La Thụy
Đỗ Tư Nhơn
T̀NH HUẾ,
TRONG HÀNH TR̀NH
THƠ TRẦN THƯƠNG BÁ

I. Lời trao gởi tin yêu.
Nhà thơ Trần Thương Bá quê ở Huế, đă có thời gian dạy Việt văn tại
trường trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị (1964-1969). Anh đă để lại những
t́nh cảm sâu đậm và thân quí trong ḷng học tṛ thuở ấy. Thời gian chập
chùng, cuộc đời dâu bể, kiếp người nổi trôi…
Sau 1975, tôi được tin anh đang ở Sài G̣n nhưng chưa có cơ duyên gặp gỡ.
Bỗng một hôm vào tháng tư 2002 tôi nhận được bưu phẩm cùng ḍng thư ngắn
gọn nhưng đầy tin yêu của anh: “Bấy lâu nay liên lạc với Đỗ Tư Nghĩa tôi
vẫn thường có tin về anh chị. Chưa quen nhưng tôi nghe tiếng anh từ lâu
vẫn mong có ngày gặp nhau chuyện tṛ thỏa thích. Tự nhiên tôi thấy thân
với anh như đă từng thân thiết và thương mến Nghĩa. Nghe anh Bảo nói đi
Quảng Trị về. Có tin anh và cả địa chỉ. Tôi xin gởi biếu anh mấy quyển
sách anh chị đọc cho vui. Vài ḍng vắn tắt thăm anh chị trước đă. Sau có
thư dài hơn. Thân ái. Trần Thương Bá.”
Rất đỗi xúc động trước tấm ḷng và tin yêu của anh, tôi đă hồi âm cám ơn
anh và ghi những cảm nhận ban đầu về thơ anh. Nhưng hỡi ơi! Lỡ hẹn cuộc
tao phùng tri ngộ, anh đă sớm về cơi vĩnh hằng như lời nguyện ước cùng
người vợ yêu dấu lúc chị giă từ cơi tạm mười một năm trước, anh đă viết
trong bài thơ LỜI NGUYỀN:
“Thôi chẳng c̣n bao lâu,
Ta với em làm một.
Nâng niu b́nh tro cốt,
Em đă
bỏ ta đâu?”
Tính đến nay, 2010 anh Trần Thương Bá đă đi xa đồng nghiệp và học tṛ
đúng tám năm. Thế nhưng những bài thơ của anh, các bài viết về anh vẫn
hiện diện trên HƯƠNG QUÊ NHÀ, Trường NGUYỄN HOÀNG - Chân dung và kỷ niệm
ra đều đặn mỗi mùa Xuân, mỗi mùa Thu là hai mùa gợi nhiều cảm hứng sáng
tác cho nhà thơ. Thế thôi, người đi xa đă xa, cuộc hẹn không thành,
nhưng tôi đón nhận ḷng tin yêu chân t́nh cùng ba tập thơ anh gởi tặng,
lẽ nào không tỏ bày đôi niềm giao cảm với anh. Xin thắp nén hương tưởng
nhớ trong ngày Xuân này. Cùng đọc lại tập thơ đầu tiên của TTB, tập thơ
T̀NH HUỂ, do nhà xuất bản TRẺ ấn hành vào năm 1995.
II.T́nh Huế trong hành tŕnh thơ Trần Thương Bá
Gần nửa thế kỷ làm thơ, TTB đă để lại những tập thơ bằng tiếng Việt và
tiếng Pháp:
-T́nh Huế 1995. NXB Trẻ.
-La Poésie candide. 1996. NXB Trẻ
-Vô Ngôn Kinh. 1996 và một số tập thơ bằng tiếng Pháp chưa xuất bản, thơ
phổ nhạc, thơ đăng trên báo Le Courrier du VN, Bulletin de Liaison du
CREFAP.
T́nh Huế là tập thơ đầu của Trần Thương Bá được sáng tác từ 1959-1993,
có 46 bài mang âm hưởng trữ t́nh Thơ Mới. Về thể loại, anh thích dùng
lục bát (20 bài), thơ 7 chữ (15 bài), thơ 5 chữ (10 bài), thơ 8 chữ
(1 bài).
Cả tập T́nh Huế chia ra 2 phần:
Phần một có tựa đề là:
T́nh Huế
(59-69) gồm những bài được làm với cảm hứng về quê nhà, kỷ niệm, t́nh
yêu trong thời gian anh dạy trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị.
Phần hai là: Xin cho quên lăng (90-93) là tiếng khóc và khúc kinh cầu
hồn người vợ yêu dấu.
1) T́nh Huế trước tiên là tiếng tơ ḷng của nhà thơ rung lên từ cảnh vật
thiên nhiên, xóm làng quê hương của miền đất Thừa Thiên - Huế. Cái hồn
quê bàng bạc trong từng câu thơ khi bước chân chàng phiêu lăng đó đây.
V́ thế Trần Thương Bá tha thiết gọi tên từ những bến bờ cồn đập cầu cống
như để vơi đi nỗi nhớ thương chất ngất:
“Nhiều khi nhớ mà không người để nhắn
Một lời thôi, qua đó bến Bao
Vinh”.
"Gió bao la, sóng vỗ ngă ba Śnh
Qua cồn Hến, ngược đ̣ lên Đập Đá”.
(Nhà tôi)
Chúng ta đọc được cả dư địa chí vùng đất thần kinh từ Dương Nỗ, chợ
Dinh, chợ Nọ… đến đ̣ Thừa Phủ, cầu Bạch Hổ, hồ Tịnh Tâm. . .
Không gian thơ Trần Thương Bá được gợi lại qua hồi ức về chốn cũ, một bờ
giếng rêu xanh, một mái nhà:
“Bờ giếng rêu xanh ở cuối làng
Người về c̣n tiếng dậy xôn xang”
(Về chốn xưa)
“Nhà tôi đó núp sau vùng cây lá
Đủ rêu phong cho cả một đời người.”
(Nhà tôi)
Một điều đáng ghi nhận nữa là t́nh Trần Thương Bá vừa trải rộng vừa lắng
sâu ôm chặt trong từng bài thơ. Chàng thân thiết ghi lời đề tặng từng
người đồng cảm tri âm sau mỗi bài thơ như muốn cùng sẻ chia hương vị
cuộc sống, đánh dấu một kỷ niệm buồn vui, hay tâm trạng cô đơn. Có 20
bài trong 27 bài gởi về mỗi đối tượng yêu thương, khi th́ tặng các em
gái Thu Tâm, Như Mỹ, lúc th́ những cô bạn nữ xinh đẹp một thời, kế đến
là học tṛ trường Nguyễn Hoàng – Quảng Trị, các soeurs ḍng Kim Đôi...
Trong giọng điệu lục bát du dương, anh thổi vào đó chút phiêu bồng, nức
nở, nhớ nhung của tuổi xuân th́ để tặng em gái Thu Tâm, Như Mỹ, luôn
hiểu cảnh ngộ và nội tâm người anh trai:
“Chợt thương từ buổi chia xa,
Chợt nghe nức nở người ra cơi ngoài.
Em
về xếp áo phôi phai
Chân không giẫm đất cho chai tháng ngày.
Xuân nào
đậu cánh hoa mai
Tóc em để rối cho dài mùa đông.”
(Tóc em để rối)
Cảm động nhất là lúc cả nhà chịu tang người mẹ kính yêu, những em gái
anh khóc than không dứt th́ Trần Thương Bá lặng lẽ ra gốc khế mẹ đă
trồng ở vườn sau để nước mắt lặn vào bên trong, anh nói với chiều, với
cây, với hoa khế tím rụng trên mặt đất:
“Chiều ơi chiều vẫn bên sông,
Cây ơi, cây vẫn cúi trông bóng ḿnh.
Vườn sau hoa khế rung rinh,
Tím rơi mặt đất lung linh giọt sầu.”
(Cúi trông bóng ḿnh)
Trong giấc mơ của anh, mẹ về cùng các con mỗi đêm đông lạnh như để ấp ủ
từng đứa con côi cút.
“Kể từ mẹ thoát cơi không,
Bước chân êm cứ đêm đông trở về.”
(Cúi trông bóng ḿnh)
Bài thơ KHÔNG ĐỀ viết tặng cô Nhụ Hương và anh Lê -Đ-Hải đă ghi lại vẻ
đẹp tâm hồn về những giăng mắc vấn vương thời áo trắng giữa hai bờ tương
tư Đồng Khánh - Quốc Học:
“Chao ơi, bến đợi sông chờ,
Thu đi áo tím hững hờ gịng Hương.
Chàng
về khép một trời thương,
Áo xanh chàng khoác ra đường đón ai.”
Những tháng ngày thơ mộng đó làm sao quên được, bởi cơi thần tiên rất
gần gũi trên từng bước chân thư sinh mang hồn tinh khôi:
“Cuộc t́nh đă
mấy hôm mai
Thiên đường mút mắt cho dài bước chân.”
Qua thơ, chúng ta hiểu được thế giới nội tâm Trần Thương Bá vô cùng
phong phú, ḷng yêu đời hồn hậu, niềm khát khao pha lẫn xót xa v́ biết
bao nghịch lư ngăn cách.
“Vẫn khung trời ấy khung trời Huế,
Vẫn tấm ḷng xưa, ḷng khát khao.
"Một mai ta về qua vườn cũ,
Cúc đă vàng hoa quanh lối đi.”
(Đong đưa ngày tháng)
“Môi khô muốn thốt lời vàng đá,
Nghe xót xa ḷng nên lại thôi.”
(Xót xa ḷng)
Trong thời gian anh dạy học ở trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị, anh đă làm
nhiều bài thơ cho những người học tṛ thân thiết mến yêu. Thầy Trần
Thương Bá đă mượn tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc, Ca dao để gởi gắm nỗi
niềm sâu kín của ḿnh. Bài thơ “Chinh phụ và tôi 1” được sáng tác vào
khoảng 1964 -1965 đề tặng các em: Đỗ Tư Nghĩa, Đoàn Đức, Lê Quí Phi vừa
để cảm thông với chinh phụ đồng thời như thổi cả hồn người thầy lăng mạn
đa cảm vào thơ...
“Xanh kia thăm thẳm từng trên,
V́ ai gây dựng cho nên nỗi này?”
"Tường đông bắc gió heo may,
Đă về đem nửa hồn này qua sông.
Lần theo vó ngựa chập chùng,
Trong cơn mê tưởng đến vùng Liêu Tây.
Hoàng anh ra rả đem chầy,
Đong thương đếm nhớ cho đầy lầu trai”
Đến bài thơ “Chinh phụ và tôi 2” viết tặng cô học tṛ Lê Thị Vân th́ lời
thơ đă thấm thía nỗi buồn chia li của đôi lứa thời binh lửa, nhà thơ
đang nói hộ cho người hay tự bộc lộ ḿnh..? C̣n bài “Ca dao; Trông”, đề
tặng Đoàn Đức và Ng. Trinh giọng điệu nhớ thương chất ngất gieo vào tâm
hồn trẻ biết bao rung cảm mộng mơ của tuổi mới lớn.
“Anh về mau kẻo em mong,
Dang tay bứt ngọn tơ hồng chia hai.
Hàng rào em xén hôm mai,
Tơ hồng em thả cho dài nhớ thương.
Con chim sáo hót đầu vườn,
Con cu măi gáy bên tường măi thôi.”
Cuối cùng thầy giáo, nhà thơ Trần Thương Bá đă tự vỗ về ḿnh bằng lời ru
dịu dàng thủ thỉ giữa bể dâu của phận người như một liệu pháp tâm lí
nhằm cứu chữa căn bệnh tương tư, thất t́nh:
“Chim ơi, mỏi cánh bay về,
Ta ơi, hăy ngủ bên lề bể dâu.
Nhẹ tay hái trái tim sầu,
Bước qua cơi mộng, mặc dầu nhớ thương”
(Bên lề bể dâu)
2) Xin cho quên lăng (1990-1993)
Phần này gồm có 19 bài thơ, một ngôi đền với hương trầm tưởng niệm người
yêu, người vợ hiền đă đi về cơi khác.
Bài thơ mở đầu phần 2 có nhan đề “BÀI ĐẦU CHO NGỌC”, anh viết bằng tiếng
Pháp, đề tặng N. T. Ngọc và cô M. Piat nguyên giáo sư ĐH HUẾ năm 1960
-1961, sau đó anh dịch ra Việt ngữ trong thể thất ngôn tứ tuyệt giàu khả
năng khơi gợi:
“Ngày cuối thu đi đă nửa chiều,
Mây rừng t́m lại bến đ́u hiu.
Hồn hoang ta trở về yên ngủ
Trong mắt em buồn mây hắt hiu.”
Giờ đây đọc lại bài thơ trên chúng ta nhận thấy h́nh như anh đă có linh
cảm buồn về cuộc t́nh ngay tự buổi đầu gặp gỡ. Chính trực giác mang tính
bi kịch đă tạo ra giọng điệu lặng lẽ, ngôn từ, h́nh ảnh đều được lựa
chọn trong cùng một trương nghĩa, điệp trùng chồng chất... “cuối thu,
nửa chiều, đ́u hiu, hồn hoang, mắt em buồn, mây hắt hiu”. Dường như anh
đă dựng lên một thiên đường giữa cơi thế quạnh quẽ gợi lên sự chia ĺa
mất mát. Những câu thơ Trần Thương Bá tưởng chừng như bị nén chặt nên ẩn
chứa nhiều ư nghĩa. Câu thơ đầu không chỉ là cách tính thời gian b́nh
thường. Mùa thu là qua đi hai phần ba của năm. Cuối thu, ngày cuối thu
đi đă nửa chiều. Câu thơ đột nhiên càng tạo nên ám ảnh sự chóng vánh sắp
qua sắp mất hút vào hư vô.
Theo lời kể của chị Thu Tâm, em gái gần gũi và sẻ chia với anh thật sâu
sắc mối t́nh giữa anh và chị Ngọc. Họ gặp nhau, yêu mến nơi không gian
thơm tho mùi chữ nghĩa nhân văn của ĐH HUẾ. Anh chị đă kết dệt một t́nh
yêu bền bỉ thuỷ chung đằm thắm mươi năm trời dù nhiều khi xa nhau hàng
ngàn cây số. Măi đến khi có sự gợi ư của gia đ́nh anh mới dẫn chị về
trong cuộc đời chung. Và nụ hoa hạnh phúc đă nở trong căn vườn t́nh của
anh Bá chị Ngọc, cháu Ngọc Hợp chào đời góp tiếng cười trong trẻo làm
nên giai điệu hạnh phúc thương yêu mới mẻ và tinh khôi “Ba trái tim là
nhịp đập cả nhà.” Rồi một biến cố đau thương ập đến, tức tưởi, xót xa
không thể nào kể xiết, chị đột ngột đi về cơi xa xăm, bỏ lại anh và cô
con gái yêu. Với anh đây là lần mất Mẹ thứ hai trong đời. Những câu thơ
của Trần Thương Bá từ đây như lửa đốt như uất nghẹn.
“Em đi, em đi vội,
Mà không kịp trối trăn.
Lạnh lùng và đêm tối,
Hận này đành cắn răng”
(Từng cơn mê)
“Ba trái tim là nhịp đập cả nhà,
Em mang hết vào cơi trời vô tận
C̣n lại đây phần đời lận đận,
Hai cha con ngơ ngác dắt nhau”
(Hai trái tim c̣n lại)
Bài thơ Chiều qua nghĩa trang B́nh Hoà anh viết tṛn một năm chị mất vẫn
chưa chút nguôi ngoai, nghe thê thiết bi ai, hai cơi âm dương như không
có ngăn chia, gần lắm, như gặp lại linh hồn đang cùng run rẩy xúc động.
“Hồn em lên trên đó,
Cứ ngỡ như hôm qua.
Anh và con đứng ngó,
Tay run rẩy cành hoa”
“Tim này bao tội lỗi,
Thương tích cả cuộc đời.
Giá băng và đêm tối,
Xin giành hết cho tôi”
Niềm đau nhức, nỗi oán hận không dứt dày ṿ trái tim nhà thơ khi nghĩ về
sự mất mát lớn lao đó. Anh chỉ c̣n nguyện cầu măi măi đi t́m người vợ
yêu giữa cơi mênh mông rộng lớn.
“Xin cho trút hết lệ này,
Xin cho nuốt hết hận này vào tim”
"Xin cho theo dấu chân nàng,
Tam thiên thế giới bàng hoàng mông mênh”
(Nuốt hận vào tim)
Cũng có lúc anh đối thoại nhỏ nhẹ, khuyên lơn người quá cố hăy luôn ở
gần cha con anh như đă từng vỗ về mỗi khi giận hờn.
“Ngoan nhé đừng đi xa,
Hăy quanh quất ở nhà.
Khói hương và lời nguyện,
Mỗi ngày một thiết tha”
(Lời nguyện)
Từ đau thương dằng dặc anh đă đi vào suy niệm về biết bao ân huệ mà cuộc
đời và t́nh yêu đă trao tặng anh, không có ǵ trả được, bài thơ
Ơn Em là
lời giăi bày như một tổng kết như một tri ân.
“Ta ơn đời một nửa,
C̣n một nửa ơn em.
Giờ này tim c̣n lửa,
Mà ta đă xa em”
“Em đến làm cơn lốc,
Em đi chợt mùa đông.
Tiễn em ta không khóc,
Mà nước mắt lưng tṛng”
T́nh yêu tha thiết sâu sắc có khả năng bất tử hoá h́nh ảnh người ḿnh
yêu, đă thăng hoa cho các bộ môn nghệ thuật, để lại cho thế giới những
tác phẩm bất hủ ngợi ca vẻ đẹp tuyêt trần của nhan sắc và tâm hồn phụ
nữ. Nhà thơ Trần Thương Bá cũng đi về miền sáng tạo ấy khi tạc tượng vợ
hiền yêu dấu giữa thiên nhiên đất trời, như thánh thần cao cả, như nàng
tiên diệu vợi
“Áo em mờ ảo màu hoa,
Tóc em bay giữa bao la trời chiều”
(Tiễn em)
“Lạy em, em ngủ cho êm,
Lời kinh này tiễn em lên cơi trời”
(T́nh thiên thu)
Nếu chúng ta tin vào luân hồi, chúng ta sẽ cảm thông với nhà thơ Trần
Thương Bá và mai sau sẽ gặp lại những ai c̣n duyên nợ với nhau.
“Em ơi dù có bao giờ...
Nghe cung đàn ấy, xem thơ lời này.."
"Ngậm ngùi trong cuộc t́nh này,
Xin em một chút lệ cay muộn màng...”
(Mai sau)
“Anh biết rồi em sẽ trở về
Nhẹ nhàng từ thế giới bên kia.
Bước êm như lúc em đi ngủ,
Ân ái th́ thầm như thuở xưa”
(Không đề)
Trong hành tŕnh thơ của Trần Thương Bá, T̀NH HUẾ là khúc dạo đầu, đứa
con so đầu mang vào thi đàn một điệu ngân một giọng trữ t́nh dễ xúc động
ḷng người... Dù mang h́nh thức lục bát, bảy chữ, năm chữ thơ anh vẫn
gieo vào ḷng bạn hữu dấu ấn khó quên. Cái hồn của cảnh vật xứ Huế, cái
t́nh người Huế, được chưng cất nhiều ngày tháng xa quê đă kết tinh lại
trong nhiều bài thơ làm lay động ḷng người. Đặc biệt là những bài thơ
khóc thương người vợ dấu yêu ra đi về cơi xa khuất, Trần Thương Bá không
như nhà vua Ân Độ Shah Jehan đă xây ngôi đền Taj Mahal bằng đá cẩm thạch
trắng để thương tặng tưởng tiếc hoàng hậu Mumtaz Mahal tuyệt trần nhưng
bạc mệnh. Ở đây Trần Thương Bá dựng tượng đài thơ bằng trái tim rướm máu
của ḿnh. Và cuối cùng đoạn kết cuộc t́nh đă đến, bao lời nguyện ước
chung đôi thành tựu. Xin có lời chúc linh hồn anh chị ở cơi vĩnh hằng
đoàn tụ trong tam thiên đại thiên thế giới.
Trong bài sau, chúng ta đi tiếp Hành tŕnh thơ Trần Thương Bá, sẽ thưởng
thức những vần thơ mang khuynh hướng thi ca đượm màu sắc triết lí Tây và
Đông phương qua hai đỉnh cao là:
La poésie candide. 1996. Nxb Trẻ
Vô ngôn kinh. 1996
ĐỖ TƯ NHƠN


art2all.net
|