NGUYỄN
ƯỚC
Ngồi tựa mạn thuyền
Nguyễn Ước tuyển dịch
1. Giác ngộ và Cứu
độ
(Thiền thoại)
"Thưa thầy, thầy có từng đọc Kinh Thánh?"
Gasan đáp:
"Chưa, con đọc cho ta nghe với."
Gă đệ tử mở cuốn Tân Ước theo thánh Mat-thêu ra và đọc:
"C̣n về áo mặc cũng thế, các ngươi lo lắng làm chi? Cứ xem hoa huệ ngoài
đồng mọc lên như thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không
kéo sợi; thế mà Ta bảo cho các ngươi biết: ngay cả vua Sa-lo-môn, dù
vinh hoa tột bực, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy..."
Gasan nói:
"Dù người nói ra lời ấy là ai đi nữa, ta xem đó là đấng đă giác ngộ."
2. Cuộc khủng hoảng
tâm linh ngày nay
(Erich Fromm)
Trong khi đa số dân chúng sống ở phương tây không cảm thấy rơ ràng rằng
ḿnh như thể đang trải qua cuộc khủng hoảng của văn hoá phương tây (có
thể chẳng bao giờ họ biết được những căn nguyên của cuộc khủng hoảng
trầm trọng ấy) th́ ít ra, cũng có một thiểu số các nhà quan sát và phê
b́nh đồng ư với nhau về thực tại và bản chất của nó.
Người ta mô tả cuộc khủng hoảng ấy là u sầu, chán nản, căn bệnh của thế
kỷ, sa sút sinh lực, tự động hoá con người, ĺa xa bản thân, ĺa xa đồng
loại và ĺa xa thiên nhiên. Con người đă và đang đi theo chủ nghĩa duy
lư tới điểm mà chủ nghĩa duy lư tự nó chuyển biến thành phi lư hoàn toàn.
Kể từ Descartes, con người ngày càng tách tư tưởng khỏi cảm xúc; tư
tưởng một ḿnh nó được coi là hợp lư - cảm xúc, v́ tự bản tính của nó,
bị coi là phi lư. Con người, Cái Tôi, bị tách ra thành con người trí
năng, cái lập thành Bản ngă, và là cái sẽ kiểm soát tôi cũng như nó sẽ
kiểm soát thiên nhiên. Việc tri thức kiểm soát thiên nhiên và việc sản
xuất ngày càng nhiều đồ vật đă trở thành mục tiêu tối thượng của cuộc
sống. Trong quá tŕnh đó, con người biến bản thân thành đồ vật, cuộc
sống trở nên lệ thuộc vào tài sản, "hiện hữu" bị khống chế bởi "sở hữu".
Tại những nơi mà gốc rễ của văn hoá phương tây, cả Hi lạp lẫn La mă, đều
xem mục đích cuộc sống là làm cho con người hoàn hảo, th́ người hiện đại
quan tâm tới việc làm cho đồ vật hoàn hảo, và tới kiến thức về cách làm
cho chúng hoàn hảo. Trong t́nh trạng tán loạn tinh thần đó, con người
phương tây không có khả năng nếm trải cảm xúc, v́ thế hắn lo âu, phiền
muộn và khắc khoải. Miệng hắn vẫn đăi bôi nói tới cứu cánh hạnh phúc,
chủ nghĩa cá nhân, sáng kiến, nhưng thật ra hắn sống không có cứu cánh.
Cứ hỏi hắn sống để làm ǵ, mục đích mọi sự phấn đấu của hắn là ǵ th́
hắn sẽ bối rối. Một số người có thể trả lời là họ sống cho gia đ́nh, cho
người khác, "sống cho vui", c̣n một số người khác th́ nói sống để kiếm
tiền, nhưng trong thực tế không người nào hiểu ḿnh sống để làm ǵ; hắn
sống chẳng có mục đích nào ngoại trừ ước muốn chạy trốn khỏi trạng thái
bất an và cô độc.
Thật thế, các nơi thờ phượng tấp nập tín đồ hơn bao giờ hết, sách tôn
giáo đang ngày càng là những sách bán chạy nhất, số người nói tới Thượng
đế nhiều hơn lúc nào cả. Tuy vậy, loại bày tỏ ḷng mộ đạo ấy chỉ là
phương cách che đậy thái độ duy vật và phi tôn giáo, và nó được hiểu như
một phản ứng mang tính ư tưởng - gây ra do bởi bất an và qui thuận -
trước xu hướng của thế kỷ 19 mà Nietzsche đă xác định đặc điểm bằng câu
nói nổi tiếng: "Thượng đế đă chết." Câu nói đó như một thái độ tôn giáo
chân chính chứ không như một thực tại.
Nh́n từ một góc độ nhất định, sự buông bỏ của các ư tưởng vô thần trong
thế kỷ 19 không đạt được thành quả nhỏ nhoi nào. Con người lao ḿnh vào
khách quan tính. Quả đất không c̣n là trung tâm của vũ trụ, con người
đánh mất vai tṛ tâm điểm của một sinh vật được Thượng đế an bài cho
thống trị mọi sinh vật khác. Nghiên cứu những động lực ẩn mật của con
người với khách quan tính mới mẻ ấy, Freud nhận ra rằng đức tin vào một
Thượng đế toàn năng và thông suốt mọi sự có gốc rễ nơi t́nh trạng bơ vơ
của con người trong cuộc sống và nơi nỗ lực của con người nhằm đối phó
với t́nh trạng không chốn nương tựa của ḿnh bằng niềm tin vào một người
cha và người mẹ phù hộ, được tượng trưng bằng một Thượng đế ngự chốn
thiên cung. Freud thấy rằng chỉ có con người mới có thể cứu rỗi hắn; lời
giảng của các đại sư, sự giúp đỡ đầy ưu ái của cha mẹ, bằng hữu và những
người thân yêu có thể hữu ích cho hắn - nhưng chỉ giúp được [nếu] hắn
dám chấp nhận thách đố của cuộc đời và ứng phó với thách đố đó bằng tất
cả nội lực và toàn bộ tâm hồn ḿnh.
Con người buông bỏ ảo giác Thượng đế như một người cha nhân từ, như một
đấng phù trợ có tính cách phụ mẫu - nhưng cùng lúc ấy, con người cũng
buông bỏ cứu cánh của mọi tôn giáo nhân văn: khắc phục những giới hạn
của cái tôi vị kỷ, đạt tới t́nh yêu, khách quan, khiêm tốn và tôn trọng
cuộc sống để cho mục đích cuộc sống là chính cuộc sống và con người trở
thành cái mà nó có khả năng trở thành.
Những cái đó là cứu cánh của các tôn giáo lớn phương Tây và cũng là cứu
cánh của các tôn giáo lớn phương Đông. Tuy thế, phương Đông không nặng
gánh khái niệm người cha siêu việt và cứu độ mà trong đó các tôn giáo
độc thần biểu lộ những khát vọng của chúng. Lăo giáo và Phật giáo mang
tính hợp lư và hiện thực cao hơn các tôn giáo phương tây. Hai tôn giáo
đó có thể nh́n con người một cách thực tế và khách quan, rằng không có
ai cả ngoại trừ những con người "tỉnh thức" tự hướng dẫn ḿnh, và có thể
hướng dẫn được ḿnh v́ mỗi người đều có bên trong hắn khả năng tỉnh thức
và giác ngộ. Đó chính là lư do tại sao ngày nay tư tưởng tôn giáo phương
Đông, Lăo giáo và Phật giáo - với sự hoà trộn của cả hai trong Thiền
Phật giáo - chiếm vai tṛ quan trọng như thế tại phương tây. Thiền Phật
giáo giúp con người t́m thấy giải đáp cho vấn nạn về sự hiện hữu của hắn,
một giải đáp giống một cách cốt tủy với giải đáp được đưa ra trong
truyền thống Kitô-Do thái giáo, và tuy thế, nó không đi ngược lại tính
chất hợp lư, hiện thực và độc lập, những cái quí báu mà con người hiện
đại đang thành tựu. Nghịch lư là, tư tưởng tôn giáo của phương đông lại
hóa ra thích hợp với tư tưởng luận lư của phương tây hơn là tư tưởng tôn
giáo của chính phương tây.
3. Thiền là ǵ?
(D.T. Suzuki)
Phải chăng Thiền là một hệ thống triết học có tính trí tuệ cao vời và
siêu h́nh sâu xa như hầu hết các lời giảng của Phật giáo?
Tôi từng phát biểu rằng chúng ta t́m thấy trong Thiền sự kết tinh toàn
bộ triết học phương đông, nhưng như thế không có nghĩa Thiền là một
triết học hiểu theo tính chất ứng dụng thông thường của từ ngữ ấy. Thiền
dứt khoát không là một hệ thống được xây dựng trên nền tảng luận lư và
phân tích. Có lẽ nó đối lập hoàn toàn với luận lư, cái mà tôi có ư nói
là lối suy nghĩ nhị nguyên. Có thể trong Thiền có yếu tố tri thức v́
Thiền là toàn bộ tâm trí, và trong Thiền chúng ta t́m thấy nhiều điều
lớn lao; nhưng tâm trí ấy không là cái có tính phức hợp, cái bị phân
chia thành quá nhiều ngọn ngành, cái chẳng để lại chút ǵ sau khi hoàn
tất việc xem xét cặn kẽ.
Thiền chẳng có ǵ để dạy bảo chúng ta theo lối phân tích có tính trí tuệ;
nó cũng chẳng có chuỗi giáo thuyết áp đặt nào buộc người đi theo phải
chấp nhận. Trong tinh thần tôn trọng ấy, Thiền có tính hỗn độn, nếu bạn
thích nói như thế. Có thể v́ mục đích cá nhân và lợi ích của riêng ḿnh,
người đi theo Thiền có một chuỗi giáo thuyết, nhưng thật ra, chuỗi giáo
thuyết ấy không phải do tự Thiền mà có. V́ vậy, trong Thiền không có
thánh thư, lư thuyết giáo điều hoặc bất cứ phương pháp biểu hiện nào để
qua đó có thể tiếp cận ư nghĩa của Thiền.
Vậy nếu có ai hỏi tôi rằng Thiền giảng dạy ǵ, tôi sẽ trả lời là Thiền
chẳng giảng dạy ǵ cả. Bất cứ lời giảng nào trong Thiền cũng phát xuất
từ tâm trí của chính ta. Chúng ta tự dạy bảo ḿnh. Thiền chỉ là vạch
đường chỉ lối. Nếu sự vạch đường chỉ lối ấy không phải là lời giảng th́
chắc chắn rằng trong Thiền không có điều ǵ được cố ư sắp xếp như là
giáo thuyết chủ yếu của nó hoặc triết lư căn bản của nó.
Thiền tự nhận là Phật giáo, nhưng tất cả những lời giảng của Phật giáo,
như đă được đề xuất trong kinh điển, bị Thiền coi là những mảnh giấy
thừa thăi, sử dụng chúng cốt chỉ để tẩy uế tri thức, và thế thôi. Tuy
thế, đừng có ấn tượng rằng Thiền là hư vô chủ nghĩa. Toàn bộ chủ nghĩa
hư vô chỉ mang tính tự diệt, không đi tới đâu cả. Chủ nghĩa phủ định th́
nghe có vẻ như một phương pháp, nhưng đúng ra, nó là một sự khẳng định.
Khi người ta nói Thiền không có triết lư, rằng Thiền từ khước toàn bộ
thẩm quyền giáo lư, rằng Thiền loại bỏ toàn bộ cái gọi là kinh sách
thiêng liêng, xem chúng là đồ vô giá trị, th́ chúng ta đừng quên rằng
Thiền vẫn duy tŕ trong chính hành động phủ định ấy một cái ǵ đó có
tính hoàn toàn tích cực và khẳng định vĩnh viễn. Điều ấy sẽ càng lúc
càng rơ ràng hơn khi chúng ta đi sâu vào.
Thiền phải chăng là một tôn giáo? Thiền không phải là một tôn giáo hiểu
theo lối thông thường của từ ngữ đó, v́ Thiền không có một Thượng để để
thờ phượng, không có nghi thức lễ lạc để tuân giữ, không có nơi cư trú
mai hậu dành cho kẻ qua đời, và sau hết, Thiền không có linh hồn, cái
vốn được thiên hạ chăm lo ân phúc và quan tâm mănh liệt tới vấn đề bất
tử của nó. Thiền thoát ra khỏi tất cả những chướng ngại có tính giáo
điều và "tôn giáo".
Khi tôi nói trong Thiền không có Thượng đế th́ người tín đồ ngoan đạo có
thể bị sốc, nhưng nói như vậy không có nghĩa Thiền phủ định sự hiện hữu
của Thượng đế; Thiền không băn khoăn tới việc phủ định lẫn việc khẳng
định. Khi một cái ǵ đó bị phủ định th́ chính trong hành động phủ định
ấy có liên can tới một cái ǵ đó bất phủ định. Cũng có thể phát biểu
giống như thế về sự khẳng định. Đó là điều không thể tránh được trong
luận lư. Thiền muốn vượt lên trên luận lư. Thiền muốn t́m thấy một khẳng
định ở cấp cao hơn trong đó không có phản đề. Do đó, trong Thiền, Thượng
đế không bị phủ nhận cũng không được nhấn mạnh. Vấn đề chỉ là, trong
Thiền, không có một Thượng đế được quan niệm theo tâm trí Do thái giáo
và Kitô giáo. Và cũng v́ lư do đó, Thiền không phải là một triết lư và
không phải là một tôn giáo.
C̣n về tất cả những ảnh tượng muôn h́nh muôn vẻ của các Đức Phật, các Bồ
tát, các La hán và những hữu thể khác mà người ta t́nh cờ bắt gặp trong
các Thiền viện, th́ cũng giống như vô số tác phẩm bằng gỗ đá hoặc bằng
kim loại, chúng tựa những cây hoa trà, cây đỗ quyên, những đèn lồng bằng
đá trong vườn nhà tôi. Thiền hẳn nói là: bạn cứ tôn sùng cây hoa trà lúc
này trổ đầy lộc non và cứ thờ phượng nó nếu bạn thích. Các tôn giáo cũng
làm như thế bằng việc cúi đầu, qú gối trước các thần linh Phật giáo
muôn h́nh muôn vẻ, hoặc bằng việc rảy nước thánh hoặc bằng việc dự Bữa
Tiệc Ly của Chúa [tượng trưng bằng Thánh lễ Misa hàng ngày trong nhà thờ,
thêm của người dịch]. Tất cả những cử chỉ ngoan đạo được hầu hết những
người-gọi-là-mộ-đạo đánh giá là đáng khen và hợp đạo thánh th́ theo con
mắt của Thiền, chúng đều có tính chất nhân tạo. Thiền dũng mănh tuyên bố
rằng: "Các hành giả thanh khiết không lên Niết bàn và những tu sĩ phạm
giới không sa địa ngục". Đối với những tâm trí b́nh thường th́ câu nói
ấy mâu thuẫn với luật tắc thông thường của đời sống đạo đức, nhưng nằm
trong câu nói đó là chân lư và sự sống của Thiền. Thiền là tâm linh của
một con người. Thiền tin vào sự thuần khiết và thiện hảo tại nội tâm của
mỗi người. V́ thế, chồng chất thêm bất cứ cái ǵ hoặc mănh liệt tước bỏ
đi bất cứ cái ǵ th́ cũng đều làm thương tổn sự lành mạnh của tâm linh.
Thiền, do đó, rơ ràng là chống lại toàn bộ sự quá câu nệ qui ước tôn
giáo.
4. Tôn giáo là ǵ
(Alan Watts)
Tinh thần mộ đạo của Kitô hữu đă tạo ra một h́nh ảnh quái đản dùng làm
đối tượng cho ḷng sùng bái của ḿnh: Đức Giêsu Kitô bị đóng đinh trên
thập giá. H́nh ảnh một con người đạo đức rậm râu với tia nh́n nghiêm
nghị, nhân từ và đau đớn mơ hồ trong mắt. Rồi bỗng có người cầm đèn lồng
đến gơ lên cánh cửa tâm hồn ta và nói: "Này các bạn, hăy tới với nhau
nào. Ầm ĩ như thế đủ rồi! Đă tới lúc chúng ta cùng nhau nói chuyện
nghiêm chỉnh!" Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Lạy Chúa! Ôi Giêsu... Người
Phật tử Thiền tông nói: "Bạn hăy súc miệng mỗi lần niệm Phật!" Cuộc sống
mới của Kitô giáo sẽ bắt đầu ngay lúc có người nào đó đứng lên giữa nhà
thờ và nói: "Bạn hăy súc miệng mỗi lần kêu danh Đức Giêsu!"
Về mặt tâm linh, chúng ta đang bị tê liệt v́ tôn sùng quá đáng Đức Giêsu.
Ngay cả người vô thần cũng xem ngài là một đấng tối hảo, người gương mẫu,
người có uy tín đạo đức, và không ai có thể phản bác điều đó. Dù ư kiến
của riêng ḿnh có ra sao đi nữa th́ chúng ta đều cũng phải bóp méo vo
tṛn lời của Đức Giêsu cho phù hợp với h́nh ảnh đó. Khốn khổ thay cho
Đức Giêsu! Nếu ngài biết người ta sẽ phóng chiếu ngài thành kẻ có quyền
phép vĩ đại đến thế th́ hẳn ngài đă chẳng bao giờ nói lấy một tiếng!
H́nh ảnh có tính văn học của ngài, qua nhiều thế kỷ thần phục, đă biến
thành một thần tượng và vượt xa bất cứ tượng thần tạc bằng gỗ đá nào,
tới độ ngày nay, "bất cứ cử chỉ tôn kính chân thật và hồn nhiên nào cũng
là phá hoại h́nh ảnh đó."
Chính ngài đă phán: "Ta ra đi th́ có lợi cho các ngươi. Thật vậy, nếu ta
không ra đi th́ Đấng Bảo trợ [Thần Khí Thánh Linh, thêm của người dịch]
sẽ không đến với các ngươi.." (Gioan 16:7). Hoặc như thiên thần nói với
các môn đệ đến t́m xác Đức Giêsu trong nhà mồ: "Sao các ngươi lại t́m
người sống ở giữa kẻ chết? Ngài không c̣n ở đây nữa. Ngài đă sống lại và
ra đi trước các ngươi..."(Luca 24:5-6). Nhưng ḷng mộ đạo của Kitô hữu
đă không để cho ngài đi luôn, nó tiếp tục t́m kiếm Đức Kitô sống động ở
những chữ chết trong bản tường tŕnh có tính lịch sử. Như ngài đă nói
với người Do thái: "Các ngươi lùng t́m sách thánh v́ các ngươi tưởng
rằng trong đó các ngươi có được cuộc sống bất diệt..."
H́nh ảnh Đức Giêu bị đóng đinh trên thập giá khiến cho cuộc sống bất
diệt [hiểu theo kiểu ấy] phát xuất từ hành động qui thuận Thượng đế như
một đối tượng để ta sở hữu, biết tới và nắm giữ cho sự bền vững của bản
thân ta, "v́ ngài cứu chuộc nên ta sẽ không mất linh hồn." Do đó, bám
víu vào Đức Giêsu là để thờ phượng một Đức Giêsu bị đóng đinh trên thập
giá, một ngẫu tượng, thay v́ một Thượng đế sống động.
*
Khi Thượng đế đă chết th́ con người, kẻ luôn luôn được định nghĩa như
một tạo vật khác với Thượng đế, bắt đầu cảm thấy ḿnh là một thực tại
khác - một thực tại bất qui luật và đầy cảm tính trong một hệ thống
người-ăn-thịt-người, một hệ thống do Quỉ dữ bày mưu tính kế, nếu có Quỉ
dữ. Lúc ấy, loài người v́ xung đột quá đổi với môi trường sống nên phải
hoặc thúc ép thô bạo cho môi trường tuân phục ḿnh hoặc hủy diệt môi
trường. Hai chọn lựa ấy chỉ đưa tới một hậu quả.
Nhưng một tôn giáo tối thượng th́ vượt quá bên kia thần học. Tôn giáo đó
hướng tới tâm điểm; nó xem xét và thăm ḍ chốn nội tâm sâu thẳm nhất của
bản thân con người, v́ chính tại nơi ấy chúng ta ở trong trạng thái giao
tiếp mật thiết nhất, hoặc đúng hơn, đồng nhất với chính cuộc sống. Sự
tùy thuộc vào những biểu tượng hoặc ư niệm thần học bị thay thế bằng sự
tiếp xúc trực tiếp và phi khái niệm với cấp độ sống của chính bản thân
ta, và cùng lúc ấy, với cấp độ sống của hết thảy đồng loại. V́ vào lúc
tôi là tôi nhất th́ cũng chính là lúc tôi vượt quá bản thân tôi nhất.
Tại cội rễ, tôi làm một với hết thảy ngọn ngành. Tuy thế, cấp độ sống ấy
không là cái ǵ đó có thể nắm bắt hoặc xếp loại, kiểm tra hoặc lập thành
như một đối tượng của kiến thức - không phải do bởi nó là cái cấm kỵ
hoặc không được xâm phạm v́ lư do tôn giáo, mà do bởi nó chính là điểm
mà từ đó tôi toả ra loại ánh sáng không ở trước mặt mà ở trong mắt...
Lúc ấy, có một nền tảng mang tính kết cấu hơn và khách quan hơn cho bước
nhảy vọt của đức tin mà trong bước nhảy đó, con người có thể dám nghĩ
rằng ḿnh không là khách lạ trong vũ trụ, cũng không là ánh chớp nhận
thức cô độc và bi thảm trong bóng tối mịt mùng và vô tận. V́ dưới ánh
sáng của những ǵ chúng ta hiện biết theo lối nói vật lư, th́ thật vô lư
khi dám đánh cuộc rằng tại chốn sâu thẳm tâm điểm của "bản thân tôi" là
"Cái đó", là "Nó" - như trong câu "v́ nó đă hiện hữu từ khởi thủy, nên
nó hiện hữu lúc này và sẽ hiện hữu măi măi, thế gian không bao giờ tận."
Nếu đây là nỗi hy vọng hoặc niềm tin sôi sục th́ Krishnamurti có lư khi
nói rằng nó phải được thách đố và được kiểm tra bằng câu hỏi: "Tại sao
bạn muốn tin điều đó? Có phải v́ bạn sợ rằng ḿnh đang chết, rằng ḿnh
đang đi tới một chung cuộc? Có phải sự đồng nhất hoá với Bản ngă vũ trụ
này là một phương thế tuyệt vọng của bản ngă con người để con người tiếp
tục cuộc chơi của nó?" Thật ra, theo tôi, sự Đồng Nhất Hoá Tối Thượng ấy
là một niềm tin mà tôi bám víu vào và tôi đang hoàn toàn tự mâu thuẫn.
Không chỉ vô nghĩa trong hành động bám víu vào cái tôi đang là; ngay
hành động bám víu ấy c̣n hàm ư rằng tôi không thật sự biết tôi là Nó!
Một niềm tin như thế th́ chỉ là khoác áo giả trang lên ḷng hoài nghi
của ḿnh.
Ư nghĩa sau cùng của việc biết tới Thượng đế bằng vô tri kiến, của sự
buông bỏ các thần tượng có tính cảm tính lẫn tính khái niệm, của thần
học tối hậu ấy là: niềm tin tối hậu th́ không ở trong hoặc không ở trên
bất cứ cái ǵ. Nó là hành động hoàn toàn buông xả. Nó không những chỉ ở
bên kia thần học mà c̣n ở bên kia chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa hư vô.
Không thể đạt tới trạng thái buông xả đó, không thể sở đắc được nó hoặc
triển khai nó qua kiên tŕ hoặc luyện tập, ngoại trừ tới mức độ mà những
nỗ lực ấy chứng minh tính chất bất khả của những hành động nhằm sở đắc
nó. Trạng thái buông xả chỉ đến qua sự tuyệt vọng. Khi bạn biết rằng nó
ở bên kia bạn - bên kia những năng lực để hành động cũng như bên kia
những năng lực để buông lơi của bạn. Khi bạn buông bỏ mọi mánh khoé và
mưu chước sau cùng để có nó, kể cả trong "buông bỏ" ấy gồm cái ǵ đó mà
ta có thể thể hiện, thí dụ, hứa hẹn một thời điểm mười giờ tối nay. Tới
độ bạn không thể thể hiện nó bằng phương tiện nào cả - thế thôi. Đó
là sự tự buông xă lớn lao, cái sinh ra các sao trời.
5. Người tôn giáo là
người thế nào?
(Erich Fromm)
Tôi từng phát biểu rằng con người bị chính thực tế sự hiện hữu của nó
đặt vấn đề với nó, và rằng vấn nạn đó phát xuất bởi sự mâu thuẫn bên
trong bản thân con người - một đằng sống trong tự nhiên, đằng khác,
trong cùng lúc ấy, vượt quá tự nhiên v́ thực tế ḿnh là cuộc sống, một
cuộc sống tự nhận biết chính nó.
Người nào lắng nghe vấn nạn đặt ra cho ḿnh ấy và người nào xem vấn nạn
ấy là "vấn đề quan tâm tối hậu", và trả lời nó bằng toàn bộ con người
của ḿnh chứ không phải chỉ bằng ư nghĩ, th́ đó là "người tôn giáo"; và
tất cả những hệ thống nào nỗ lực cung hiến, giảng dạy và giao truyền lời
giải đáp cho vấn nạn đó th́ đều là "tôn giáo". Ngược lại, bất cứ người
nào - và bất cứ nền văn hoá nào - mà cố sức làm ngơ vấn nạn có tính hiện
sinh đó th́ đều là phi tôn giáo.
Không có thí dụ nào điển h́nh về việc con người làm ngơ vấn nạn sinh tồn
đó cho bằng lấy ngay chính bản thân chúng ta, những người đang sống
trong thế kỷ 20 này. Chúng ta ra sức né tránh vấn nạn đó bằng cách quan
tâm tới tài sản, danh giá, quyền hành, sản xuất, vui chơi, và một cách
tối hậu, bằng việc ra sức quên rằng chúng ta - rằng tôi - hiện hữu.
Không quan trọng ǵ việc siêng năng đi nhà thờ, đ́nh chùa đền miếu hoặc
thường xuyên nghĩ tới Thượng đế hoặc xác tín vào các ư tưởng tôn giáo,
nếu người đó, toàn bộ con người của hắn, tai lơ mắt điếc trước vấn nạn
về sự hiện hữu của chính ḿnh, nếu hắn không có lời giải đáp cho vấn nạn
ấy th́ hắn vẫn giẫm chân tại chỗ, sống và chết như một trong một triệu
đồ vật mà con người sản xuất ra. Người đó chỉ nghĩ tới Thượng đế thay v́
nếm trải việc sống với Thượng đế.
6. Nghệ sĩ cuộc đời
(D.T. Suzuki)
Không thể kỳ vọng tất cả chúng ta đều là nhà khoa học, nhưng v́ cùng bị
cấu thành quá đỗi bởi tự nhiên nên chúng ta đều có thể là nghệ sĩ, đúng
ra, không phải nghệ sĩ trong các ngành chuyên biệt, thí dụ họa sĩ, nhà
điêu khắc, nhạc sĩ, thi sĩ, vv... mà là nghệ sĩ của cuộc đời. Chức
nghiệp ấy, "nghệ sĩ cuộc đời", nghe có vẻ mới lạ và hoàn toàn kỳ quặc,
nhưng thực tế, mọi người đều bẩm sinh là nghệ sĩ cuộc đời và v́ không
biết tới điều đó nên hầu hết chúng ta không làm được điều đó; hậu quả là
chúng ta làm cho đời ḿnh trở nên hỗn độn và rồi thắc mắc rằng: - "Ư
nghĩa cuộc đời là ǵ?" - "Có phải chúng ta đang không đối mặt với sự hư
không trống rỗng sao?" - "Sau khi sống bảy mươi tám năm hoặc cả đến chín
mươi năm, chúng ta sẽ đi đâu? Nào ai biết", vv và vv.
Tôi được biết rằng chính v́ lư do ấy nên người thời nay, nam có nữ có,
hầu hết đều mắc chứng rối loạn thần kinh. Nhưng người theo Thiền th́ có
thể nói cho họ biết rằng họ đều quên ḿnh bẩm sinh là nghệ sĩ, nghệ sĩ
sáng tạo cuộc sống. Ngay lúc nhận ra thực tế và chân lư đó, họ sẽ hoàn
toàn được chữa khỏi chứng rối loạn thần kinh hoặc rối loạn tâm lư hoặc
bất cứ từ ngữ nào người ta dùng để gọi sự xáo trộn ấy.
Vậy ư nghĩa của sự làm nghệ sĩ cuộc đời là ǵ?
Theo như tôi biết cho tới nay, nghệ sĩ của bất cứ ngành nào cũng phải sử
dụng công cụ này hoặc công cụ nọ để thể hiện ḿnh, để phô diễn tính chất
sáng tạo của ḿnh bằng h́nh thức này hoặc h́nh thức khác. Nhà điêu khắc
phải có đá hoặc gỗ hoặc đất sét, và đục chàng hoặc đồ nghề nào khác để
chạm trổ ư tưởng của ḿnh lên vật liệu. Nhưng nghệ sĩ cuộc đời th́ không
cần bất cứ công cụ nào bên ngoài bản thân. Toàn bộ vật liệu, toàn bộ
dụng cụ, toàn bộ kỹ năng thông thường phải có, đều nằm sẵn trong con
người từ lúc sinh ra, thậm chí có thể có trước khi cha mẹ sinh ḿnh ra.
Bạn có thể kêu lên rằng nói như thế là bất thường, kỳ quái. Nhưng khi
bạn bỏ chút th́ giờ suy nghĩ về điều ấy th́ tôi chắc chắn rằng bạn sẽ
lập tức nhận ra điều tôi có ư nói. Nếu bạn không nhận ra, tôi sẽ nói
thẳng và nói rơ ràng hơn với bạn.
Nó thế này: thể xác, cái h́nh hài vật lư mà chúng đều có, là vật liệu,
tương ứng với tấm vải căng để vẽ của họa sĩ, gỗ đá hoặc đất của nhà điêu
khắc, cây vĩ cầm hoặc ống tiêu của nhạc sĩ, dây thanh âm của ca sĩ. Và
tất cả những ǵ liên kết với thể xác đó, thí dụ như bàn tay, bàn chân,
thân ḿnh, đầu, phủ tạng, thần kinh, tế bào, ư nghĩ, cảm xúc, giác quan
- mọi cái đó thật ra đều hoạt động để làm thành con người toàn bộ - là
tất cả vật liệu mà trên nó, đồng thời là khí cụ mà với nó, con người rèn
luyện thiên tư sáng tạo của ḿnh thành đức hạnh, thành thái độ, thành
mọi h́nh thái hoạt động, và quả thật, thành chính đời sống. Như thế
người ấy, từng cử chỉ của người ấy, biểu lộ tính chất căn nguyên, sự
sáng tạo, nhân vị sống động của ḿnh. Trong biểu lộ đó không có sư rập
khuôn theo qui ước cũng như sự tuân thủ hoặc động lực kềm hăm. Người ấy
chuyển động khi cảm thấy thú vị. Động thái của người ấy như gió thổi khi
gió thích thổi. Người ấy không có "cái tôi" bị đóng gói trong cuộc sống
manh mún, giới hạn, trói buộc và vị kỷ. Người ấy thoát khỏi nhà ngục đó.
Một đại Thiền sư đời Đường có nói: "Với kẻ làm chủ bản thân th́ nơi nào
thiên hạ cũng thấy hắn hành động trung thực với bản thân." Tôi gọi người
ấy là nghệ sĩ cuộc đời.
Tự Ngă của người ấy chạm được tiềm thức, cội nguồn của những khả năng vô
tận. Cái người ấy có là "tâm-không". Thánh Augustine nói, "Hăy yêu
Thượng đế và cứ làm theo ư ngươi." Câu ấy tương tự bài thơ của Bunan,
một thiền sư thế kỷ mười bảy:
Trong khi sống
Hăy là người chết
Chết tận cùng;
Và hăy hành động như bạn muốn
Tất cả đều tốt.
Yêu Thượng đế là sống không bản ngă, sống tâm-không, trở thành "người
chết", giải thoát khỏi những động lực kềm toả của ư thức. Lời chào nhau
buổi sáng của người ấy không có thành tố vụ lợi trao đổi giữa người và
người. Tai nghe th́ miệng đáp. Cảm thấy đói th́ ăn. Về ngoại diện, người
ấy là con người tự nhiên, xuất phát thẳng từ tự nhiên, không có những
chuỗi ư tưởng phức tạp của người văn minh hiện đại. Nhưng cuộc sống nội
tâm của người ấy phong phú biết bao! V́ cuộc sống ấy hiệp thông với tiềm
thức bao la.
7.Ngón tay và quả đấm
(Chuyện Thiền)
Nhà sư lang thang nào cũng có thể đến tá túc trong Thiền viện ấy với
điều kiện thắng cuộc tranh luận Phật pháp với một nhà sư đang sống ở đó.
Nếu bại, phải đi qua nơi khác.
Có hai sư huynh đệ cùng sống trong một Thiền viện tại miền Bắc nước Nhật.
Sư huynh là người học rộng c̣n sư đệ là kẻ đần độn và chỉ có một mắt.
Ngày nọ, có một nhà sư lạ lang thang đến xin trọ. Ông đặc biệt thách đố
cả hai anh em về giáo pháp huyền vi. Hôm đó, sư huynh đuối sức v́ suốt
ngày học nhiều quá. Ông bảo sư đệ thay ḿnh ra đối đáp. Sư huynh dặn ḍ
kỹ lưỡng:
"Đệ hăy ra gặp và yêu cầu ông ấy tranh luận mà đừng nói."
Vậy, sư đệ cùng nhà sư lạ cùng an tọa trước điện thờ. Chỉ lát sau, nhà
sư lang thang đứng dậy, tới gặp người sư huynh và nói:
"Sư đệ của huynh là một đồng đạo tuyệt vời. Anh ấy đánh bại tôi rồi."
Sư huynh trả lời:
"Xin huynh kể lại cuộc đối thoại cho tôi nghe."
Nhà sư lang thang vừa kể vừa giải thích:
"Vâng. Trước tiên tôi đưa một ngón tay lên, tiêu biểu cho Đức Phật, đấng
giác ngộ. Anh ấy đưa hai ngón tay lên, có ư nói Đức Phật và lời giảng
của Ngài. Tôi đưa lên ba ngón, tiêu biểu cho Đức Phật, lời giảng của
Ngài và những người theo Ngài đang sống đời hoà điệu. Lúc đó, anh ấy đưa
nắm tay vô mặt tôi, ư nói cả ba đều phát xuất từ một thức ngộ độc nhất.
Vậy là anh ấy đă thắng, tôi không có quyền ở lại đây."
Nhà sư lang thang vừa bỏ đi th́ sư đệ chạy tới hỏi sư huynh:
"Hắn đâu rồi?"
"Huynh biết đệ đă thắng cuộc tranh luận."
"Chẳng thắng ǵ cả. Đệ sắp đập hắn."
Sư huynh hỏi:
"Đệ nói cho huynh biết chủ đề của cuộc tranh luận vừa qua là ǵ?"
"Có ǵ đâu. Vừa thấy mặt đệ là hắn giơ một ngón tay lên, nhục mạ đệ, ám
chỉ rằng đệ chỉ có một con mắt. V́ hắn là người lạ nên đệ nghĩ ḿnh phải
lịch sự, đệ đưa lên hai ngón, chào và khen hắn có đủ hai con mắt. Vậy mà
tên khốn kiếp vô lễ đó giơ lên ba ngón, ư nói hắn và đệ cộng lại cũng
chỉ có ba con mắt. Đệ nổi khùng vung tay lên tính đấm vô mặt hắn nhưng
hắn bỏ chạy. Thế là hết tranh luận."
*
Chú thích của
người dịch
Thiền, danh từ, cũng gọi Thuyền, yên lặng, nghĩ
ngợi: Đạo thiền, toạ thiền, tham thiền // tĩnh từ. Thuộc
về đạo Phật: Cửa thiền; Mùi thiền ăn mặc đă ưa nâu sồng. Kiều
[Việt Nam Tự Điển. Lê Văn Đức cùng một nhóm văn-hữu soạn. Lê Ngọc Trụ
hiệu đính. Nhà sách Khai Trí, Saig̣n, 1970].
Ngồi tựa mạn thuyền hoặc theo thiền đặng đáo bỉ ngạn - sang được
bờ bên kia, chỗ hoàn toàn thoát ly những phiền năo ô trọc của đời, mà
viên thành chính quả của đạo.
Erich Fromm (1900-1980): triết gia và nhà tâm lư học Mỹ gốc Đức. Ông
rời Đức sang Hoa kỳ năm 1934 và bắt đầu nổi tiếng với những phân tích
gây nhiều tranh luận về những căn bệnh của xă hội kỹ nghệ hiện đại.
Trong tác phẩm The Sane Society - Xă Hội Lành Mạnh (1955), ông
cáo buộc là xă hội tiêu thụ chịu trách nhiệm về sự cô lập, cô đơn và
hoài nghi giữa con người với nhau. Các tác phẩm khác gồm The Art of
Loving - Nghệ thuật yêu (1956) và The Revolution of Hope -
Cuộc cách mạng của hi vọng (1968)... Một số tác phẩm của ông đă được
dịch ra tiếng Việt như Chạy trốn cô đơn, Chạy trốn tự do, Nghệ thuật
Yêu...
René Descartes (1596-1650): Triết gia Pháp, một trong những nhà
tư tưởng rốt ráo nhất của mọi thời đại. Sau khi theo học Ḍng Tên, ông
trải qua 9 năm đi du lịch và thi hành quân dịch rồi mới bắt đầu nghiên
cứu. Năm 1628, ông định cư tại Hà lan, tới năm 1649, sang Thụy Điển dạy
nữ hoàng và qua đời tại đó. Suốt đời, ông là một tín đồ Công giáo La mă
thuần thành.
Cuốn Discourses on Method - Luận Về Phương Pháp - (1637) giới
thiệu kỹ thuật hoài nghi một cách có phương pháp của ông, mà ông triển
khai thành đại tác phẩm Meditations - Trầm Tư (1641). Từ vấn nạn
"Làm thế nào tôi biết và biết cái ǵ?" ông tiến hành theo một quá tŕnh
giảm thiểu vào câu tuyên bố nổi tiếng "Tôi tư duy vậy tôi hiện hữu"
- Je pense donc je suis. Từ cốt lơi cố định ấy, ông tiến tới việc thanh
thoả chứng minh sự hiện hữu của Thượng đế, và từ đó, sự hiện hữu của mọi
sự khác. Với ông, Thượng đế là Đấng hoàn toàn và tuyệt đối. Ông c̣n gây
được nhiều ảnh hưởng qua thuyết nhị nguyên rằng tâm là cái cốt tủy của
con người, và vật. Tuy thế, Descartes cũng như các triết gia khác, không
bao giờ trả lời thỏa đáng tại sao tâm và vật lại có thể tương tác. Ông
c̣n những đóng góp quan trọng về thiên văn học, đại số, h́nh học và địa
lư.
Friedrich Nietzsche (1844-1900): triết gia Đức. Ông lập luận rằng
"ư chí quyền lực" là đặc trưng chủ yếu của loài người, trong cuốn The
Birth of Tragedy - Sự Ra Đời của Bi Kịch (1872); và ông ca ngợi
con người là tự do, vĩ đại và đầy quyền lực, trong cuốn The Spake
Zarathustra - Zarathustra Đă Nói Như Thế (1883-92). Ư tưởng ấy bị
Đức Quốc xă ứng biến thành chủ nghĩa chủng tộc siêu nhân Aryan. Từ năm
1889, ông bị điên.
Sigmund Freud (1856-1939): nhà tâm thần học và tiên phong về phân
tâm học người Đức. Ông đặt lư thuyết của ḿnh trên những sinh hoạt của
tâm trí vô thức, những động lực, dục vọng và xung khắc tác động tới động
thái của con người. Ông làm giáo sư Đại học Vienna từ năm 1902, thành
lập Hiệp hội Phân tâm học Vienna năm 1910. Năm 1938, ông rời Áo v́ sự
chiếm đóng của Đức quốc xă, sang Luân độn và qua đời vào năm sau. Tác
phẩm của ông gồm Studies in Hysteria - Nghiên cứu chứng cuồng
(1895), The Interpretion of Dreams - Giải mộng (1899), Totem and
Taboo - Vật tổ và cấm kỵ (1913), Moses and Monotheism - Môsen
và độc thần giáo (1939)..
Daisetz Taitaro Suzuki (1870-1966): Thiền sư Nhật. Ông bắt
đầu tập Thiền năm 22 tuổi. Xuất thân từ một gia đ́nh nghèo, ông bỏ dở
đại học, sau đó, ông nghiên cứu ở Hoa kỳ 13 năm, dịch Asvaghosa (Mă
Minh), một thi sĩ Ấn, nhà hùng biện và và triết gia Đại Thừa và theo
truyền thuyết là tổ thứ 17 của Phật giáo Thiền tông, cuốn Awakening of
Faith in Mahayana - Đại Thừa Khởi Tín Luận (1900) và viết cuốn
Outline of Mahayana Buddhism - Đại Cương Phật Giáo Đại Thừa
(1907). Năm 1922, Suzuki trở về Nhật, dạy học và viết sách. Ông là giáo
sư Phật học Đại học Otani, Kyoto và là một học giả chủ yếu về Phật giáo
Đại Thừa và nói chung về Tôn giáo của Nhật. Ông viết nhiều tác phẩm nổi
tiếng về Phật học, đặc biệt Thiền học, giới thiệu Thiền cho cả phương
đông lẫn phương tây bằng lối nói đại chúng. Một số tác phẩm của ông đă
được dịch ra tiếng Việt như Thiền Luận, Cốt Tủy Của Đạo Phật, Huyền
Học Phật Giáo Và Thiên Chúa....
Alan Watts (1915-1973): Triết gia, thần học gia và là nhà nghiên
cứu tôn giáo đối chiếu người Mỹ, có ảnh hưởng sâu rộng trong phong trào
văn hoá phản kháng thập niên 1960. Với các tác phẩm nổi tiếng như The
Way of Zen - Đường Thiền (1857) và Psychotherapy East and West -
Đông Tây Tâm Lư Trị Liệu (1961),.. ông biện luận rằng người
phương Tây đang trong t́nh trạng hoang mang, t́m kiếm sự khuây khoả để
thoả măn bản ngă của ḿnh. Giải pháp là thay đổi ư thức, nhận ra mọi sự
trong quan hệ hỗ tương của chúng như những thành tố thiết yếu của một
tiến tŕnh duy nhất.
Jiddu Krishnamurti (1895-1985): đạo sư, sinh tại Ấn sau đó sang
Anh rồi định cư và từ trần tại Ojai, California. Từ nhỏ, ông được Hội
Thông Thiên Học giáo dưỡng và lập cho ông một "giáo hội" để chuẩn bị cho
ông làm giáo chủ thế giới, hóa thân của Bồ tát Di Lặc. Sau đó, ông giải
tán giáo hội ấy, từ bỏ mọi tuyên xưng thánh tính và ly khai Hội TTH. Từ
đó ông đi rao giảng khắp thế giới với chủ trương con người có thể thoát
khỏi khổ năo và sống hạnh phúc ngay giữa trần gian này bằng cách nh́n
"cái đang là" để giải quyết vấn đề đời sống trong hiện tại, cũng là giải
quyết cả quá khứ bị điều kiện hoá và tương lai... Hiện nay, tư tưởng của
ông c̣n ảnh hưởng mạnh lên giới tu sĩ, văn nghệ sĩ và những người đấu
tranh cho môi sinh.
Augustine (354-430): c̣n được gọi là Augustine thành Hippo, vị
giáo phụ vĩ đại nhất mọi thời của Kitô giáo. Ông gốc người Tunisia, sinh
trong một gia đ́nh ngoài Kitô giáo, trở thành Kitô hữu năm 386 nhờ người
mẹ ngoan đạo rồi được truyền chức giám mục giáo phận Hippo năm 396. Ông
thành lập một cộng đoàn đan sĩ, một linh mục đoàn, viết nhiều sách có
giá trị quyết định về thần học Kitô giáo. Ba tác phẩm quan trọng nhất
của ông là Confessions - Tự thú ;The City of God - Thành Đô
của Thượng Đế; và On the Trinity - Bàn Về Một Chúa Ba Ngôi,
v.v...
Bunan Shido (1602-1676): đại thiền sư người Nhật, thuộc phái
Rinzai, trụ tŕ Thiền đền Dharma.
Trang Nguyễn Ước
art2all.net
|