LAIQUANGNAM
Nguyễn Du (1765-1820)
Phản chiêu Hồn
hay
Nguyễn Du và nỗi buồn vong quốc của Khuất Nguyên
Thi hào Nguyễn Du là được nước ta giới thiệu vào danh sách danh nhân văn hóa thế giới của Liên hiệp Quốc, một người con yêu của tổ quốc Việt, người đă nối kết những tâm hồn Việt lại cùng nhau qua vần thơ của ḿnh. Nguyễn Du quá nổi tiếng với tác phẩm Kiều, nhưng ḍng thơ chữ Hán của ông không được giới thiệu một cách chu đáo, nên có vẻ như bị mờ khuất bởi những bản dịch và giới thiệu thơ Đường của người Việt hiện nay đầy rẫy và đều khắp trong ấn loát cũng như trên không gian mạng xuất hiện mọi lúc mọi nơi. Thật đáng buồn cho người Việt ḿnh khi mà số người gốc Việt biết chữ Hán họ sống “vô t́nh“ với tiền nhân, đa phần Họ là lớp người nay trên 60,70. Họ yêu Tàu hơn yêu Việt. Nay laiquangnam xin được giới thiệu bài thơ chữ Hán, Phản Chiêu Hồn, một bài mà tuổi teen Việt Nam được học trong chương tŕnh quốc văn của ḿnh hiện nay.
Xuất xứ và bối cảnh của bài thơ Phản chiêu hồn
Nguyễn Du làm bài thơ “Phản chiêu hồn” (chống lại việc chiêu hồn) trong một chuyến đi sứ Trung Quốc vào đầu thập niên 10 của thế kỷ 19 . Chiêu hồn: một tên bài từ của Tống Ngọc người cùng thời với Khuất Nguyên. Tống Ngọc làm nhằm mục đích cầu hồn Khuất Nguyên được siêu thoát, hồn về sống cùng nhân dân Sở. Nguyễn Du khi đi ngang qua sông Mịch La, tỉnh Hồ Nam, người nhớ tại nơi đây Khuất Nguyên đã trầm ḿnh. Tống Ngọc người đồng thời, cũng là lớp học tṛ Khuất Nguyên đã cho lập trai đàn cầu hồn và đă làm bài từ “Chiêu Hồn “ tại bờ sông này. Quá hiểu rơ nước Tàu, Cụ Nguyễn bèn làm bài thơ “Phản chiêu hồn” này để phản đối ư kiến “ tử tế “ của Tống Ngọc. Cụ Nguyễn b́nh sinh vốn người hiền lành, nho nhă , nhưng với con người có học vấn cực kỳ thâm hậu ấy đã đi và đă thấy trên đất nước Tàu, Cụ không thấy quá khứ thời Khuất Nguyên nhưng hiện trạng Tàu qua những nơi Cụ đă qua bây giờ nào khác chi hồi ấy. Tàu là một xứ sở không mấy tốt trong thực tế trước mắt Cụ (1)
Có lẽ đây là bài thơ tranh luận hơn thua duy nhất trong đời làm thơ của Cụ .
Nguyên Tác
反 招 魂
魂
兮
魂
兮
魂
不
歸
Phiên âm
Phản Chiêu hồn
Hồn hề! Hồn hề! hồn bất qui?
Thành quách do thị, nhân dân phi,
Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Tạm dịch nghĩa
Hồn ơi hồn, hồn không về Thành quách thấy đó, người đă khác
Bụi trần cuồng cuộn (vấy bẩn) áo
người Ngồi bàn luận như thể ông Cao, ông Qú
Không để lộ vuốt cùng nọc độc
Sau Tam Hoàng không c̣n hợp
Người người đời này đều họ Thượng
Quan
Chú thích vài từ
1-Yên Dĩnh thuộc đất Sở, Dĩnh là kinh đô nước Sở xưa, nay thuộc tỉnh Hồ Bắc 2-Cao, Qú: hai vị quan đời Ngu Thuấn (thời huyền sử của Tàu, lúc ấy quan hệ giữa vua tôi, quan dân đều sống như thuận ḥa. Mơ!) 3-Tam Hoàng, tên ba vị vua thời huyền sử Tàu, gồm Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế. Mơ! 4-Thái cực, đó là thuở ban đầu của trời đất. Từ đây đất trời tách riêng ra. 5-Thượng quan là họ của Ngân Thượng. Ông là quan địa phu nước Sở đă dâng đất cho Tần ( China là từ chữ Tần mà ra ), xúi vua xa lánh Khuất nguyên, Ngự sử đại phu. Thượng quan Ngân Thượng và đồng bọn thao túng vua Sở, làm khổ dân để vinh thân ph́ gia. Vua Sở dại nghe theo. Vua Sở bị cầm tù nơi Tần. Và nước Sở tiêu. 6-Mịch la, là vị trí hợp lưu của hai nguồn sông là Mịch và La. Địa danh, nơi đây Khuất nguyên, bất lực, quẩn trí và trầm ḿnh. 7-Bách châu: châu là đơn vị hành chánh, mỗi châu gồm 2500 hộ gia cư, trăm châu là 250000 hộ.
Chú vài tứ thơ mà phần tạm dịch nghĩa không hết ư
1-Thành quách do thị, nhân dân phi,
2-Trần ai cổn cổn ô nhân y.
Cổn cổn là cuồn cuộn, rổn rảng ( tiếng khua của kim loại bạc vàng, khoe của. Đồ trang sức làm bẩn tấm áo của người Nho sĩ ) Hàm ư mĩa, độc!
Hàm ư mĩa: Ra th́ xum xê ngựa xe tiền hô hậu ủng, về th́ ngồi lỳ trên “ghế” quyền lực đă được bắt vít, không chiụ xuống.
4-Tọa đàm lập nghị giai Cao, Qú.
Rơ ràng toàn đoạn văn( từ câu 5 đến câu 8) cụ Nguyễn Du toàn mĩa và mĩa. Cho hay một con người nho nhă như cụ mà “ con giun đạp quá cũng quằn “ cũng bày tỏ sự phẫn nộ.
Câu17 :
Hậu thế nhân nhân giai Thượng
Quan Hàm ư mĩa, Người đời nay trên đất Sở đều cùng một ruột, ai cũng như ai, bọn chúng đều là cùng “một ruột”với bọn Thượng Quan Ngân Thượng đó. Câu tuyệt bích !
Kết : trong hai mươi câu, mà cụ Nguyễn đă đủ ư, đủ lời, mĩa và mĩa với Tống ngọc và hơn thiệt với Quan Đại phu đất Sở , rồi Người kết luận
20-Hồn hề! Hồn hề! nại hồn hà? Hồn ơi, hồn hỡi, hồn đà tính sao?
C̣n tính sao nữa mà tính, Khuất Nguyên ơi! cuốn gói và dzọt cho lè lẹ mà thôi !
Dịch thơ quốc âm
Hồn nề, hồn nề, hồn chẳng về, Đông tây nam bắc …thể phù vân, Lên trời xuống đất, khó lần, Nội thành Yên Sính lần quần chốn đây?
Thành y xưa, người nay đổi hẳn . Bụi trần rổn rảng hận xiêm y Ngựa xe hãnh tiến, ngồi lỳ Luận bàn như thể Cao Qú thuở xưa
Dấu kỹ nọc nanh, _Ừ! cả vuốt Thịt xương người sống nuốt ăn tươi Hồ Nam vạn hộ, Hồn ơi ! Rành rành ốm đói mấy người phương phi ?.
Hồn nề hồn, theo chi đường ấy! Đời Tam Ḥang, dễ thấy chi nay ! Thái hư, gom phách về ngay Chần chừ chi nữa, có ngày mĩa cho!
Họ Thượng Quan, người người một ruột Đều nơi nơi sông nước Mịch La Sài lang xực, cọp đâu tha, Hồn ơi, hồn hỡi, hồn đà tính sao(?! ) Laiquangnam
1-“nề hay hề” là âm giọng Quảng Nam, có nghĩa là “ này”, đây tiếng gọi thân mật dùng trong ngôn ngữ thân t́nh. Người Quảng Nam khi nói với ai “nề ! nề!”, là họ tỏ ư thân mật lắm. Đây là lúc Nguyễn Du vừa vỗ vào cái chân của Khuất Nguyên lay ông dậy ..
Tham khảo 2-laiquangnam giới thiệu thêm, hai bản dịch được dùng trong sách giáo khoa hiện nay. Một của Khương Hữu Dụng & Xuân Diệu hợp tác dịch 1962, và một của Nguyễn Thạch Giang, nhà Hán học uyên bác của Hànội.
Số 01,
BÁC BÀI PHÚ “ CHIÊU HỒN”
Hồn ơi! Hồn ơi, sao không về Đông tây nam bắc không nơi tựa Lên trời xuống đất đều chẳng xong Về thành Yên, Sinh làm chi nữa ? Thành quách y nguyên, dân sự khác Cát bụi nhớp cả quần áo người Đi ra xe ngựa về vênh váo Lên mặt Quí, Cao tán chuyện đời Không lộ vuốt nanh cùng nọc độc Mà xé thịt người nhai ngọt xớt ! Ḱa hồn chẳng thấy: mấy trăm châu ở Hồ Nam Chỉ có gầy nhom, không béo tốt ! Hồn ơi, v́ cứ theo đường ấy Sau Tam Hoàng thôi chẳng hợp thời ! Đành sớm thu hồn về thái cực Chớ về đây nữa, người mỉa mai Hậu thế đều là họ Thượng quan Mặt đất đâu cũng sông Mịch La Cá rồng không nuốt, hùm beo nuốt Hồn ơi! Hồn ơi biết sao mà ?
Khương Hữu Dụng và Xuân Diệu dịch 1962
Số 02,
Hồn ơi! Hồn ơi ! Hồn đừng về Khắp nơi chẳng có ǵ chở che Lên trời xuống đất đều không được Vào thành Yên, Dĩnh mà làm chi Thành quách như cũ người khác xưa Bụi bay mù mịt khắp tứ bề Đi ra xe ngựa, về vênh váo Đứng ngồi ăn chơi như Cao, Qú Không lộ nanh vuốt cùng nọc độc Nhưng chén thịt người cứ t́ t́ Há chẳng thấy mấy trăm châu Hồ Nam ? Người người đói rách, gầy như que Hồn ơi! Hồn ơi đường hồn đi Sau đời Tam Ḥang không phải th́ Sớm thu tinh thần về Thái cực Đừng về đây nữa mà người chê Đời này hết thảy là Thượng Quan Nơi nơi đâu cũng là Mịch La! Cá rồng không nuốt hùm sói tha Hồn ơi! Hồn ơi! Biết làm sao?
Nguyễn Thach Giang , Nguyễn Du -Cuộc đời và tác phẩm
Lời cuối :
Đọc qua bài thơ Phản chiêu hồn của Nguyễn Du, nếu nay ngụi Sở mà c̣n, họ oán bè lũ bán nước của bọn tướng quốc mang họ Thượng Quan này tới xương tủy.
Khuất nguyên ơi xin ông đừng buồn .tại vùng được gọi là “Trung eo “ có tới hai nhân vật xứ Quảng cũng cực kỳ khốn nạn. Một ở Quảng Ngăi tên là Nguyễn Thân và một ở Quảng Nam tên là Phạm Liệu. Đất Sở có một Thượng Quan Ngân Thượng đă mất nước, chỉ riêng “Trung eo “ mà có hai nhân vật này th́ càng điêu đứng biết chừng nào. Thế nên Dân xứ Quảng Nam từ lâu nay hát câu ca dao “kỳ lạ “ khiến cho bao người dân Quảng nam suy tư và dằn vặt:
Ngó lên ḥn Kẽm đá Dừng Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi !
Thương cha nhớ mẹ th́ về, Nhược bằng thương kiểng nhớ quê th́ đừng!.
“Đều khắp nơi sông nước Mịch la, Sài lang đâu có tha ta”.
Đó là lư do mà bậc làm cha làm mẹ người Quảng nam đă vui vẻ chấp nhận và khuyến khích con cháu mình bỏ xứ ra đi, đâu cần chi bọn trẻ sống ở bên ḿnh để săn sóc ḿnh lúc tuổi già mới gọi là hiếu để, Tụi bay đi đi, nơi nào cho con hạnh phúc, cho con an cư lạc nghiệp nơi ấy chính là quê hương. Ở nhà mẹ tự lo thân mẹ được mà, nhớ nghe con, Tổ quốc chỉ một mà thôi. Đừng ru câu:
Chiều chiều ra đứng ngơ sau Ngóng về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Chín chiều là chín cả trời chiều
Quê hương đâu, bóng chiều tà Trên sông khói sóng ….q(Quê xa ngùi ngùi (thơ Thôi Hiệu, HHL)
Chín chiều là « chín chiều », không gian ba chiều, tứ phương tám hướng, chiều thứ chín là chiều tâm hồn, t́nh cảm mẹ con.
Đừng tự dằn vặt ḿnh nữa con ơi!
Ôi ḷng người mẹ Quảng nam quê hương tôi!
Chú thích hai nhân vật Nguyễn Thân (QNg ) và Phạm Liệu(QN)
1-Nguyễn Thân tay gian ác bậc nhất dẹp phong trào văn thân, ai cũng rơ. 2- Riêng Phạm liệu không mấy người biết rơ. Phạm Liệu, người giỏi nhất trong đám “Ngũ phụng tề phi” đất Quảng Nam, đậu tiến sĩ, nhưng không đậu đầu khoa thi năm ấy. Y theo Tây phá án binh biến năm 1915 khiến vua Duy Tân bị lưu đày, Trần caoVân, Thái Phiên lên đọan đầu đài năm 1916. Sau khi phá xong án, Phạm Liệu được quan thầy Pháp cho lên chức lẹ. Y lên như diều gặp gió, đang từ quan Án sát Quảng Ngãi (1915) lên quan Hình sự bộ binh (1916), rồi thượng quan Binh bộ thượng thư (1917) trong vòng hai năm. Cháu con Y ăn cả đời không hết. Tội bán Vua mua chức xưa nay có một.
Tham khảo 1_Nguyễn Thạch Giang Nguyễn Du -Cuộc đời và tác phẩm, NXB Văn Hóa thông tin, 2002. 2_ Nguyễn Tử Quang, Nhân vật đông châu, NXB Đồng Tháp, 1996 3_Nguyễn Q Thắng, Quảng nam đất nước và nhân vật, NXB Văn Hóa, 1996 4_Dương Danh Hy (dịch giả ), Nguyên tác của Kỳ Ngạn Thần, TQ, Người Trung Quốc, NXB CAND, 2007, dịch giả Dương Danh Hy 4_Hiểu nước Tàu dưới mắt Nguyễn Du như thế nào, xin Khách thơ đọc dòng thơ chữ Hán của Cụ trong tập Bắc Hành Tạp lục trên mạng. Chỉ cần gơ từ khóa” Bắc Hành Tạp lục”
|