VÀI D̉NG VỀ QUÊ NỘI
Cây trường
Quê nội tôi là một xă hẻo lánh trong tỉnh Thủ Dầu Một. Ɖó là làng Tuy An có ranh giới chung với Dĩ An (1), B́nh Ḥa, Thuận Giao và Tân Phước (2). Ɖịa danh Tuy An gợi lại nguồn gốc Tuy An thuộc tỉnh Phú Yên ở miền Nam Trung Bộ. Về sau Tuy An và Vĩnh Phú sát nhập lại dưới tên mới là An Phú (Tuy An + Vĩnh Phú). Rừng C̣ Mi khét tiếng trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam xưa kia thuộc xă Vĩnh Phú. Quê nội tôi là một vùng đất cao không sông, không suối, không đồng ruộng, không có núi đồi hùng vĩ. Làng có nhiều khu rừng chồi. Rừng C̣ Mi rộng lối 10km2. Làng có sáu trục lộ nối liên tỉnh lộ Thủ Dầu Một-Biên Ḥa, Tân Ba-Tân Uyên, Dĩ An-Quốc Lộ 1, Tân Phước, Thuận Giao-Búng, B́nh Ḥa-Tân Thới (Lái Thiêu). Về vị trí địa lư An Phú liên hệ đến Gia Ɖịnh, Sài G̣n và Biên Ḥa nhiều hơn Thủ Dầu Một (B́nh Dương). Vấn đề quan trọng trong làng là NƯỚC. V́ nằm trên vùng đất cao, việc đào giếng rất sâu vẫn không có nước. Các anh tôi thường tắm ở mạch Cây Ɖào ở Tân Phước cách nhà lối 2km. Cư dân làng An Phú phải sắm nhiều lu mái vú hay xây hồ để chứa nước mưa xài quanh năm. Giống như người Do Thái, cư dân An Phú rất quí nước. Nước Do Thái có 60% diện tích đất đai là sa mạc khô khan thiếu nước nhưng sa mạc Neguev vẫn phủ thảm xanh thảo mộc. Trường hợp làng An Phú cũng tương tự như vậy. So với các xă lân cận, xă An Phú có nhiều cây cối thiên nhiên và cây ăn trái xanh tươi vừa cho bóng mát và trái cây, vừa thanh lọc không khí. So với quê ngoại, quê nội tôi có nhiều nét vượt trội. Quê nội có chợ, bến xe ngựa, tiệm nước chú Kiên, tiệm nước Sáu Cử. Thân sinh của Sáu Cử làm việc cho Phủ Toàn Quyền ở Hà Nội. Sáu Cử ăn diện như người Sài G̣n. Ɖầu chải brillantine. Ông mặc áo sơ-mi trắng với quần sọt (short) trắng và mang giày Bata trắng. Ông sống độc thân. Ông có thú vui của người già vui thú điền viên với đàn cá cảnh đầy màu sắc rực rỡ và vài loại chim biết nói tiếng người. Quanh chợ có tiệm gạo do bà nội của tôi làm chủ. Ɖối diện với tiệm gạo là tiệm thuốc Bắc. Tôi không biết tên ông chủ tiệm thuốc người Hoa mà chỉ nghe người ta gọi ông là thầy Phù v́ ông có cái bướu cổ to. Phù ở đây không phải là tên mà là đặc điểm của cái bướu cổ to của ông. An Phú có vẻ là một làng có tổ chức ít nhiều chịu ảnh hường của văn hóa Tây Phương. Làng không có nhà lá. Trong làng có nhiều nhà gạch với những tam cấp cao. Nhà lợp ngói móc, có nhiều cửa sổ. Những nhà xưa đều là nhà gỗ lợp ngói âm dương, tức một tấm ngói úp hướng về Ɖất và một tấm ngói ngửa hướng lên Trời. Gọi là ngói Âm-Dương là v́ thế. Nhà nào cũng có vách gỗ kín đáo. Nhà giàu có bàn, ghế, ván, tủ thờ bằng gỗ quí như trắc, gơ, cẩm lai và có đèn treo Hoa Kỳ. Phần lớn nhà cửa ở An Phú có hàng rào bông bụp với hoa đỏ, vàng rực rỡ. Quanh nhà đều trồng cây ăn trái như mít, xoài, mận, bưởi. Trái cây thường thấy trong làng là thơm tim, bưởi, mít, xoài, chuối, hồng quân (3). Trái cây rừng nổi tiếng là trái trường (4) màu đỏ hay màu vàng rất đẹp khi trái chín. Trái trường mỏng cơm, hột to, vị chua. Ông nội tôi có một cây trường trái to như trái vải (lệ chi), cơm dày, vị ngọt thanh. Sau chín năm chiến tranh cây trường này không c̣n nữa. V́ cây trường cao nên việc hái trái trường rất khó khăn và nguy hiểm. Trong làng chỉ có anh Lư Quản trèo trường mà thôi. Tôi không biết vợ anh Lư Quản. Anh có năm người con trai. Phần lớn đều lớn tuổi hơn tôi. Ɖứa con thứ tư của anh ở vào tuổi tôi. Gia đ́nh anh nghèo lắm. Cha tôi cho anh cất một cḥi lá trên đất nhà cách xa nhà tôi chừng lối 300m. Nhà của anh gần mấy cây trường. Các con anh thường khóc lóc, gây gổ, đánh nhau v́ đói. Thỉnh thoảng anh cả tôi mang cơm ra cho các con của anh ăn. Anh rất cảm ơn gia đ́nh chúng tôi. Dù nghèo và không may mắn được học hành, nhưng anh Lư Quản dạy con rất nghiêm. Các con của anh không bao giờ trộm cắp hay hái trái cây quanh nhà chúng tôi. Sau khi An Phú ch́m trong khói lửa, anh Lư Quản và các con chạy lên thác Trị An sống trong rừng rậm hoang vu giữa tiếng chim kêu, vượn hú và tiếng gầm thét của cọp, beo. Năm 1955 anh tôi rước anh về Sài G̣n, nơi anh chỉ đến một lần trong đời. Từ khi trở về thác Trị An đến cuối cuộc chiến Việt Nam lần thứ hai, tôi không có tin tức ǵ về anh và các con anh. Người thứ hai sống nương náu trong đất của cha tôi là ông Ba Mới. Ông chỉ có một người con trai, thằng Bi, lớn hơn tôi đôi chút. Giống như anh Lư Quản, ông Ba Mới không có vợ. Ông có vẻ nghèo nhưng gánh nặng gia đ́nh của ông nhẹ hơn gánh của Lư Quản. Thằng Bi bị phù thủng. Nó thích ăn gạo sống. Tôi không có tin tức ǵ về ông Ba Mới và thằng Bi sau khi rời khỏi quê nội. An Phú không có đồng ruộng nên làng không có nông dân. Trong làng có năm người có xe ngựa. Ɖó là phương tiện vận chuyển người và hàng hóa từ làng ra Búng, Lái Thiêu, Dĩ An. Có khi xe ngựa di chuyển từ An Phú đi Tân Ba hay Tân Uyên. Trong năm người chủ xe ngựa có ba người khá giả. Cả ba người có nhà cửa khang trang nhất trong làng. Một người trong số đó trở nên giàu có nhờ khai thác lâm sản ở Xuân Lộc (Long Khánh sau này), nơi ông có nhà lầu và đồn điền cà-phê. So với các xă láng giềng tỷ lệ dân An Phú có CEPCI (bằng Tiểu Học), DEPSI (bằng Thành Chung) khá cao. Vào thập niên 1920, 1930, 1940 có CEPCI là có công việc nuôi sống gia đ́nh dễ dàng. DEPSI là mảnh bằng lư tưởng. Cho đến năm 1945 người có CEPCI được liệt vào thành phần trí thức tiểu tư sản! Vào thập niên 1950 bằng DEPSI vẫn c̣n là ước mong của thanh niên. V́ lư do sinh tồn dân làng An Phú phiêu lưu mạo hiểm hơn cư dân các làng lân cận sinh sống bằng hoạt động nông nghiệp. Cư dân An Phú có lực lượng giáo chức, công chức, tư chức, thương gia, khai thác lâm sản rất đông, hoạt động rải rác ở Thủ Dầu Một, Biên Ḥa, Lộc Ninh, Hớn Quản (B́nh Long), Xuân Lộc (Long Khánh), Sài G̣n, Mỹ Tho (Ɖịnh Tường), Kompong Cham, Phnom Penh. Ông Nguyễn Văn Ɖiệt được xem là Thầy của các trí thức Tây học trong làng. Không biết do đâu mà một làng hẻo lánh như An Phú lại có một trường tiểu học to lớn với một sân trường rộng răi có nhiều cây phượng vĩ trổ hoa đỏ rực vào mùa hè. Trường nổi tiếng với tỷ lệ học sinh đậu CEPCI và đậu trong các kỳ thi tuyển vào trường Pétrus Kư ở Sài G̣n. Một vài học sinh ở Búng và Biên Ḥa đến An Phú t́m nhà trọ để học trường tiểu học tại địa phương. Ông Nguyễn Lâm Sanh, con của Thầy Nguyễn Văn Ɖiệt có cử nhân luật đầu tiên trong xă. Ông hành nghề luật sư cùng thời với luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Trương Ɖ́nh Dzu, Trần Ngọc Liễng. Ɖốc phủ Vơ Văn Ngọ là rể của Thầy Nguyễn Văn Ɖiệt. Ông là tỉnh trưởng người Việt đầu tiên ở Chợ Lớn. Dưới thời Ɖệ Nhất Cộng Ḥa ông là Ɖổng Lư Văn Pḥng bộ Tài Chánh. Một thứ nữ của Thầy Nguyễn Văn Ɖiệt là Nguyễn Thị Giàu, chủ nhà máy dệt Liên Phương ở Thủ Ɖức. Nhà máy dệt Liên Phương cạnh tranh ngang ngửa với VINATEXCO. Với số lượng “trí thức” khá đông đảo làng An Phú sớm Tây Phương hóa (Occidentalisation – Westernization). Những tên Paul, Pierre, François, Ernest, Jules, Vincent… xuất hiện trong làng. Mong ước của những “trí thức” xă thôn thời bấy giờ là được Bắc du để học trường Cao Ɖẳng Hà Nội hay xa hơn là Tây Du để học ở Ɖại Học Sorbonne, để được ngắm nhà thờ Notre-Dame de Paris, ḍng sông Seine và vườn Luxembourg thơ mộng. Năm 1945 An Phú như sống dậy trong trào lưu cách mạng. Tôi không biết nhiều thanh niên từ đâu đến An Phú đốt lửa trại trên sân trường tiểu học, kêu gọi dân chúng cứu trợ nạn đói ở Bắc Bộ. Những bài hát yêu nước gây hận thù thực dân Pháp và phát xít Nhật vang lên. Trường học đóng cửa. Hai người anh lớn của tôi rời trường Pétrus Kư về nơi sinh quán. Người anh thứ ba vừa đậu tiểu học thời Nhật (5) và người anh kế tôi học lớp nh́. Tất cả các anh tôi đều tham gia các đội thanh niên và thiếu nhi, hội họp và ca hát suốt ngày. Ngày nào tôi cũng nghe:
Nào anh em bạn trẻ nước Nam Việt Nam! Hay
Nào anh em ta cùng nhau xông pha Hay Chiều nay xa chiến khu sao ḷng buồn? v.v. Cha tôi thất nghiệp nằm nhà. Gặp lúc có lịnh cấm nuôi chó nhằm bảo vệ sự an toàn cho các hoạt động du kích, cha tôi, ông Tư Siêng, ông Năm Phón suốt ngày nhậu thịt chó. Gia đ́nh tôi nuôi bảy con chó nên không sao ăn hết cẩu nhục. Ông Năm Phón phải muối thịt chó trong khạp để có thịt ăn trong nhiều ngày. Ông Tư Siêng vừa ăn thịt chó vừa giải thích lời dạy của Thánh Hiền. Ông nói: Xuất giá ṭng phu: nghĩa là ra xe (xe ở đây là xe ngựa) th́ phải ṭng phu xe. Phu tử ṭng tử: nghĩa là người phu xe chết (v́ đụng vào cây cổ thụ chẳng hạn) th́ ḿnh cũng chết theo. Sau khi làng bị thiêu hủy, ông Tư Siêng sống nương náu trong một ngôi chùa trong tỉnh Biên Ḥa. Thỉnh thoảng ông lén mua rượu và uống trong chùa. Vị sư trụ tŕ biết ông lén lút uống rượu trong chùa nên cảnh cáo ông. Ông căi lại rằng:
- Thưa thầy, con không hề vi phạm điều ǵ trong Ngũ Giới Cấm: Sư trụ tŕ: -??? Năm Phón là thợ máy từ Sài G̣n về quê sau những biến động ở Sài G̣n. Sự tính toán của ông Năm Phón tạm thời xem như không ổn. Ở Sài G̣n có nhiều xe cộ, máy móc để sửa. Về quê có ǵ để sửa. Dân làng An Phú được xem là có đời sống sung măn nhưng họ chỉ có xe đạp mà thôi. Chỉ có Hai Ɖầy có xe b́nh bịch (6). Xe mô-tô của Hai Ɖầy c̣n mới nên không có ǵ để nhờ ông Năm Phón sửa cả. Một Kính, người sĩ quan duy nhất trong làng, phục vụ ở Hớn Quản. Vào năm 1945 quan một (thiếu úy) là một quân hàm cao đối với người dân thuộc địa. Các ông Dương Văn Minh, Văn Tiến Dũng, Xuyên Sơn (Nguyễn Văn Theo) đếu cùng cấp bậc với ông Một Kính vào thời ấy. Ông Kính mua một chiếc xe đ̣ trên Hớn Quản chạy về An Phú. Về đến làng xe không chịu chạy. Ông Năm Phón có việc làm. An Phú sống trong cảnh Thái B́nh chờ đợi chiến tranh. V́ c̣n quá nhỏ, tôi không biết tại sao cha tôi ở nhà để ăn thịt cầy với ông Tư Siêng và ông Năm Phón. Tôi hơi buồn v́ bảy con chó khôn trong nhà bị giết. Tôi không biết v́ sao nhà tôi có vài thanh niên lạ vào ở. Ngày nào tôi cũng ra dăy phố của cha tôi trên hương lộ An Phú-Thuận Giao-Búng để nghe các thanh thiếu niên ca hát và vỗ tay, reo ḥ. Tôi thích thú thấy ba thằng Bự ăn một cuốn bánh tráng gồm có mười trứng vịt luộc với rau rừng. Tôi tham gia vào việc đẩy chiếc xe đ̣ của ông Một Kính với hy vọng xe nổ máy để được ngửi mùi thơm của xăng và được hưởng gió mát trên xe hơi chạy quanh đường làng. Khốn thay! Ước vọng tầm thường cũng không thực hiện được! Ông Năm Phón sửa xe ra sao mà mấy ngày liền xe được đám đông hợp lực đẩy vẫn ù ĺ không chịu nổ máy. Một buổi chiều có gió mát, tôi đứng đối diện với nhà Thầy Nguyễn Văn Ɖiệt. Chiếc xe b́nh bịch của Hai Ɖầy từ hướng Búng chạy về An Phú. Tiếng xe nổ đều đều làm cho con chó nhà thằng Bự sắp điên lên. Bất th́nh ĺnh nó phóng ra đường đầy bụi đỏ khi xe b́nh bịch của Hai Ɖầy chạy tới. Hai Ɖầy sút tay lái và té ngă xuống đường bất tỉnh. Một người trong đám đông bao quanh Hai Ɖầy nói: “Cái này phải uống đồng tiện mới được!” Nh́n qua nh́n lại chỉ có tôi có đồng tiện mà thôi. Thế là tôi là người tặng đồng tiện cho Hai Ɖầy. Quả nhiên sau khi uống đồng tiện, Hai Ɖầy từ từ tỉnh dậy. Khi c̣n nhỏ, tôi không biết Hai Ɖầy làm ǵ ở Sài G̣n mà có xe b́nh bịch. Khi đi học ở Sài G̣n, tôi gặp lại Hai Ɖầy. Lúc ấy anh là họa sĩ minh họa các bài học bằng h́nh vẽ cho các ấu sinh trường Aurore. *** Cuộc chiến tranh Việt-Pháp bắt đầu. Dân làng An Phú phân tán khắp nơi trong nước. Người chạy ra Búng, Lái Thiêu, Phú Cường (Thủ Dầu Một). Người chạy về Dĩ An, Biên Ḥa, Xuân Lộc. Người chạy về Sài G̣n v.v.. Nghiễm nhiên họ trở thành một nhóm “Do Thái” gốc Việt trong một làng hẻo lánh trong tỉnh Thủ Dầu Một. Gia đ́nh chúng tôi ra Lái Thiêu v́ cha chúng tôi bị bắt nhốt ở đó. Sau khi cha được tự do, gia đ́nh chúng tôi đoàn tụ ở Lái Thiêu. Cha tôi không có một ngày vui suốt thời gian sống ở Lái Thiêu. Người tự xem ḿnh như người viễn xứ khi đất đai của tổ phụ ch́m trong khói lửa. Ông tôi mất trong cô đơn vắng lặng. Con cháu tản mát khắp nơi. Khi c̣n sống, ông nổi tiếng là người cương trực, có óc tổ chức và khả năng biện luận cao. Là thành viên bí mật của Thiên Ɖịa Hội, ông có những mật khẩu riêng, cách chào kính đặc biệt để nhận người đồng hội. Ông nội tôi sống một ḿnh trong một căn nhà xưa rộng lớn. Ông nuôi năm con ngựa. Hàng ngày ngựa ăn cỏ trong vườn g̣n của cha tôi. Chiều đến, ông thổi c̣i th́ ngựa chạy về chuồng. Khi cho gà ăn mỗi buổi chiều, ông đánh kẻng để tập hợp và báo cho chúng biết đă đến giờ ăn chiều. Ɖể kiểm soát xem gà có bị thất lạc hay bị chồn ăn không, ông chỉ cần đánh kẻng là gà chạy lại đông đủ v́ biết đă có thóc lúa để ăn trước khi vào chuồng. Ɖể tránh gà bươi vườn rau, ông bắt gà phải mang guốc. Gà đi khệ nệ với những tiếng lóc cóc nhịp nhàng trên nền đất như một khúc nhạc dị kỳ hiếm khi được nghe. Cuộc chiến tranh chín năm làm cho dân làng An Phú phân tán khắp nơi. Cha tôi vừa mất sản nghiệp vừa là nạn nhân của hai phe lâm chiến. Pháp nghi cha tôi là Việt Minh v́ người bị bắt trong vùng Việt Minh. Trước khi bị Pháp bắt, cha tôi bị Việt Minh ruồng bắt. Ɖêm những người bịt mặt bắt bà ngoại tôi ở B́nh Chuẩn là đêm những người này t́m bắt mẹ tôi! Cha tôi buồn v́ thân phận người bị phá sản, người ly hương rời bỏ nơi sinh quán, rời bỏ vô vàn kỷ niệm đẹp trong một làng nghèo hẻo lánh. Cha tôi sống biệt lập ở Lái Thiêu. Không có bạn bè, không ăn uống trong các quán tiệm trong thành phố. Khi hớt tóc, người nhờ ông Năm Ứng đến nhà để hớt. Các anh tôi học ở Sài G̣n. Cha tôi rất mừng về những thành tích của các anh tôi ở học đường trong khi tôi là một người học tṛ kém cỏi trong trường. Cha tôi có linh cảm không sống lâu giữa lúc tôi và em tôi c̣n nhỏ. Tôi lại học kém, suốt ngày ngao du ngoài đường, thích học chuyện ngoài phố hơn là chuyện học đường. Cha tôi an ḷng v́ tôi không phá phách, trộm cắp hay đánh lộn với các đứa trẻ khác để gây phiền ḷng cho cha mẹ ḿnh. Cha tôi được nghe nhiều người khen tôi gan dạ và dễ thương. Năm 1949 thủ hiến Trần Văn Hữu và thiếu tướng De La Tour đến Lái Thiêu. Tôi được xếp đứng hàng đầu của học sinh trường tiểu học Lái Thiêu để đón tiếp vị thủ hiến gốc kỹ sư canh nông có Pháp tịch này. Lúc ấy tôi hớt tóc ngắn gần như trọc. Thủ hiến Trần Văn Hữu xoa đầu tôi và hỏi: - Biết nói tiếng Pháp không? - Dạ biết. Tôi đáp lại một cách nhanh nhảu không một chút đắn đo. - Comment t’appelles-tu? Thủ hiến hỏi. - Je m’apelle Lân. Tôi đáp. - Quel âge as-tu? Thủ hiến hỏi. - J’ai neuf ans. Tôi trả lời. Thủ hiến Trần Văn Hữu và thiếu tướng De La Tour cười to trước ống kính của các phóng viên báo Ánh Sáng, Dân Quyền và Nha Thông Tin Nam Việt. Cha tôi rất vui khi thấy ảnh chụp của tôi bên cạnh thủ hiến Trần Văn Hữu trên báo Ánh Sáng. Tôi là người giúp đỡ cho cha nhiều việc trong nhà. Nhưng tôi lại là người con làm cho cha tôi lo lắng hơn cả v́ tôi không lo học hành mà chỉ ngao du ngoài đường, thích đá cá, đá dế, đá banh, đua xe đạp và giao du với người lớn. Tôi thường tiếp xúc với ông Thầy Chùa Lùn ở chùa Giác Nguyên ở Phú Long. Ông tặng tôi những cuốn sách nói về những trừng phạt đẫm máu dưới Âm Phủ. Tôi hay tṛ chuyện với anh Phạm Văn Cơ, một tu sĩ tại gia, trong căn phố ông mướn gần tiệm chiên bánh tiêu và gị cháo quảy. Anh Phạm Văn Cơ lớn tuổi hơn cha tôi nhưng theo vai vế trong ḍng họ, tôi gọi anh là anh. Cha anh Phạm Văn Cơ là ông Phạm Văn Cừ làm việc ở Phủ Toàn Quyền ở Hà Nội. Anh từng sống ở Hà Nội và học trường Mỹ Nghệ ở đó. Anh yêu thích cầm, kỳ, thi, họa. Sau khi vợ anh mất, anh từ bỏ thú vui của người nghệ sĩ để tu tại gia. Anh vẽ cho tôi h́nh Ɖức Phật trên ṭa sen rất đẹp. Tôi tự ư đặt h́nh vẽ này trên tủ sắt đựng tiền của cha tôi để thờ. Cha tôi im lặng chấp nhận việc làm tùy tiện của tôi v́ tôi học kém nhưng không hư hỏng, mà có đức tin và tâm hướng thiện. Tôi học kém nhưng có ảnh hưởng đối với vài người bạn trong lớp. Tôi và các bạn lập một bàn thờ Phật ngay trong hộc bàn của tôi trong lớp. Ảnh Phật lấy từ nhăn nhang trầm hương. Các bạn hái bông dành dành, trái b́nh bát ở Phú Long để cúng Phật. Một hôm các thầy giáo nói chuyện với nhau vui vẻ trong lớp tôi học. Bỗng thầy Hà Văn Gương ngạc nhiên khi thấy khói bốc lên từ bàn học của tôi. Thầy tưởng hộc bàn bị cháy. Thầy cười ngất khi biết đó là khói của nhang cúng Phật tỏa ra từ hộc bàn của tôi trong lớp. Ngày 05-10-1950 tôi dẫn hai người bạn cùng lớp là Pierre và Sâm về B́nh Chuẩn để vào chiến khu. Thấy tôi về trong ngày học, bà ngoại tôi hỏi: - Hôm nay con không đi học sao? - Cháu nghỉ học luôn. Tụi cháu quyết định vào chiến khu. Bà tôi không nói thêm một lời. Trông bà có vẻ không vui. Bà chuẩn bị cơm chiều cho ba anh em chúng tôi. Ɖợi trời tối, tôi dẫn Pierre và Sâm đi trên một đoạn đường đầy cát để đến nhà Mười Sang. Tôi giới thiệu hai bạn Pierre và Sâm và nói về mục đích của ba chúng tôi cho Mười Sang nghe. Sau vài phút lắng nghe tôi nói ư muốn vào chiến khu, Mười Sang nói: - Các cháu c̣n nhỏ lắm. Các cháu cần học hành để sau này trở nên hữu dụng cho đất nước. Sau vài phút nói chuyện vu vơ, ba anh em chúng tôi thất vọng ra về. Về đến nhà, bà tôi hỏi về kết quả cuộc gặp gỡ với Mười Sang. Trông bà có vẻ hài ḷng khi được biết Mười Sang khuyên chúng tôi về thành phố và tiếp tục việc học hành. Bà khuyên tôi: - Cháu và hai bạn đi ngủ. Sáng mai bà theo cháu đi Lái Thiêu. Ɖừng sợ! Ba không đánh đ̣n cháu đâu. Ngày đi, chúng tôi đi bộ trên những con đường ṃn không cho người quen trông thấy. Ngày về, chúng tôi ngồi xe đ̣ Thủ Dầu Một-Sài G̣n. Ɖến Lái Thiêu, xe ngừng trước nhà thuốc Ɖông Y của ông Quách Lương Trí. Nhiều bạn học chúng tôi đứng bên kia hàng rào sắt của trường vỗ tay và la lên: “Thằng Lân về ḱa!” Ngày chúng tôi rời Lái Thiêu, dư luận trong thành phố xôn xao về sự vắng mặt của tôi và hai bạn Pierre và Sâm. Nào là chúng tôi đi theo Việt Minh. Nào là chúng tôi bị Việt Minh bắt. Có người thấy Việt Minh dẫn chúng tôi đi trên Quốc Lộ 13 trên đầu truông cách Lái Thiêu 1km v.v.. Tất cả các tin được đưa ra đều xuất phát từ sự phỏng đoán và thêu dệt mà ra. Nguyễn Văn Pierre theo đạo Thiên Chúa. Anh ấy gốc người Nhị B́nh giàu có. Ở Nhị B́nh gia đ́nh anh có vườn măng cụt, sầu riêng và hàng chục mẫu mía. Ở Phú Long mẹ và d́ anh có một ḷ vôi bên bờ sông gần cầu đúc. Nguyễn Văn Sâm là cháu bà giáo Xước. Anh ấy mồ côi cha mẹ. Anh cùng em là Lam sống nương nhờ bà cô. Sâm thua buồn v́ sống bám vào người cô. Sâm hưởng ứng chuyến vào chiến khu của tôi. Tôi không biết do đâu Pierre sốt sắng theo tôi. Ɖến Lái Thiêu bà tôi và tôi đi về nhà tôi trên Quốc Lộ 13, lúc ấy mang tên Tây là Route Fédérale No 13. Pierre về nhà ở Phú Long gần cầu đúc. Sâm về nhà của bà cô trên đường Hàng Me, sau này là đường Trưng Nữ Vương Ngay trong ngày hôm đó cha tôi đau ḷng nh́n thấy tôi ngồi trên chiếc xe con cóc (Jeep) bên những người sắp tra khảo tôi ở Pḥng Nh́ (2ème Bureau) trong xă Phú Long. Cha tôi không tán đồng việc làm của tôi cũng không lên án. Người đứng trước một nghịch cảnh nhưng chưa t́m ra lối thoát vẹn toàn nào. Trong lúc ngồi chờ cho đến phiên bị điều tra, tôi nghe tiếng đánh đập, tra khảo, trấn nước và tiếng kêu la hăi hùng của người bị tra tấn. Tôi lượng sức và tự nhủ nếu bị đánh đập như vậy, tôi sẽ ra sao? Khi đến phiên tôi vào pḥng tra khảo th́ ông ách D. (7) xuất hiện trong pḥng khảo. Ông nói: “Thằng này là con nít biết ǵ mà điều tra.” Câu nói của ông ách D. cứu tôi khỏi bị điều tra và tra tấn. Tôi được tự do nhờ ông ách D. Sau này ông làm việc cho Quan Thuế ở Sài G̣n. T́nh cờ tôi gặp ông trong một căn nhà sau trường tiểu học Ɖinh Tiên Hoàng ở Dakao. Trong ḷng tôi biết ơn ông. Ngoài mặt tôi giả vờ không quen biết ông v́ các lư do tế nhị khác nhau. Tôi trở lại các sinh hoạt thường nhật của tôi là đọc báo ở Pḥng Thông Tin Lái Thiêu gần tiệm vàng của ông hai Sam tức Lê Văn Úc. Tôi đọc báo Ánh Sáng, Dân Quyền, Tin Ɖiện, Thần Chung, Phục Hưng để theo dơi tin chiến sự ở Bắc Bộ và chiến tranh Do Thái-Á Rập. Tôi thuật cho cha tôi nhiều tin mới lạ khiến cha tôi bắt đầu ghiền nghe tin tức do tôi thuật lại từ chuyện ngoài phố đến chuyện Sài G̣n, chuyện chiến trường Bắc Bộ, chuyện Do Thái-Á Rập, chiến sự Triều Tiên v.v.. Sự cô đơn của cha tôi càng lúc càng đậm nét khi tôi theo đuổi việc học hành ở Sài G̣n mặc dù tuần nào tôi cũng về Lái Thiêu. Tôi không c̣n cơ hội đọc báo nữa. T́nh h́nh chiến sự Bắc Bộ càng lúc càng khốc liệt bất lợi cho quân viễn chinh Pháp. Ở Nam Bộ Việt Minh không mạnh như ở Trung Bộ hay Bắc Bộ. Thế mà ở rừng C̣ Mi cách Phú Lợi 6km, cách Lái Thiêu 7km, cách Dĩ An 3km, cách Biên Hoà 12km, lễ Thương Binh 27-07-1953 được tổ chức qui tụ cả ngàn người tham dự mặc cho sự đe dọa của dàn pháo Phú Lợi, Dépôt Dĩ An và Lái Thiêu. Cha tôi bịnh nặng phải nằm bịnh viện Grall (Nhà Thương Ɖồn Ɖất) khi trận đánh Ɖiện Biên Phủ sắp đến hối kết thúc. Trên giường bịnh người thiết tha muốn được chôn cất bên những nấm mồ tổ phụ ở An Phú. Hội nghị quốc tế Genève kết thúc bằng hiệp định đ́nh chiến được kư kết giữa đại tá Delteil, đại diện cho quân Pháp và Tạ Quang Bửu, thứ trường bộ Quốc Pḥng của chánh phủ Hồ Chí Minh. Ngày 11-08-1954 hiệp định ngừng bắn có hiệu lực ở Nam Bộ. Một tháng sau ngày này, vào đêm Trung Thu, cha tôi qua đời và được đưa về An Phú chôn cất. Cha tôi măn nguyện v́ được hồi hương sau gần chín năm xa cách. Ngày rời làng cha tôi là một người tù. Ngày hồi hương cha tôi là người mất sự sống. Cám ơn chị Cao Thị Ba (8) đă giúp phương tiện đưa cha tôi về nơi an nghỉ cuối cùng. Sau chín năm chiến tranh không c̣n một ai sinh sống trong làng An Phú. Không có một mái nhà dù là nhà tranh c̣n sót. Hương lộ An Phú-B́nh Ḥa-Tân Thới phủ đầy cỏ dại. Mặt đường loang lổ đầy nước khi trời mưa. Vài hầm chông được t́m thấy bên vệ đường. Vườn g̣n của cha tôi chỉ c̣n vài cây èo uột. Cây xoài trước sân nhà ông nội tôi vẫn c̣n và có nhiều trái. Cỏ mọc um tùm nên rất khó t́m thấy nền nhà của ông nội. V́ lo việc chôn cất cha tôi nên chúng tôi không có th́ giờ t́m lại nền nhà cũ, nơi chúng tôi đă sống lúc ấu thời. Việc hạ huyệt và lấp đất vừa xong th́ trời mưa như thác đổ. Chúng tôi giă biệt cha qua màn mưa trắng xóa. *** Năm 1956 luật sư Trần Văn Trai và anh Phạm Ɖ́nh Trí gặp nhau tại Ṭa Thượng Thẩm Sài G̣n. Cả hai bàn đến việc lập lại làng An Phú. Ông Trần Văn Trai là người An Mỹ. Ông tŕnh luận án Tiến Sĩ Luật và Văn Chương ở Paris vào thập niên 1940. Ông biết ít nhiều về làng An Phú v́ chị của ông là vợ của bác ba chúng tôi. Cả hai bác và các con đều mất sớm và được chôn cất ở An Phú. Cuộc tái thiết làng lần này không thành công. Chỉ có một số nhỏ dân làng sống ven ranh Búng-Thuận Giao-Hưng Ɖịnh hồi hương. Những cư dân An Phú sống ở Sài G̣n, Thủ Dầu Một, Lái Thiêu chỉ dựng những chồi lá hay thiếc để về làng vào cuối tuần mà thôi. Ɖiều đáng lưu ư là đ́nh làng chưa được tái lập. Làng tái thiết vẫn chưa có hội đồng xă mặc dù một đồn bót được thiết lập dưới sự chỉ huy của thiếu úy Nhạn. Những cán bộ Việt Minh nằm vùng bắt đầu hoạt động sau khi chánh quyền Ngô Ɖ́nh Diệm từ chối không tổ chức cuộc tổng tuyển cử dự trù xảy ra vào năm 1956. Năm 1962 một ít người hồi cư bắt đầu rời khỏi làng. An Phú trở thành hoang địa trong cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai. Chiến tranh gia tăng cường độ sau khi Hoa Kỳ oanh tạc miền Bắc và đưa quân vào miền Nam Việt Nam cùng với quân Ɖại Hàn, Tân Tây Lan, Úc Ɖại Lợi, Thái Lan. Quân đội Ɖại Hàn xây dựng xa lộ Ɖại Hàn đi ngang qua Dĩ An, An Phú, B́nh Chuẩn, Phú Lợi , B́nh Dương. Xa lộ này vô hiệu hóa tầm quan trọng và sự lợi hại của rừng C̣ Mi (9). Ngày 27-01-1973 hiệp định Paris được kư kết. Lộc Ninh tạm xem như thủ đô của Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam cách Sài G̣n 100km. Văn hóa trồng khoai ḿ (sắn) từ Lộc Ninh vọng về Sài G̣n và các tỉnh trên đồng bằng sông Cửu Long. Ɖó cũng là lúc anh Phạm Ɖ́nh Hưng xúc tiến việc tái thiết làng An Phú lần thứ nh́ v́ lo ngại làng An Phú bị xóa tên trên bản đồ hành chánh trong tỉnh B́nh Dương v́ không có dân. Tôi nghiễm nhiên trở thành lư thuyết gia của anh tôi. Theo tôi, muốn hồi sinh làng An Phú và để qui tụ người An Phú về nơi sinh quán th́ phải tái thiết đ́nh làng, nơi thờ đại phu Phạm Văn Trực, người có công hướng dẫn một nhóm dân Tuy An trong tỉnh Phú Yên nam tiến và thành lập ra làng Tuy An dưới triều vua Tự Ɖức (vua: 1848 - 1883). Nguyên nhân cuộc nam tiến của nhóm người này không được rơ chi tiết, chỉ biết rằng Tuy An trong tỉnh Phú Yên chắc chắn màu mỡ hơn là Tuy An lúc ấy đang thuộc huyện B́nh An, tỉnh Biên Ḥa. Măi đến khi Pháp chiếm hẳn Nam Kỳ, họ biến Nam Kỳ Lục Tỉnh thành Nam Kỳ 21 tỉnh. Huyện B́nh An tách ra khỏi tỉnh Biên Ḥa để trở thành tỉnh Thủ Dầu Một. Cuộc vận động tái thiết đ́nh làng gặp nhiều thuận lợi. Một người con của chú tôi là Phạm Tấn Khoa vẽ sơ đồ ngôi đ́nh. Việc xây dựng đ́nh làng hoàn tất nhanh chóng. Lễ cúng đ́nh và khánh thành ngôi đ́nh được cử hành trọng thể với sự hiện diện của đông đảo dân làng An Phú, dân các làng phụ cận và quan khách từ các nơi đến. Vấn đề NƯỚC cần được giải quyết bằng cách khoan giếng sâu hàng trăm mét dưới ḷng đất để có nước ngọt cung cấp đầy đủ cho người hồi cư. Công việc này cần phải có sự giúp đỡ của bộ Công Chánh. Bộ cử chuyên viên khoan hai giếng nước sâu trên 100m. Sau đó bộ Công Chánh tặng cho làng hai máy bơm nước cực mạnh. Anh tôi được sự hỗ trợ của tỉnh B́nh Dương, Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách việc Khai Hoang Lập Ấp của bác sĩ Phan Quang Ɖán và của bộ Công Chánh dưới sự điều khiển của kỹ sư Dương Kích Nhưỡng. Làng An Phú tái thiết được phủ bằng màu xanh của mía và khoai ḿ. Mía và khoai ḿ chưa được thu hoạch th́ miền Nam thất thủ. An Phú bây giờ được đô thị hóa. Ɖất đai có giá cao v́ thích hợp cho việc thiết lập các nhà máy kỹ nghệ. Nhiều người gốc An Phú sống rải rác khắp năm châu như Pháp, Canada, Úc Ɖại Lợi, Tân Tây Lan và Hoa Kỳ. Ông Nguyễn Lâm Sanh, người luật sư đầu tiên của An Phú, học cải tạo về vài năm, sau được gia đ́nh bảo lănh sang Pháp và mất ở đó. Ông là ân nhân của gia đ́nh ông Nguyễn Hữu Thọ khi ông này lănh đạo Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng trong chiến khu. Bà Nguyễn Thị Giàu, chủ nhà máy dệt Liên Phương, định cư ở Canada và mất ở đó. Ông Nguyễn Văn Hía, Giám Ɖốc Cercle Sportif Saigonnais, đồng sáng lập Hội Khuyến Lệ Cổ Ca với ông Ɖỗ Văn Rở, Phủ Quốc Vụ Khanh Ɖặc Trách Văn Hóa. Ông đă chết ở Sài G̣n. Ông Nguyễn Văn Hội, con của ông Nguyễn Văn Hía, vô địch kiếm thuật Việt Nam, tham dự Thế Vận Hội Tokyo năm 1964. Nhân cơ hội này ông cưới một người vợ Nhật. Năm 1975 hai vợ chồng rời Sài G̣n và chia tay nhau. Ông Hội muốn đi Hoa Kỳ, người vợ muốn về Nhật. Thế là xa nhau. Ông Phạm Ɖ́nh Hưng, nhà hành chánh, thẩm phán, dân biểu và giám sát viên đầu tiên của An Phú. Năm 1975 ông từ Pháp về nước và bị bắt đi học tập cải tạo bảy năm mới được tự do. Hiện nay ông già yếu và sống ở Hoa Kỳ. Ông Ɖặng Như Tây là bác sĩ y khoa đầu tiên của An Phú. Ông là một bác sĩ giải phẫu nổi tiếng trong Quân Y VHCH. Năm 1975 ông rời Sài G̣n và định cư ở Hoa Kỳ, nơi ông học lại y khoa và hành nghề cho đến cuối đời. Cô Vơ Thị Huệ là bác sĩ ở Việt Nam. Sang Mỹ cô học lại và hành nghề ở Hoa Kỳ, hiện đă về hưu. Ông Phạm Ɖ́nh Khuyến, thủ khoa Cao Học Hành Chánh khóa VII, hiện sống ở Hoa Kỳ. Ông Phạm Quốc Kiệt là Giáo Sư École Normale Supérieure ở Paris, hiện đă về hưu. Ông Phạm Ɖ́nh Nam Quốc là kỹ sư điện trước khi trở thành bác sĩ y khoa ở Hoa Kỳ. Ông Phạm Ɖ́nh Khôi Nguyên là Giáo Sư đại học thực thụ, hội viên AAAS (American Association for Advancement of Science – Hội Khoa Học Tiên Tiến Hoa Kỳ), AAPS (American Association of Pharmaceutical Scientists – Hội Khoa Học Gia Dược Học Hoa Kỳ) và thành viên Hàn Lâm Viện Hoa Kỳ. Cô Phạm Thị Minh Châu là nhà Hóa Học ở Hoa Kỳ v.v.. Danh sách này có thể dài hơn nhiều. Rất tiếc là tôi không được biết đến trọn vẹn. Thành thật xin lỗi về sự thiếu sót này. Ɖiều đáng ghi nhớ là phần lớn những người gốc An Phú có tên trong danh sách trên không có may mắn phục vụ đồng bào nhưng họ có cơ hội phục vụ trên một phạm vi rộng lớn hơn: phục vụ đồng loại. Ɖồng bào và đồng loại đều là nhân loại. Trong biển cả t́nh thương không có sự phân biệt đồng bào hay đồng loại mà đơn thuần chỉ có t́nh nhân loại. Những khám phá của Louis Pasteur (1822 - 1895) hay Alexander Fleming (1881 - 1955) chỉ phục vụ cho người Pháp và người Anh hay cho cả nhân loại? Câu hỏi tự nó đă có câu trả lời. Nó đào sâu sự suy gẫm của chúng ta vậy.
Phạm Ɖ́nh Lân, F.A.B.I. __________
Chú thích: (1): Lúc ấy Dĩ An thuộc tỉnh Gia Ɖịnh. (2): Tân Phước thuộc tỉnh Biên Ḥa. (3) Cây hồng quân c̣n gọi là bồ quân. Cây cao lối 5 - 6m, lá xanh, láng và khá cứng. Trái tṛn, màu tím-đen khi chín, vị ngọt chát, hột nhỏ. Tên khoa học là Flacourtia jangomas, gia đ́nh Flacourtiaceae. Người Anh gọi trái hồng quân là coffee plum, Indian plum. Người Trung Hoa gọi là Yunnan ci li mu (Vân Nam Tử Lư Mộc). (4) Cây trường cao từ 20 - 30m. Trái trường giống trái lệ chi, nhăn, chôm chôm với vỏ sần sùi. Người Mă Lai và Indonesia gọi trái trường là Korlan. Người Anh và Ḥa Lan cũng gọi như vậy (Korlan). Người Thái Lan gọi trái trường là Kho Laen, âm từ Korlan của Mă Lai và Indonesia, nơi có nhiều trái trường ngọt bán ngoài chợ. (5) Anh đậu CEPCI năm 1945. Khi Pháp tái chiếm Việt Nam, bằng CEPCI đậu thời Nhật không được công nhận. Khi ra Lái Thiêu, anh phải học Cours Supérieur và đậu CEPCI lần thứ hai năm 1948. Cùng năm này hai anh kế tôi đều đậu vào trường Pétrus Kư. (6) B́nh bịch là âm thanh phát ra từ chiếc mô-tô Motobécane. Chữ mô-tô là hai chữ đầu của hiệu Motobécane, chào đời vào năm 1924. (7) Ách là do chữ Adjudant của tiếng Pháp mà ra. Ách là quân hàm cao nhất của hạ sĩ quan nhưng dưới chuẩn úy (Aspirant). (8) Cao Thị Ba gọi cha tôi bằng cậu. Chị là cô giáo nổi tiếng và có uy tín ở Lái Thiêu. Em của chị là Cao Thị Lễ, Giáo Sư Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Ɖại Học Georgetown, Washington D.C.. Chị Cao Thị Tốt và em là Cao Thị Ba có vài chiếc xe đ̣ chạy trên tuyến đường Lái Thiêu-Sài G̣n. Chị Ba mất năm 1955 ở bịnh viện Saint Paul trên đường Le Grand de la Liraye (sau thành đường Phan Thanh Giản và hiện nay là đường Ɖiện Biên Phủ). (9): Rừng C̣ Mi rộng lối 10km2, được gọi như thế v́ ven rừng có nhà của ông commis Phạm Văn Mân. Có người cho rằng ông Phạm Văn Mân là thân sinh của kỹ sư kiều lộ Phạm Minh Dưỡng (có một thời làm tổng trưởng bộ Công Chánh) và bác sĩ Phạm Minh Chánh. Tôi loan tin này với tất cả sự dè dặt.
_______________
https://www.art2all.net/tho/phamdinhlan/phamdinhlan_hoituonghinhanhquengoai.html
|