PHẠM Đ̀NH LÂN, F.A.B.I.

 

CHUYỆN VỀ HỌ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

 

Thăng Long thành
 

          Nói về họ của người Việt Nam chúng ta tạm tóm tắt một vài đặc điểm chính như sau:

1. Tất cả các họ ở Việt Nam đều được t́m thấy ở Trung Hoa. Những họ cổ xưa như họ Trưng, Âu, Lạc, Dương, Vương, Triệu, Cù, Nông, Nùng, Đoàn, Lữ, Phụng, Chu hay Châu v.v. được t́m thấy ở miền trung du, thượng du Bắc Bộ và ở Guangdong (Quảng Đông), Guangxi (Quàng Tây), Yunnan (Vân Nam), Zhejiang (Chiết Giang), trên đảo Hainan (Hải Nam) xưa là Hợp Phố.

HỌ VIỆT NAM

HỌ TRUNG HOA

Ngô


Trần
Hồ

Tạ
Mạc

Hoàng (Huỳnh)
Hồng
Liêu
Uông
Trịnh
Nguyễn
Triệu
Lạc
Lưu
Đặng
Trương (Trang)
Vương
Viên
Linh
Tống
Dương
Giang
Châu

Wu
Li
Lee, Li
Chen (Zhen)
Hu
He
Xia
Mo
Ma
Huang
Hong
Liao
Wang
Cheng (Zheng)
Yuan
Chao (Zhao)
Lo
Liu
Deng
Zhang
Wang
Yuan
Ling
Song
Yang
Jiang
Chou (Zhou) v.v.

 

Những họ mà người Việt hiện mang chưa hẳn là họ gốc. Điều dễ hiểu là Việt Nam là quốc gia có nhiều chinh chiến, nội chiến, nổi loạn nên rất khó ǵn giữ họ gốc của ḿnh v́ một lư do đặc biệt nào đó. Trong quá tŕnh Nam Tiến có nhiều người Việt Nam mang họ Chế, họ Trà… của người Chăm hay họ Sơn, họ Thạch… của người Khmer. Lê Văn Khôi, dưỡng tử của tổng trấn Lê Văn Duyệt, gốc người Cao Bằng, tên thật là Bế Văn Khôi. Chắc chắn hậu duệ của Nguyễn Trăi và Cao Bá Quát thay tên, đổi họ sau khi có bản án tru di tam tộc năm 1442 và 1855 để được an thân.

Ngày xưa tỷ lệ người biết chữ Hán để viết gia phả rất nhỏ nên chỉ có gia đ́nh các nho gia, quan lại mới có gia phả. Con cái sinh ra được ghi chép họ, tên, ngày, tháng, năm và giờ sinh kỷ lưỡng để xem tử vi. Số người này rất nhỏ. Chinh chiến làm cho gia phả bị thất lạc. Có người phải thay tên đổi họ và thay đổi nơi cư trú để bảo toàn an ninh và tánh mạng. Giấy tờ chữ Hán không khả tín 100% khi chữ quốc ngữ và tiếng Pháp thịnh hành trong nước từ hậu bán thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX v́ khó minh định thời gian, loại giấy dùng và cách hành văn trong văn kiện để xác nhận đó là thật hay giả, bản chánh hay bản mới viết v.v.

2. Xă hội Việt Nam ngày xưa là xă hội đa thê. Chỉ có con của chánh thất mang họ cha mà thôi. Các con ḍng thứ không được giữ họ cha nghĩa là đương nhiên bị loại ra khỏi quyền phân chia gia tài khi người cha mất. Đó là trường hợp cùng cha nhưng lại mang hai họ khác nhau, phức tạp pháp lư của chế độ đa thê. Dưới thời Pháp thuộc chỉ có các công chức mới chú trọng đến việc lập hôn thú và khai sinh cho con để lảnh lương và lo giấy tờ cho con cái học hành. Ngoài xă hội vẫn có nhiều cặp vợ chồng chung sống nhau nhưng không có hôn thú. Khi sinh con đứa trẻ mang họ cha miễn là được cha nh́n nhận. Luật gia đ́nh ban hành năm 1959 qui định con của những cặp vợ chồng không có hôn thú không được mang họ của cha. Nhiều trường hợp bất thường xảy ra trong những gia đ́nh không có hôn thú: trong cùng gia đ́nh, cùng cha, cùng mẹ nhưng những người con sinh trước 1959 mang họ cha và những người con sinh sau 1959 mang họ mẹ. T́nh trạng nầy chấm dứt sau năm 1963. Việc mang họ cha quan trọng đối với những gia đ́nh giàu có và quyền tước. Về phương diện vật chất mang họ cha để được quyền dự phần vào việc phân chia gia tài. Về mặt tinh thần đó là danh dự của người xuất thân từ những vọng tộc.

****

Các họ thường thấy ở Việt Nam là họ của các vương triều trong lịch sử.

Ngô Quyền là người sáng lập ra triều Ngô sau khi đánh bại quân Nam Hán đem lại độc lập cho nước nhà (938). Họ NGÔ ở nước ta cũng không nhiều v́ vương triều nhà Ngô tương đối ngắn ngủi (939- 944 rồi 950- 965). Ở Trung Hoa nhiều người mang họ Ngô của Wu Fu Cha (Ngô Phù Sai). Người Việt gốc Hoa ở Việt Nam mang họ Ngô liên hệ với Wu Fu Cha hơn là với Ngô Quyền gốc ở Sơn Tây.

Họ DƯƠNG ở nước ta là họ của Tiết Độ Sứ Dương Diên Nghệ, chủ tướng và nhạc phụ của Ngô Quyền. Khi Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha , con của Dương Diên Nghệ, làm nhiếp chánh. Ông soán ngôi nhà Ngô và xưng vương từ năm 945 đến 950.

Họ ĐINH được t́m thấy nhiều trong cộng đồng người Mường ở Ninh B́nh, Hoà B́nh, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng B́nh, Quảng Trị. Đó là họ của Đinh Bộ Lĩnh, người sáng lập ra nhà Đinh, gốc ở Ninh B́nh, sau khi đánh dẹp 12 sứ quân năm 968. Nhà Đinh chỉ kéo dài 12 năm (968- 980) trong lịch sử nên họ Đinh không đông đảo khắp nước.

****

Số người mang họ ở Việt Nam rất đông. Họ Lê hiện hữu ở Việt Nam dưới ba triều Lê khác nhau tổng cộng 383 năm:

- Nhà Tiền Lê khai sáng bởi Lê Hoàn tức vua Lê Đại Hành vào năm 980 và chấm dứt năm 1009.

- Nhà Hậu Lê do Lê Lợi tức Lê Thái Tổ khai sáng sau khi đánh đuổi quân Ḿnh ra khỏi bờ cơi. Nhà Hậu Lê kéo dài từ năm 1428 đến 1527. Lê Lợi lên ngôi sau khi Trần Cao tức Hồ Ông, một tôn thất của nhà Trần, bị giết chết. Các bô lăo gởi kiến nghị cho nhà Minh để xin Minh đế sắc phong An Nam Quốc Vương cho Lê Lợi v́ con cháu nhà Trần không c̣n ai nữa. Trong hàng ngũ kháng chiến chống quân Minh có hai công thần, một văn, một vơ là con cháu của nhà Trần: Nguyễn Trăi và Trần Nguyên Hăn. Cả hai là cháu của Trần Nguyên Đán. Nhà Hậu Lê đă nhổ hai cây gai này bằng một bản án tru di tam tộc dành cho Nguyễn Trăi năm 1442 và cái chết ám muội dưới sông nước của tướng Trần Nguyên Hăn (1429) để tránh tội nói dối với nhà Minh.

- Nhà Lê Trung Hưng kéo dài từ 1533 đến 1788. Đây là thời kỳ các vua Lê vô quyền trước chúa Trịnh. Vào thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, có hai tôn thất nhà Lê Trung Hưng nổi lên chống triều Nguyễn. Đó là Lê Duy Lương nổi dậy vào năm 1833 dưới triều vua Minh Mạng. Ông oán ghét triều Nguyễn v́ năm 1817 vua Gia Long ra lịnh xử tử cha ông là Lê Duy Hoán cùng với con trai của Đô Thống Nguyễn Văn Thành là Nguyễn Văn Thuyên. Vua Minh Mạng có ác cảm với họ Lê v́ ghét tổng trấn Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt (1), tổng trấn Bắc Thành, Lê Chất (2) và dư đảng nhà Lê ở miền Bắc. Hai vị tổng trấn này bị xử án dưới triều vua Minh Mạng sau khi chết. Mộ của hai vị ấy bị san phẳng. Dưỡng tử của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi nổi dậy ở Nam Kỳ năm 1833. Cuộc nổi loạn thất bại. 1800 người trong thành Gia Định bị giết sạch chôn trong ngôi mộ tập thể gọi là mả ngụy (1835). Nhiều người mang họ Lê khiếp sợ đổi sang họ khác đặc biệt là họ Nguyễn. Năm 1854, dưới triều vua Tự Đức, một tôn thất khác của nhà Lê là Lê Duy Cự nổi lên chống triều Nguyễn. Cao Bá Quát tham gia cuộc nổi dậy được gọi là Giặc Châu Chấu (3) nên bị ‘tru di tam tộc. Một số tôn thất nhà Lê bị đày vào Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngăi. Năm 1861 một người không rơ nguồn gốc theo đạo Thiên Chúa tự nhận là tôn thất nhà Lê dưới tên Pierre Lê Duy Minh hay Lê Duy Phụng hay Tạ Văn Phụng, nổi lên chống triều đ́nh. Đó là lư do tại sao vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức không có thiện cảm với họ Lê.

****

Họ TRỊNH được biết đến ở Việt Nam từ thời Nam Bắc Triều (Bắc Triều: nhà Mạc. Nam Triều: nhà Lê Trung Hưng với sự trợ giúp của Trịnh Kiểm). Tổ tiên của các chúa Trịnh là Trịnh Kiểm gốc ở Thanh Hoá. Ông sinh ra trong một gia đ́nh nghèo sớm mồ côi cha. Nhờ có năng khiếu chỉ huy quân sự thiên phú ông được Nguyễn Kim cho phép ông cưới con gái của ông là Ngọc Bảo. Họ Trịnh không làm vua nhưng làm chúa. Chúa lấn quyền vua. Họ Trịnh quyết định việc phế lập các vua Lê. Thậm chí có khi c̣n giết vua nữa. Họ Trịnh nắm quyền ở Nam Triều từ năm 1545 đến 1590 và ở Bắc Hà từ 1591 đến 1786 tổng cộng 240 năm.

Người Trung Hoa có nhiều người mang họ Trịnh gọi là Zheng (Quan Thoại). Họ Trịnh của người Việt gốc Hoa không liên hệ ǵ đến họ Trịnh gốc Thanh Hóa cà.

****

Họ ở Việt Nam do Lư Công Uẩn đại diện. Ông gốc ở Bắc Ninh, được nhà sư Lư Khánh Vân nuôi dưỡng và dạy dỗ trong chùa. Năm 1009 vua Lê Long Đỉnh mất. Các tướng lănh và sư Vạn Hạnh ủng hộ ông lên ngôi. Đó là vua Lư Thái Tổ, người khai sáng ra nhà Lư (1010- 1225).

Trước Lư Thái Tổ có Lư Bôn đánh đuổi quân nhà Lương (Liang) và xưng vương. Đó là Lư Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân. Tổ tiên của Lư Nam Đế là người Hán lánh nạn ở Giao Châu khi Trung Hoa có loạn Wang Mang (Vương Măng).

Lư Nam Đế (vua: 544- 548) là người sáng lập ra nhà Tiền Lư. Nhà Tiền Lư kéo dài từ năm 544 đến 602 không liên tục v́ có một thời gian dài Triệu Quang Phục tức Triệu Việt Vương đảm nhận trọng trách lănh đạo cuộc kháng chiến chống quân xâm lăng từ phương Bắc (548- 571).

Họ Lư là họ của Lư Đam (Li Dan 571- 471 trước Tây Lịch) tức Lăo Tử (Laozi) hay Thái Thượng Lăo Quân, tác giả Đạo Đức Kinh, nền tảng của Đạo Giáo (Taoism). Họ Lư cũng là họ của người khai sáng ra nhà Đường (Tang) (618- 907) là Li Yuan (Lư Uyên) ở Trung Hoa. Ở Trung Hoa họ Lưu và họ Lư rất đông. Đó là hai họ khai sáng ra nhà Hán và nhà Đường.

Nhà Lư suy vi dưới triều vua Lư Huệ Tôn. Năm 1225 vương quyền từ trong tay Lư Chiêu Hoàng rơi vào tay người chồng 08 tuổi, Trần Cảnh, theo kế hoạch của Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ hù doạ khiến vua Lư Huệ Tôn khiếp sợ phải tự tử chết mặc dù không c̣n tại vị và đă sống trong một ngôi chùa ở Thăng Long. Trần Thủ Độ ra lịnh chôn sống các tôn thất nhà Lư ở thôn Thái Đường, Bắc Ninh, năm 1232. Nhiều người họ Lư đổi ra họ Nguyễn.

Dưới triều Lư, Ngô Tuấn (tên thật của Lư Thường Kiệt) được ban quốc tính nhờ có nhiều chiến công nên được mang họ Lư của vua. Đó là danh tướng Lư Thường Kiệt (1019- 1105).

Ngày nay họ Lư được t́m thấy phần lớn trong cộng đồng người Việt gốc Hoa. Họ Lư này khác với họ Lư gốc ở Bắc Ninh.

****

Tổ tiên của nhà TRẦN là Trần Lư, một ngư phủ giàu có và có uy tín ở Nam Định. Ông là nhạc phụ của vua Lư Huệ Tôn, vị vua cuối cùng của nhà Lư. Ông là cha của Trần Thừa. Trần Thừa có hai người con là Trần Liễu và Trần Cảnh. Cả hai đều là rể của vua Lư Huệ Tôn. Trần Liễu cưới công chúa Thuận Thiên. Trần Cảnh cưới công chúa Chiêu Thánh tức Lư Chiêu Hoàng. Do sự sắp xếp của Trần Thủ Độ, cả hai đều có vợ không đầy 10 tuổi! Nếu Lư Huệ Tôn chọn công chúa Thuận Thiên nối ngôi th́ Trần Liễu có triển vọng làm vua. Lư Huệ Tôn chọn Chiêu Thánh lên ngôi tức Lư Chiêu Hoàng khi mới lên 07 tuổi. Trần Thủ Độ t́m cách buộc Lư Chiêu Hoàng trao ngôi báu cho chồng là Trần Cảnh khi ông mới lên 08 tuổi! Nhà Trần không có Trần Thái Tổ. Trần Cảnh lên ngôi tức là vua Trần Thái Tôn. Ở tuổi này ông không thể tự nhiên ngồi trên ngai vàng với tư cách v́ vua đầu tiên của nhà Trần nếu không có một Trần Thủ Độ quyết đoán, mưu lược và đầy thủ đoạn tàn độc hậu thuẫn. Triều Trần kéo dài 175 năm (1225- 1400).

Dưới triều Trần có tiến sĩ Nguyễn Thuyên làm bài Văn Tế Cá Sấu khiến con sấu rời khỏi sông Phú Lương. Vua Trần Nhân Tôn thấy công việc này giống như Hàn Dũ đă làm năm 830 nên cho phép ông đổi họ Nguyễn sang họ Hàn. Nguyễn Thuyên trở thành Hàn Thuyên (1282). Như đă biết Trần Thủ Độ diệt các tôn thất của nhà Lư trong cuộc thảm sát ở thôn Thái Đường, dùng lời đe dọa khiến Lư Huệ Tôn phải treo cổ mà chết. Ông tư t́nh với hoàng hậu Trần Thị Dung, bà con cùng ḍng máu họ Trần với ông, và chung sống với bà sau khi vua Lư Huệ Tôn thoái vị và tu trong chùa. Ông buộc vua Trần Thái Tôn chung sống với chị dâu, công chúa Thuận Thiên, vợ của Trần Liễu, anh ruột của nhà vua, đang có thai.

Từ năm 1390 đến 1400 nhà Trần suy vi. Những ǵ Trần Thủ Độ gây ra cho nhà Lư được Lê Quí Ly (sau này là Hồ Quí Ly) lập lại cho nhà Trần.

Nhà Lư suy yếu khi thái tử Sam tức vua Lư Huệ Tôn sau nầy chạy loạn đến Hải Ấp và sống trong nhà của Trần Lư. Thái tử Sảm yêu con gái của Trần Lư là Trần Thị Dung. Khi lên ngôi vua Lư Huệ Tôn phong cho Trần Thị Dung làm hoàng hậu. Bao quanh nhà vua là những thành viên của gia đ́nh hoàng hậu. Vua Lư Huệ Tôn và hoàng hậu Trần Thị Dung không có con trai mà chỉ có hai người con gái. Đó là công chúa Thuận Thiên và Chiêu Thánh tức Lư Chiêu Hoàng.

Lê Quí Ly được vào triều đ́nh nhà Trần v́ có hai người cô là ái phi của vua Trần Minh Tôn. Một người là mẹ của vua Trần Nghệ Tôn (vua: 1370- 1372) và một người là mẹ của vua Trần Duệ Tôn (vua: 1372- 1377). Năm 1372 vua Trần Nghệ Tôn nhường ngôi cho em là Trần Duệ Tôn để lên làm Thái Thượng Hoàng. Một người em họ của Lê Quí Ly là hoàng hậu của vua Trần Duệ Tôn. Uy thế của Lê Quí Ly càng lên cao v́ Thái Thượng Hoàng Trần Nghệ Tôn rất tín nhiệm ông. Năm 1377 vua Trần Duệ Tôn tử trận khi chinh phạt Chiêm Thành. Thái Thượng Hoàng Trần Nghệ Tôn đưa thái tử Hiển, con vua Trần Duệ Tôn, lên ngôi tức vua Trần Phế Đế (vua: 1377- 1388)

Lê Quí Ly chuyên quyền xúi giục Thái Thượng Hoàng Trần Nghệ Tôn thắt cổ vua Trần Phế Đế v́ vua âm mưu chống lại ông (1388). Thái tử Trần Ngung, người con út của Thái Thượng Hoàng Trần Nghệ Tôn, được đưa lên ngôi tức vua Trần Thuận Tôn (vua: 1388- 1398). Hồ Thành Ngâu, con gái của Lê Quí Ly, là hoàng hậu của vua Trần Thuận Tôn. Năm 1396 Lê Quí Ly bắt vua Trần Thuận Tôn dời đô về Tây Đô ở động Yên Tôn, Thanh Hoá, và buộc vua phải thoái vị để đi tu tiên (1398). Ngôi báu rơi vào thái tử Án, 03 tuổi! Đó là Trần Thiếu Đế, cháu ngoại của Lê Quí Ly. Phụ chính đại thần là Lê Quí Ly. Cựu vương Trần Thuận Tôn bị Lê Quí Ly cho người giết chết dù đă thoái vị và tu Tiên theo Đạo Giáo (Taoism). Các tôn thất nhà Trần như Trần Khát Chân, Trần Nguyên Hăn t́m cách giết Lê Quí Ly. Âm mưu bất thành, 370 tôn thất nhà Trần bị giết chết ngoại trừ gia đ́nh Trần Nguyên Đán, thông gia với Lê Quí Ly. Năm 1400 Lê Quí Ly cướp ngôi nhà Trần và lập ra nhà Hồ (1400- 1407). Một số người họ Trần hoảng sợ đổi sang họ Hồ hay họ khác. Một số khác t́m cách trốn tránh Hồ Quí Ly.

****

Tổ tiên Lê Quí Ly vốn họ HỒ gốc ở Zhejiang (Chiết Giang) và sống qua nhiều đời ở Nghệ An. Về sau họ Hồ sa sút và được sự giúp đỡ của ông Lê Huấn, một người giàu có và quyền thế ở Nghệ An. Từ đó ḍng họ Hồ được cải sang họ Lê. Khi lên ngôi Lê Quí Ly cải họ Lê của ông thành họ Hồ. Để ghi nhớ nguồn gốc Zhejiang (Chiết Giang) của tổ tiên Lê Quí Ly đổi thành Hồ Quí Ly. Như vậy gia đ́nh ông đă đổi họ từ Hồ sang Lê rồi từ Lê sang Hồ.

Hồ Phi Phúc, thân phụ của Hồ Thơm tức Nguyễn Huệ, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nhà cách mạng Hồ Học Lăm là những nhân vật danh tiếng họ Hồ gốc ở Nghệ An không biết có liên hệ huyết thống ǵ với Hồ Quí Ly không?

Tổ tiên của ông Hồ Phi Phúc được đưa vào Qui Nhơn vào thế kỷ XVII khi quân họ Nguyễn vượt qua sông Gianh mở cuộc Bắc tiến tấn công vào Nghệ An.

Hồ Học Lăm là một nhà cách mạng có uy tín hoạt động ở Trung Hoa. Ông là đại tá trong quân đội của Chiang Kaishek (Tưởng Giới Thạch). Ông thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) năm 1936 tại Nanjing (Nam Kinh). Bí danh Hồ Chí Minh là bí danh của đại tá Hồ Học Lăm. Ông là người yêu nước dùng uy tín cá nhân trong quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng để giúp đỡ cho các nhà cách mạng Việt Nam hoạt động trên lănh thổ Trung Hoa bất luận thuộc khuynh hướng chánh trị nào (Đông Dương Cộng Sản Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội).

****

Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi là người Việt Nam mang họ MẠC đầu tiên được biết đến trong lịch sử. Ông gốc ở Hải Dương, đậu trạng nguyên năm 1304.

Người khai sáng ra nhà Mạc là Mạc Đăng Dung, một người đánh cá gốc ở Hải Dương được chấm đậu Đô Lực Sĩ. Lợi dụng sự suy vi của nhà Hậu Lê với nhiều loạn lạc trong nước ông soán ngôi nhà Hậu Lê và lập ra nhà Mạc năm 1527. Họ Mạc có nhiều thù địch với họ Lê, họ Nguyễn và họ Trịnh. Sự ḱnh chống giữa ba họ Lê- Nguyễn- Trịnh như là ḱnh chống giữa hai trục Hải Dương và Thanh Hoá.

Hải Dương là sinh quán của họ Mạc.

Thanh Hoá là sinh quán của họ Lê, Nguyễn và Trịnh.

Sau khi rời khỏi Đông Đô năm 1591 (Thăng Long- Hà Nội) họ Mạc chạy lên Cao Bằng và được nhà Minh (Ming) ủng hộ nên c̣n tồn tại ở đó đến năm 1677. Nhà Thanh (Qing) không ủng hộ họ Mạc v́ họ Mạc ngả theo Wu San Gui (Ngô Tam Quế). Chúa Trịnh sát phạt họ Mạc. Để tránh sự theo dơi và trừng phạt đẫm máu của họ Trịnh nhiều người mang họ Mạc phải đổi sang họ Phạm. Ở Hải Dương, tỉnh sinh quán của họ Mạc, có hai nhân vật lịch sử họ Phạm được danh thơm là danh tướng Phạm Ngũ Lăo vào thế kỷ XIII đời nhà Trần và tiến sĩ Phạm Đ́nh Trọng vào thế kỷ XVIII thời vua Lê Chúa Trịnh. Do chiến công oanh liệt và danh thơm của Phạm Ngũ Lăo, một công dân Hải Dương, mà họ Mạc được đổi thành họ Phạm chăng?

****

Nhân vật lịch sử họ NGUYỄN đầu tiên là tướng Nguyễn Bặc đời nhà Đinh (thế kỷ X). Tiếp theo là các tướng Nguyễn Hoằng Dụ và Nguyễn Kim (thế kỷ XVI). Họ Nguyễn thực sự nổi bật trong lịch sử khi Nguyễn Hoàng, con của Nguyễn Kim, và một số người Thanh Hoá vượt Hoành Sơn thành lập một giang san độc lập với nhà Lê. Nguyễn Hoàng được gọi là Chúa Tiên (1600- 1613). Chúa Nguyễn ở Đàng Trong hay Nam Hà gồm 10 vị:

1. Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên (1600- 1613)
2. Nguyễn Phúc Nguyên tức Chúa Săi (1613- 1635)
3. Nguyễn Phúc Lan tức Chúa Thượng (1635- 1648)
4. Nguyễn Phúc Tần tức Chúa Hiền (1648- 1687)
5. Nguyễn Phúc Trăn tức Chúa Nghĩa (1687- 1691)
6. Nguyễn Phúc Chu tức Quốc Chúa (1691- 1725)
7. Nguyễn Phúc Trú tức Chúa Ninh Vương (1725- 1738)
8. Nguyễn Phúc Khoát tức Chúa Vơ Vương (1738- 1765)
9. Nguyễn Phúc Thuần tức Chúa Định Vương (1765- 1777)- Tây Sơn khởi nghĩa năm 1771.
10. Nguyễn Phúc Ánh (1777- 1801) (chỉ có ảnh hưởng trên đồng bằng sông Đồng Nai và Cửu Long mà thôi.

Mười vị chúa Nguyễn đứng đầu trong guồng máy chánh trị ở Đàng Trong 201 năm (1600- 1801) bị đứt quăng từ năm 1771 đến 1801 (30 năm nội chiến với nhà Tây Sơn).

Năm 1802 Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi tức là vua Gia Long. Triều Nguyễn có 13 đời vua: Gia Long (1802- 1820), Minh Mạng (1820- 1840), Thiệu Trị (1841- 1848), Tự Đức (1848- 1883), Dục Đức (1883), Hiệp Ḥa (1883), Kiến Phúc (1884), Hàm Nghi (1884- 1885), Đồng Khánh (1885- 1889), Thành Thái (1889- 1907), Duy Tân (1907- 1916), Khải Định (1916- 1925), Bảo Đại (1925- 1945) ngự trị trên một Việt Nam thống nhất trong 143 năm. Thực tế chỉ có vua Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị ngự trị trên một lănh thổ thống nhất rộng 330,000 km2. Dưới triều vua Tự Đức, Nam Kỳ mất vào tay người Pháp vào năm 1862 rồi 1867. Vương quyền nhà Nguyễn không c̣n ở Nam Kỳ từ đó. Năm 1884 Trung Kỳ và Bắc Kỳ trở thành đất bảo hộ (protectorat). Các vua nhà Nguyễn vẫn c̣n trên đất bảo hộ nhưng thực tế vô quyền.

Họ Nguyễn có vai tṛ quan trọng trên sân khấu chánh trị Việt Nam được 344 năm. Họ Nguyễn rất đông ở Việt Nam nhất là vùng đất chạy dài từ Quảng B́nh vào đồng bằng sông Đồng Nai và sông Cửu Long v́:

- họ Nguyễn có công khai thác và nới rộng 60% diện tích nước ta.

- các Chúa Nguyễn đều đắc nhân tâm nên được dân chúng yêu mến. Đàng Trong trở thành vùng đất Tự Do trọng dụng người có thực tài chớ không nặng về giai cấp xă hội. Trường hợp Đào Duy Từ là một điển h́nh. Trước khi khởi nghĩa ba anh em nhà Tây Sơn đổi họ Hồ của cha ra họ Nguyễn của mẹ, bà Nguyễn Thị Đồng, ư thức rằng dân chúng rất mến các Chúa Nguyễn. V́ vậy Nguyễn Nhạc không dám đả động đến họ Nguyễn mà chỉ nhắm vào sự lộng quyền và thối nát của quốc phó Trương Phúc Loan. Nếu Chúa Nguyễn không đắc nhân tâm th́ với một vùng đất mới, tổ chức quốc pḥng lỏng lẻo, rời rạc làm thế nào chống cự lại quân họ Trịnh? Chánh sách đắc nhân tâm cống hiến cho Đàng Trong nhiều tướng lănh giỏi như Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Dật và quân sư hữu tài hữu đức như Đào Duy Từ. Nhân dân đoàn kết một ḷng nên họ Nguyễn chẳng những cầm cự họ Trịnh hữu hiệu mà c̣n mở những cuộc hành quân vượt sông Gianh tấn công vào Nghệ An. Tổ tiên họ Hồ của ba anh em Tây Sơn được đưa từ Nghệ An vào Qui Nhơn sau cuộc hành quân này (1655).

- Ở miền Bắc ảnh hưởng của vua Lê, Chúa Trịnh vẫn c̣n quan trọng. Số người mang họ Nguyễn không đông bằng số người theo họ Nguyễn từ vĩ tuyến 18 trở vào Nam. Các Chúa Nguyễn rất đắc nhân tâm. Nhân dân no ấm; cuộc sống ổn định nên nhiều người muốn mang họ Nguyễn v́ yêu mến các vị lănh đạo của ḿnh. Các vua nhà Nguyễn, sau 30 năm nội chiến đẫm máu với nhà Tây Sơn, trở nên nghiêm khắc, bảo thủ và đa nghi nên thường dùng h́nh phạt đẫm máu để răn đe dân chúng. Vua Gia Long chẳng những không rộng lượng với kẻ thù như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân và con gái mà c̣n tỏ ra thiếu khoan dung đối với các công thần như Nguyễn Văn Thành (về bài thơ ngông nghênh của con là Nguyễn Văn Thuyên), Đặng Trần Thường. Sự đối xử của vua Minh Mạng đối với công thần như Lê Văn Duyệt, Lê Chất bằng những bản án phán xử người chết làm cho người bàng quan suy nghĩ ít nhiều về sự thiếu rộng lượng của người lănh đạo. Việc hủy sạch thành Gia Định và giết sạch những người theo Lê Văn Khôi nổi loạn năm 1835, việc giết đạo dưới triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, những cuộc đàn áp đẫm máu những cuộc nổi loạn của Lê Duy Lương thời Minh Mạng, Lê Duy Cự, bản án tru di tam tộc của Cao Bá Quát thời Tự Đức làm cho những người họ Lê hay họ khác khiếp sợ phải nghĩ đến việc đổi sang họ Nguyễn như một phương cách t́m đường sống. Khác với thời Chúa Nguyễn lần này nhiều người chuyển sang họ Nguyễn v́ sợ vua chớ không phải v́ yêu mến.

Dưới mắt người Tây Phương, NGUYỄN ám chỉ người Việt Nam. Các nhà lănh đạo Việt Nam thời cận đại phần lớn mang họ Nguyễn: Bảo Đại tức Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, Hồ Chí Minh tức Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Văn Thiệu.

****

Việc thay đổi họ, tên vẫn thường xảy ra trong những hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Ngoài việc đổi tên họ, các văn thi sĩ c̣n có bút hiệu. Các nhà cách mạng hoạt động bí mật có bí danh. Người ta biết Nhất Linh mà không biết Nguyễn Tường Tam hay biết B́nh Nguyên Lộc mà không biết Tô Văn Tuấn.

Trong xă hội Khổng Giáo, để tôn kính một danh nhân, người ta không gọi tên vị ấy mà gọi biệt hiệu như cụ Sào Nam tức Phan Bội Châu (do câu: Việt điểu Sào Nam chi); cụ Tây Hồ tức Phan Châu Trinh v.v. Ở Trung Hoa người ta tránh gọi tên Quốc Phụ Sun Yatsen (Tôn Dật Tiên) mà gọi ông là Sun Zhongshan (Tôn Trung Sơn. Zhongshan .<.Trung Sơn.>. là làng sinh quán của Sun Yatsen chớ không phải là tên hay biệt hiệu). Người Việt Nam gọi nhà khoa bảng Nguyễn Khuyến là Tam Nguyên Yên Đổ (Yên Đổ, xă sinh quán của ông trong tỉnh Hà Nam. Tam Nguyên: thủ khoa Hương thí, Hội thí và Đ́nh thí).

Trên lănh vực chánh trị người ta biết Trường Chinh mà không biết Đặng Xuân Khu. Henry Kissinger thương thuyết mật với Lê Đức Thọ. Ông biết Lê Đức Thọ nhưng không biết Phan Đ́nh Khải v.v. Các vị ấy dùng và duy tŕ bí danh như tên thật của ḿnh và quần chúng bên ngoài chỉ biết các bí danh ấy chớ không biết tên thật của các vị ấy. Lê Hữu Trọng được cải sang họ Lư. Sau này người ta biết Lư Tự Trọng chớ không biết tên gốc Lê Hữu Trọng (1914- 1931). Họ Lư ở đây là họ của Lư Thụy, bí danh của Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh sau này) khi hoạt động ở Guangzhou (Quảng Châu) năm 1925 bên cạnh Borodin.

Phần kết luận này củng cố những nhận xét trên trang đầu của bài viết.


(1) V́ Lê Văn Duyệt không ủng hộ việc lên ngôi của Thái tử Đảm tức vua Minh Mạng sau này và v́ chém đầu Huỳnh Công Lư, thân phụ của một ái phi của nhà vua!

(2) V́ là một quân nhân hữu công giữ chức vụ quan trọng ở Bắc Thành, địa bàn cai trị của vua Lê chúa Trịnh trước kia, ông dễ bị nghi ngờ phản lại triều đ́nh. Sự nghi ngờ dựa vào: 1. quá khứ của ông: ông là tướng lănh của Tây Sơn đầu hàng theo Nguyễn Ánh 2. sự thân thiện giữa hai tổng trấn Lê Chất và Lê Văn Duyệt.

(3) Giặc Châu Chấu: Gọi như thế v́ lúc ấy châu chấu tàn phá mùa màng trên b́nh nguyên sông Hồng.
 

 

Trang Phạm Đ́nh Lân

art2all.net