn c̣n sót lại, vây mà có khi c̣n phải lúng túng. Viện sau này phải nhờ giáo sư Đại học Đài Trung, người Taiwan* giúp đỡ, sắp xếp lại văn khố.
*** Có sự trùng lắp các con số chú thích, do v́ thời giờ eo hẹp, xin cảm phiền. laiquangnam sẽ sắp xếp lại sau. Sự lộn xộn này không ảnh hưởng ǵ đến nội dung việc hiệu chỉnh này. Thành thật xin lỗi bạn đọc.
1-Đào Duy Anh (ĐDA), Thơ
Chữ Hán, Nguyễn Du, nhà xuất bản Văn học, Hanoi, 1988, bài Long
Thành Cầm Giả Ca xuất hiện tại các trang từ 189 đến 195. –Sách không có
chữ Hán di kèm
Lưu ư bản của nhà thơ Quách Tấn là bản do Trụ vũ bạn ông sao chụp từ thư viện Paris, Pháp quốc gởi về cho ông. Nội dung bài Long Thành Cầm Giả Ca giống sách của Đào Duy Anh và Nguyễn Thạch Giang.
4- Lăng Nhân (LN), Hán văn tinh tuư, nxb NAM CHI TÙNG THƯ, năm 1965, Saigon. Tôi xử dụng bản văn của Ông Lê Văn Đặng công bố tại trang www. viethoc. org, (5-http://www. jaist. ac. jp/~dnthao/index_files/@Books/CoCam%20NguyenDu. pdf )
4* Văn bản của LN hay hơn văn bản của Đào Duy Anh, cụ Học Canh dịch hay hơn cụ Hoàng Tạo, Hà nội
Bản văn Long Thành Cầm Giả Ca 3, là bản tổng hợp. laiquangnam chỉ mới khắc phục được một phần nào đó mà thôi. Việc cân nhắc để có một bản gốc tương đối là điều cần để văn giới có thể tự t́m hiểu thêm “đàng sau gịng chữ nghĩa từ Nguyên tác”. Laiquangnam hy vọng rằng lớp sau 1, 5 sẽ làm lại chu đáo hơn. Chúng tôi chỉ là sĩ quan “delot”, bắn khói chỉ điểm mà thôi, lợi ích lâu dài là con cháu của các em. Mọi việc phải rơ ràng trắng đen không nhập nhằng.
5*-Các ḍng tiểu dẫn trong bài là của nhà thơ Quách Tấn dịch xuôi từ nguồn Hoa Sơn Trang
6-Nguyễn Du thừa biết Đỗ Phủ đă viết loạt bài Chư tướng, có nội dung ǵ
trong ấy 6*- Ở đây cần lưu ư, trên mạng internet đă có diễn giả giảng qua video rằng “truy hoan” là sex bạo. Trong ngữ nghĩa chính, truy là đuổi theo, hoan là cuộc vui. Truy hoan là đuổi theo một cuộc vui, tỉ như các thính giả trong đêm nghe nhạc này. Nơi diễn ra đêm âm nhạc hát ḥ là ‘Hồ giám, Văn miếu thuộc kinh thành Thăng Long. Tại sao họ lại căm thù Tây sơn đến như thế ? có phải Tây Sơn làm cho nước Tàu bị ô nhục ?.
6** Xem thêm các bài viết Thái B́nh Mại Ca Giả và bài Phản Chiêu Hồn
6*** từ công cụ là các hư từ, các nhóm từ chức năng tỉ như giới từ. liên từ …
7* lương phong, “lại nồm “ là thú khoái trời cho các dân tộc Việt Nam kể cả China. Trong 36 thứ khoái trên đời, Kim Thánh Thán cũng xếp “lại nồm” vào hàng thứ nhất.
7**- Bạn đọc tích Trang Tích bạn sẽ hiểu thế nào là chuyện nước non của Kẻ Sĩ.
8* Nguyễn Du kín đáo dùng từ điệu này
Trong bài Sơ thu cảm hứng kỳ II, Nguyễn Du viết
"Kỳ trung tự hữu thanh thương điệu, Bất thị sầu nhân bất hứa tri" 其中自有清商 調, 不是愁人不許 知 Ư thơ ==> Tự trong thanh (thơ, tiếng đàn) vốn tự nó đă có điệu cảm thương; không phải là người buồn th́ không làm sao biết được.
Nguyễn Du kín đáo đồng hoá người đánh đàn là người đồng điệu với ḿnh.
9-Vài nét về tác giả Học Canh - Học Canh (cuối thế kỷ XIX) đă dịch 80 ḍng Thu dạ lữ hoài ngâm bằng Hán tự của Nguyễn Văn Cẩm (1874 – 1929) ra 80 ḍng STLB Nôm, ngoài ra chính ông là người đầu tiên dịch bài Long Thành Cầm Giả Ca của Nguyễn Du mà Lăng Nhân PTĐ sao lục.
10-Các từ Ok, you, copy & paste là các từ ngày nay rất thân quen với người Việt chúng ta, xin đừng chấp nhất.
11- Tạp chí Văn, Nghiên cứu và Phê b́nh văn học, năm thứ nhất, đệ tứ tam cá nguyệt 1967, tập 3. Đặc san Văn – Nghiên cứu và Phê b́nh Văn học, số Đặc biệt về Nguyễn Du. Bạn có thể dễ dàng t́m qua Google search qua công của Talawas.
12. Laiquangnam thành thật xin lỗi Chị ĐLK. chủ trang website www.art2all.net và quư độc giả thân mến v́ sự cập rập của ḿnh. Xin quư vị vui ḷng bỏ bản Long Thành Cầm Giả Ca, phần I trước đây xem nó như không có, và dùng bản Long Thành Cầm Giả Ca, p01 viết lại này, bản ngày 12 tháng 1 năm 2015 là bản chính, quư vị có thể dùng được. Thành thật cám ơn sự rộng lượng. Kính.
Laiquangnam Một ngày giữa đông tại nam California. 13 tháng giêng năm 2015
|