TÂM NHIÊN
GIÁC TÂM TRẦM TỊCH CƠI THI CA
Từ thuở
nọ, thi sỹ Giác Tâm mới vừa mở mắt chào đời đă nằm vơng đong đưa giữa
trùng điệp phù vân lăng đăng, ngút ngàn sương khói chung quanh, được hun
đúc, tiếp cận với hồn thiêng sông núi uy linh, hùng vĩ nên tâm hồn thi
sỹ tự nhiên hàm dưỡng trong bầu khí chất rất mực thuần khiết, nguyên sơ.
Thơ phát ra từ đó, nhẹ nhàng như hơi thở, vừa lâng lâng bay bổng vừa
bồng bềnh, thênh thang… Tiếng thơ ngân dài, đồng vọng lên từ phương ḷng
trong trẻo đầy chim ca lảnh lót ḥa lẫn suối khe róc rách reo vang. Ngàn
hoa nắng trổ ngát hương trời vạn cổ dưới những vùng thung lũng mù xa,
chập chùng bóng rừng sâu hun hút, hoang lạnh buốt mưa chiều. Thơ bay
phiêu phất hồn trăng vạn đại, vụt hiện lóe ngời thời nguyên thủy, sơ
khai… Thần thái mang mang, thi sỹ đi về ngơ ngác, ngạc nhiên trước sự
huyền bí của cuộc sống muôn loài, vạn vật trên mặt đất, trần gian rồi
hoát nhiên bừng thấy ra cả trời thơ đất mộng bồi hồi :
Từng viên đá thấm mồ hôi
Đóa hoa tâm nở bên đồi mù sương
Đầu nguồn cuối bến sông Tương
Bàn tay của mẹ thơm hương xứ trầm
Vẫn c̣n đây đóa hoa tâm
Ngh́n thu rụng tiếng nguyệt cầm đầu non
Đầu non cuối biển vọng tiếng nguyệt cầm, rung ngân bất tận một tiếng đàn
trăng giữa thiên thu vời vợi… Khiến cho bất ngờ, mồ hôi thấm từng viên
đá sỏi ven đồi, thấm qua bàn tay gầy guộc của mẹ hiền vun xới, chở che,
đùm bọc, để rồi mọc lên tinh khôi một đóa hoa ḷng trong trắng, một đóa
hoa tâm thầm lặng tỏa ngát hương trời giữa hoang vắng tịch liêu trên xứ
miền cao nguyên ngút ngàn mây trắng miên du, lăng đăng khói sương mù…
Đóa hoa từ tâm, đóa hoa tuệ tâm ấy, một ngày kia đă hóa thân thành Giác
Tâm, một thi sỹ b́nh dị, đơn sơ nhưng vô cùng phiêu nhiên trên tuyệt
đỉnh trời thi ca lồng lộng…
Không biết tự bao giờ, dường như là năm 1956, chàng thi sỹ ra đời, đi về
xuất hiện giữa tồn sinh, nơi sơn thôn Cỏ May, chốn Trại Mộ, Biển Hồ Trà,
thuộc tỉnh Gia Lai huyền mộng này. Lớn lên giữa thượng nguồn núi đèo heo
hút, rừng rú man dại, hoang vu, sớm chiều thấp thoáng mờ sương khói phủ.
Ru hồn thơ vi vu, vi vút theo suối thác, truông ghềnh đổ ầm xuống buôn
làng thượng du, reo vang rộn ràng, trào tuôn trôi cuốn, cuồn cuộn chảy…
Chạy nhảy nô đùa với cỏ nội hoa ngàn, thở cùng gió núi, mưa rừng, nắng
rậm giữa trời đất man thiên, rỡn bướm vờn hoa, lạnh ngút rờn sơn dă. Cho
nên, mạch ngầm thi ca trong ḷng chàng thi sỹ chợt bùng vỡ, dâng trào,
rào rạt nguồn cảm hứng Mẹ Và Trăng :
Áo lụa mẹ choàng trắng trong như nguyệt bạch, trăng đậu trên vai trên
vuông áo ngắn dài. Lóm đóm hoa lóm đóm sao, mẹ trẻ trung như thời con
gái, bất chợt con thấy ḿnh thơ dại, thật hồn nhiên như thuở vào đời. Mẹ
thân yêu của con của muôn đời măi măi, chở che con suốt cuộc tử sinh này.
Một chút mây vẫn c̣n đang phiêu lăng và chừng như đang hội tụ cùng trăng.
Cơi vĩnh hằng mây trăng thinh lặng, rừng thênh thang đêm mênh mang, lặng
lẽ ngồi lặng lẽ thở, trầm tư về một thuở đi hoang. Huyên thuyên nhiều
chi thêm ngộ nhận, con trở về chợt dứt nói năng.
Theo mẹ đến chốn này để nh́n đời và để nh́n mây. Đời trôi chảy như ḍng
sông dịch biến, mây hợp tan, tan hợp chưa hề… Con thơ dại vẫn vầng trăng
đó, tóc sương pha mây trắng vẫn đi về, trăng tháng chạp sao mà tơ nơn,
soi tỏ đêm dài và cội lăo mai, trăng sáng quá ḷng b́nh yên lạ, ngẩn ngơ
nh́n trời đất mới tinh khôi.
“Ngẩn ngơ nh́n trời đất mới tinh khôi” là cái nh́n sơ tâm, cái
thấy hồn nhiên, nguyên vẹn của hài nhi. Khi có cái nh́n ấy th́ mọi sự,
muôn loài vạn hữu đều trinh tuyền, trong suốt, hiện ngời lên vẻ đẹp vô
ngần Chân Thiện Mỹ. Vẻ đẹp thanh tân Chân Thiện Mỹ đó, phải chăng chính
là Tự tánh thanh tịnh mà Lục tổ Huệ Năng đă phát biểu hay thiền sư Huyền
Giác chỉ rơ Đương xứ tức chân hoặc như thiền sư Lâm Tế nói là cái Tâm vô
sự, cái Bản lai diện mục của chính ḿnh ?
Kinh điển đại thừa đă tuyên bố rơ ràng qua nhiều tên gọi : Như Lai, Diệu
Tâm, Phật Tánh, Tánh Không, Bồ Đề, Bát Nhă, Tuệ Giác, Niết Bàn, Chân Như,
Chơn Không Diệu Hữu, Tự Do Tự Tại… Tuy nhiều tên gọi khác nhau nhưng
cùng một ư chỉ bản tâm thanh thản, an nhiên, giải thoát mọi buộc ràng,
phiền năo, khổ đau thôi. Cái tâm giải thoát ấy chẳng ở đâu xa mà vốn
thường hằng hiện hữu, luôn luôn gần gũi trong từng hơi thở của chúng ta,
của tất cả sinh linh đang sống nơi cơi ta bà, mang mang thiên địa giữa
càn khôn, vũ trụ tuần hoàn này.
Nếu ai sống được với Diệu Tâm, Tuệ Giác ấy là có ngay cái nh́n tinh khôi,
cái thấy mới mẻ, mới lạ và mới lạ, là Kiến tánh thành Phật. Thành
Phật là thành tựu cái Diệu Tâm đó, là lư sự viên dung giữa thực tại đang
là. Cơi ta bà sẽ hiện bừng ra cảnh giới huy hoàng Tịnh Độ, an lạc Niết
Bàn ngay lập tức. Sở dĩ đa số chúng ta không sống được với bản tâm vi
diệu ấy là v́ chúng ta tự ư đánh mất nó đi, tự ḿnh lơ đễnh, quên đi, tự
ḿnh giam nhốt chính ḿnh trong những cặn bă danh lợi, những ngục tù bản
ngă ấu trĩ, những đố kỵ nhỏ nhen, u ám, trầm trệ thái quá. Tự ḿnh buông
lung, buông thả, ch́m đắm trong bóng tối đêm dài sinh tử, hụp lặn giữa
đục ngầu tham sân si, trong mộng mị chiêm bao, ảo dị sa đà :
Ta đánh mất bởi v́ ta lơ đễnh
Măi xa xôi say mộng ảo phương nào
Hoa cỏ ấy xiết bao ḷng tríu mến
Lắng ḷng nghe hoa cỏ sẽ th́ thào
Ta đánh mất bởi trầm tư thái quá
Lối đi về quên bẵng cả trăng sao
Mộng mị triền miên úa vàng hoa lá
Sông thương đây tơ tưởng núi non nào ?
Lời bộc bạch ḷng ta em đă tỏ
Nối tay nhau hàn gắn những nhịp cầu
Ḍng sông xưa đôi bờ hoa nở đỏ
Tặng cho nhau quên hết tháng năm sầu
“Ḍng sông xưa đôi bờ hoa nở đỏ” là một câu thơ thâm trầm, tâm
đắc mà thi sỹ Giác Tâm đă chọn làm đầu đề cho tập thơ sắp xuất bản của
ḿnh. Lời bộc bạch hay lời Nguyện Ước khơi vơi nọ, thi sỹ muốn
gởi đến cho chư huynh đệ mười phương đang sống lưu linh lạc địa, trên
khắp quả địa cầu tṛn trịa đang quay lông lốc giữa hư không này.
Hăy tự ḿnh tỉnh thức. Hăy tự thắp đuốc lên mà đi. Hăy quay về quê quán
ban sơ, ngồi lại bên bờ xanh mướt thương yêu của ḍng sông đời sống
nhiệm mầu. Sầu đau, phiền năo từ vô lượng kiếp với bao đoạn trường tuế
nguyệt liền biến tan, khi gă cùng tử biết dừng gót chân nghiệp chướng,
biết quy hồi cố xứ, theo nẻo về sâu thẳm nguồn mạch, long lanh ánh tâm
hồn :
Con lưu lạc từ ngàn xưa lưu lạc
Bỏ quê hương quên cả lối đi về
Đồi lộng gió tóc mẹ bay tóc bạc
Ngóng đợi con trăng khuyết đến trăng tṛn
Con nhớ mẹ tà áo bay áo trắng
Đưa con qua suốt cuộc tử sinh này
Cưỡng lời mẹ con uống nhiều giọt đắng
Chợt tỉnh say mộng mị vơi đầy
Rồi một ngày kia đi qua chùa cổ
Bỗng reo vui khi thấy dáng người
Mẹ hiện hữu cho trần gian vơi khổ
Cơi người ta nay đă có tiếng cười
Chiều cao nguyên bay qua ngàn mây trắng
Chim thiên di về với cội nguồn
Hành lư đời từ nay không c̣n nặng
Xin gởi hồn ḿnh theo tiếng chuông buông.
“Xin gởi hồn ḿnh theo tiếng chuông buông” theo giọng chuông ngân
nga, đồng vọng từ một ngôi chùa tuổi thơ, vô vàn yêu dấu cũ nơi quê nhà
ở sơn thôn Cỏ May hiu quạnh, cạnh đồi thông xanh biếc Biển Hồ Trà, khi
nhà thơ sực thấy ra bà mẹ trần gian ruột thịt của ḿnh cũng chính là bà
mẹ hiền Bồ tát Quán Thế Âm đang trầm tịnh lắng nghe :
Mẹ về trên đỉnh mù sương
Tinh khôi áo trắng mắt thương nh́n đời
Nước Biển Hồ có đầy vơi
Hải Triều Âm vẫn vọng lời đại bi…
“Từ nhăn thị chúng sinh” hay mắt thương nh́n cuộc đời là
cái nh́n dịu dàng, tŕu mến, chan chứa đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,
là hạnh nguyện thiết tha, vô cùng, vô tận, vô biên, vô lượng thương yêu
thập loại chúng sinh của mẹ hiền Quán Thế Âm. Hạnh nguyện yêu thương vô
điều kiện đó, nhà thơ Giác Tâm thường xuyên nhắc nhở, khuyên bảo đàn em
của ḿnh tinh tấn thực hiện, hành tŕ, áp dụng vào thực tế cuộc đời :
Em c̣n hiện hữu trong tôi
Trong từng phiến đá bên đồi mù sương
Đi qua cuộc thế vô thường
Trong em c̣n có mắt thương nh́n đời
Giọt mồ hôi với nụ cười
Hoa trên đá nở bồi hồi ngày qua
Mai này tôi có đi xa
Trái tim xẻ nửa Hồ Trà em ơi !
Mong em phụng đạo yêu đời
Đắp xây chùa cổ tuyệt vời nên thơ
Thay tôi em gắng phụng thờ
Nén hương tưởng Mẹ chiều về nghe em
Trong những đứa em tinh thần đạo vị ấy, đặc biệt, có một sơn nữ chất
phác, đôn hậu, thuần khiết với ánh mắt hiền ḥa như mặt nước Biển Hồ
xanh. Trong nguồn suối yêu thương tương cảm, em đă được thi sỹ tận t́nh
giúp đỡ, trợ duyên cho em vào nếp sống tu tập thiện lành và khi trưởng
thành, em đă tung cánh chim rừng qua tận bên kia bến bờ đại dương bát
ngát, bay theo nghiệp mệnh của đời em. Thỉnh thoảng, em có về quê quán
cũ trên đồi Cỏ May, viếng Biển Hồ Trà, thăm suối thác, truông rừng và
dừng bước phập phồng trước ngôi cổ tự rêu phong giữa một ngày lễ hội
chùa quê. Nơi một thời thơ dại em đă lớn lên với biết bao Hoài Niệm
trong lai láng, bồi hồi :
Ngày vui bất chợt con buồn
Thầy ơi ! Con nhớ hồi chuông quê nhà
Nhớ chùa cổ nhớ cây đa
Nhớ đàm hoa nở Hồ Trà ngát hương
Nhớ xứ thượng nhớ mù sương
Nhớ từng gương mặt đoạn trường Thầy ơi !
Ngày vui thoảng qua mất rồi
Riêng con kỷ niệm đầy vơi nỗi niềm
Cho con như là loài chim
Nhớ nhung vỗ cánh về t́m nguồn xưa
Con nguyện làm hạt nước mưa
Tưới trên quê mẹ sớm trưa khô cằn
Cho con được là ánh trăng
Đêm rằm về lại tung tăng quây quần
Cho con sống không vong thân
Biết ḿnh hiện hữu hồng trần làm chi
Đường con đi đường Từ Bi
Trọn đời con nhớ khắc ghi bên ḷng
Mai này nguyện ước tṛn xong
Con xin trở lại cửa Không hầu Thầy
T́nh thương, t́nh yêu là một điều kỳ diệu, đ̣i hỏi chúng ta phải tâm
chứng th́ mới thể nhập rốt ráo cái tinh hoa của t́nh yêu thương.
Krishnamurti nói : “T́nh thương không phải là quá tŕnh của tư tưởng.
Ta không thể “nghĩ” đến t́nh thương, không thể vun trồng, không thể tập
luyện được. Tập thương, tập rung động trong niềm tương thân, tương ái
vẫn c̣n trong ṿng ràng buộc của khối óc, nên đó chẳng phải là t́nh
thương. Chỉ khi nào các thứ ấy dứt đi th́ t́nh thương hiển hiện và lúc
ấy ta mới biết thế nào là t́nh thương. T́nh thương không phải ở phẩm mà
cũng chẳng phải ở lượng. Khi tâm rỗng hết mọi vật của trí, khi trí rỗng
hết mọi suy tư th́ có t́nh thương. Chỉ có cái Không mới là vô tận.”
Lấy Từ Bi làm con đường để bước đi là một thái độ vô cùng bao dung, dũng
cảm. Chỉ có những trái tim hồng được un đúc trong ḷ lửa nhiệt huyết
giữa cuộc sinh tồn đầy bức bách, đầy nặng trĩu điêu linh này, đă từng
chứng kiến ngh́n nỗi đoạn trường, thống thiết, triệu niềm khắc khoải,
quằn quại, áo năo của nhiều cảnh đời tuyệt lộ trong hiu hắt, tàn xiêu…
th́ mới đủ sức mạnh thần lực mà phát tâm nguyện đại từ, đại bi như vậy
được. “Đường con đi đường Từ Bi” chỉ một câu thơ dễ hiểu thôi,
nhưng đủ gây chấn động khôn ḍ, bởi nói ra từ giới trẻ hôm nay, thật vô
cùng hy hữu, ít có làm sao.
Trào dâng lên làn thanh khí thi vị, thi nhiên, tiếng thơ Giác Tâm có
cảnh có t́nh, có nhạc có họa, “thi trung hữu họa.” Trong thơ hiện
lên những cung bậc thiền, những bức tranh b́nh dị, mộc mạc, phản ánh
nhiều cảnh đời thường nhật, nhiều trạng thái tâm thức hân hoan, sầu nhớ…
Lời thơ tha thiết chân thành, biểu lộ thế giới nội tâm thâm cảm yêu
thương, vô vàn chan chứa toàn thể thế nhân đang lặn hụp, nổi ch́m giữa
biển phù sinh, nghẹn ngào xiết bao khổ lụy. V́ thế, chàng thi sỹ phát
tâm đại nguyện thượng thừa, đưa tay cắt đứt mái tóc hồng trần, quyết chí
đi xuất gia, quy y với Ḥa thượng Từ Hương vào năm 1969, làm bậc đại
trượng phu, dù tuổi đời lúc bấy giờ, c̣n rất thanh xuân, mới 14 tuổi.
Chỉ có tuổi trẻ mới làm những việc phi thường, như Phạm Công Thiện, một
thiên tài kiệt xuất đă nói thế. Thiền sư Nhất Hạnh cũng lên tiếng tán
thán những bậc xuất gia, đại sỹ :
Đă thấy đời cơn huyễn mộng
Chân tâm một quyết lên đường
Nghe hải triều lên mấy độ
Nguyện phát túc về siêu phương
Sáng nay cạo sạch mái tóc
Mở thêm rộng lớn con đường
Phiền năo vô biên nguyện đoạn
Một tâm mà động mười phương
“Một tâm mà động mười phương” Đó là tâm thức bừng trổ hào quang
tuệ giác siêu việt, làm rực rỡ, huy hoàng, sáng chiếu diệu ngời khắp
Đông Tây kim cổ như tuệ giác Phật Thích Ca, Long Thọ, Mă Minh, Tăng
Triệu, Milarepa, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, Lâm Tế, Krishnamurti,
Heidegger, Nietzsche, Henry Miller, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện… Tuyệt
vời tư tưởng phóng khoáng, lẫm liệt, hùng tâm tráng khí như thiền sư
Không Lộ trên đỉnh ngàn chất ngất cô phong :
Cắm cột am cao đất rắn rồng
Vi vu thân thế tuyệt đời ông
Đỉnh non có buổi leo lên thẳng
Gầm dài một tiếng lạnh hư không
Một tiếng gầm sấm sét, một tiếng hú dữ dội, kinh hồn hay một tiếng thơ
ngân dài cao vút suốt nhật nguyệt thiên thanh đều phát khởi từ đáy sâu
thăm thẳm nội lực tâm hồn thâm hậu. Từ cơi tâm thần diệu đó, nhà thơ
Giác Tâm gởi gắm nỗi ḷng ḿnh qua Tâm Sự Hàn Sơn Tử :
Giă từ thôi chữ nghĩa
Về xem mây trắng bay
Cơi đời không dấu tích
Khắc chạm nào ai hay
Ba trăm bài vách núi
Có c̣n trong thiên thu ?
Ta về nơi chốn ấy
Huyền nghĩa có phù du ?
Thập Đắc ơi theo ḿnh
Trụ vào nơi vô trụ
Thi phú để cho đời
Chừng bấy nhiêu tạm đủ
Sương mù len vách núi
Mờ yếu tính thiền thơ
Trôi theo ḍng thi khắc
Rỡ ràng bài thơ Vô
Vô sở cầu, vô sở trụ, vô sở đắc là bài thơ tuyệt bút của những bậc cao
thủ, thượng thừa. Bài thơ Vô được các thiền sư thường viết trên ḍng
nước nhân sinh, trên ngàn mây trắng thênh thang… Hàn Sơn và Thập Đắc là
hai thiền sư có hành tung kỳ bí dị thường, không theo điều lệ tông môn
nào cả, trái lại, phá chấp triệt để, thể hiện phong thái tự do, tự tại
như cuồng sỹ Tế Điên, Phổ Hóa, Đan Hà, Bùi Giáng... Họ tung hoành ngang
dọc, thơng tay vào chợ, vào chốn hỗn độn, náo nhiệt, phồn hoa, đô hội mà
vẫn vô nhiễm, thung dung, không bị trói buộc, chẳng mắc dính vào bất cứ
h́nh danh, sắc tướng nào hết. Bồng tênh qua lại giữa chợ đời đảo điên,
phức tạp một cách thanh thản, an nhiên.
Thiền là ǵ ? Có người hỏi như thế. Lục tổ Huệ Năng trả lời : “Bên
ngoài ĺa tướng là thiền, bên trong chẳng loạn là định. Ngoài nếu chấp
tướng, trong tâm liền loạn, nếu ĺa tướng th́ tâm chẳng loạn. Bản tánh
tự tịnh, tự định, chỉ v́ thấy cảnh, chấp cảnh thành loạn. C̣n khi ḿnh
thấy tất cả mọi cảnh vật mà tâm chẳng loạn, đó là chơn thiền vậy.”
Thiền tông phóng khoáng, mở rộng cánh cửa Tánh Không bát ngát, làm biến
mất, xóa nḥa hết mọi biên giới đối đăi như dại khôn, ngu trí, ghét
thương, được mất, cao thấp, tâm vật, Phật ma, Chúa quỷ, thánh phàm, động
tịnh, đúng sai, phải quấy, hơn thua, tốt xấu, mộng thực, có không, sống
chết… Đưa tất cả cùng về thể tánh Nhất Như b́nh đẳng. Vắng lặng mọi so
đo chân giả, ḥa rung trên cung bậc Bất Nhị reo ca. Từ trên cung bậc Bất
Nhị đó, thiền sư và thi sỹ cùng ḥa âm, tương ứng trên bước đi như thị,
như nhiên :
Hiên đời nắng táp mưa sa
Về non Ngọc Lĩnh ngắm hoa ven đồi
Am mây ngủ bóng mây trôi
Ḍng sông mộng vẫn muôn đời mênh mang
Ngỡ cùng tử măi đi hoang
Hốt nhiên một đóa mai vàng nở tung
Thơng tay vào chốn bụi hồng
Đường xưa mây trắng phiêu bồng tiêu dao
Rừng hoa nắng chợt xôn xao
Từng đôi cánh mở đi vào tịch nhiên
“Thơng tay vào chốn bụi hồng” thi sỹ mặc sức phiêu bồng, rong
chơi tận góc bể chân trời, khắp đồng bằng, châu thổ, cao nguyên, tiêu
dao du như Trang Tử, Lăo Tử, như Basho, To Man Thu giữa phù hư huyễn
mộng, ruổi rong, đầm đ́a mưa nắng phong trần, cát bụi phiêu linh… Ngao
du từ phố núi Pleiku xuống phố biển Nha Trang rồi lang thang qua các
vùng Huế, Sài G̣n, Hà Nội… Có lần lặn lội qua tận bến cát sông Hằng, Ấn
Độ theo đường xưa mây trắng, t́m lại dấu chân đức Từ Phụ trên tuyệt đỉnh
Linh Sơn, vọng vờn tiếng cười bất tuyệt thiên thu... Rồi cuối cùng, nhẹ
nhàng làm cuộc quy hồi cố quận, trở về ngôi chùa Bửu Minh, nơi chốn quê
nhà, cố hương yêu dấu cũ.
Sau một thời gian dài hơn 15 năm, du phương tầm cầu học đạo với những
bậc tôn túc, thượng thủ, nhà sư thi sỹ Giác Tâm trở về an trú, trụ tŕ
chùa Bửu Minh. Với tâm hồn nghệ sỹ, tài hoa, thầy dốc hết năng lực, trí
tuệ ra trùng tu toàn bộ cảnh thiền môn xuống cấp thành một ngôi đại tự
nguy nga, tráng lệ. Chùa có vị trí biệt lập, cách xa làng xóm, nằm trên
ngọn đồi giữa những nương rẫy chè xanh thoáng đăng. Xây cổng tam quan
năm mái, đặc thù như ngũ uẩn giai không, đúc đại hồng chung, sớm chiều
ngân nga, đồng vọng trầm hùng, đánh thức dậy cơn mê ngủ, quằn quại trần
ai, trong những đêm khuya dài vắng lặng : “Lắng ḷng nghe lắng ḷng
nghe. Tiếng chuông chánh niệm quay về nhất tâm.”
Ngoài những tác phẩm điêu khắc Đức Phật sơ sinh, Đức Phật ngồi tọa thiền,
Đức Phật nằm nhập diệt, tượng Di Lặc, Quán Thế Âm sắp đặt hài ḥa, rải
rác quanh chùa, c̣n có một ngọn bảo tháp vươn lên, nổi bật trên nền trời
xanh thanh thoát. Toàn bộ kiến trúc chùa là do trái tim đầy tâm huyết
của thầy, hướng dẫn thợ và cùng làm với họ, thổi hồn vào tác phẩm. Ngôi
bảo tháp vút cao, x̣e tỏa ra trên mái chùa như che chở, đùm bọc xóm làng,
sơn thôn giữa chốn rừng sâu. Trên đỉnh tháp có thờ Xá lợi Phật ( thỉnh
từ Tích Lan ) và Đại tạng kinh. Ngôi chùa có bảo tháp cao nhất Việt Nam
này là một tác phẩm tâm đắc, độc đáo mà nhà sư thi sỹ dồn hết thập thành
công lực của ḿnh vào mới thực hiện nổi. Đôi khi, trong những chiều hôm
nắng quái, chạnh niềm tịch mịch, ngồi ngắm nh́n ngôi bảo tháp tỏa bóng
xuống nương chè, thi sỹ lặng thầm hát nhạc Trịnh Công Sơn : “Mưa vẫn
mưa bay trên tầng tháp cổ. Làm sao em biết bia đá không đau. Xin hăy cho
mưa qua miền đất rộng. Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau…” Ngôi chùa
xưa đă trải qua bao mùa cuồng phong, băo tố vẫn đứng trầm mặc, uy hùng,
cô tịch, lặng lẽ trên nương rẫy chè, thoáng ngát triền đồi quê :
Bửu Minh chốn cũ đi về
Ngàn khơi gió lộng bốn bề trà xanh
Cây đa rợp bóng thiên thanh
Cho con tịnh lạc an lành đi lên
Về đây con có mẹ hiền
Đưa con qua tận suối miền uyên nguyên
Con về lội khắp sơn xuyên
Trồng hoa trên đá an nhiên ngắm nh́n
Con về c̣n trọn niềm tin
Câu kinh Không Sắc xóa ngh́n thương đau
Về đây sương trắng mái đầu
Chợt nghe chim hót nhiệm mầu tử sinh
“Con về c̣n trọn niềm tin” một câu thơ mà thi sỹ đă lấy làm đầu
đề cho tác phẩm tản văn, dài 364 trang của ḿnh, do Phương Đông xuất bản,
năm 2012. Con về c̣n trọn niềm tin, khẳng định tấm ḷng son sắt
của thi nhân đối với Đạo, với Thiền, với quê xứ trầm nhiên nơi Tự Tâm,
Tự Tánh. Hạnh phúc lạ lùng khi biết diệu dụng, sống với Tự Tánh, Tự Tâm
thâm thúy, vi diệu đó. Chỉ một “Câu kinh Không Sắc xóa ngh́n thương
đau” và “Chợt nghe chim hót nhiệm mầu tử sinh” là đă nói lên
yếu chỉ, tinh túy, cốt tủy của Diệu Tâm mầu nhiệm, đưa ta vượt thoát
khỏi cuộc sinh tử luân hồi.
“Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc… sinh tử tức Niết Bàn” Đó
là tiếng đàn Bát Nhă, Tâm Kinh mà thi sỹ thường lắng nghe và ca hát nhịp
nhàng theo, từ sớm tới chiều trong liêu vắng cô liêu. Nhiều khi trầm
ḿnh trong ḍng kinh, thi sỹ thích thú chuyển dịch phẩm Phổ Môn, trong
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, bằng một văn phong sinh động, tân kỳ : “Phật
bảo : Này Vô Tận Ư ! Tôi vừa nói cho quư vị nghe về sự dạo chơi tự tại
của Bồ tát Quán Thế Âm trong thế giới ta bà của chúng ta và phân tích
cái thần lực cũng như cái tự do của ngài.” Dạo chơi tự tại, cái
thần lực, cái tự do là cách dịch thoát độc đáo, phảng phất khí vị
văn chương.
Văn chương, nghệ thuật, thường phiêu diêu như hơi thở, ḥa quyện vào
cuộc sinh diệt, đến đi của phù sinh huyễn mộng. Bằng phương tiện thi ca,
nhà thơ tiễn biệt Ḥa thượng Giác Phúc ( trụ tŕ Tịnh xá Ngọc Phúc,
Pleiku ) lên đường trở về cơi miền lung linh Tịnh Độ :
Cao nguyên hoa đàm rụng
Trời Tây trổ sen vàng
Dạt dào câu niệm tụng
Thương thầy vừa Đăng Quang…
Hay khi nghe tin mẫu thân Ḥa thượng Thiện Nhơn ( trụ tŕ Tổ đ́nh Thiên
Đức, B́nh Định ) qua đời, nhà thơ xúc động, thốt lên tiếng ḷng ngậm
ngùi, thay lời của Ḥa thượng, trước cuộc vĩnh ly bà mẹ hiền dấu yêu :
Chiều nay mây trắng vương vương tóc
Nhớ đến mẹ hiền quá lao lung
Nghĩ đến t́nh đời nên con khóc
Nguyện mẹ tiêu dao cơi vô cùng
“Nguyện mẹ tiêu dao cơi vô cùng” là một mong ước cho mẹ được văng
sanh, tiêu dao vào miền bất sinh bất diệt, thần phách siêu thăng chốn
Tịnh thổ Bồ Đề. Thế nên, văn chương, văn nghệ là thể điệu nghệ thuật
siêu xuất, là con đường phong quang sáng tạo, có thể vượt qua địa ngục,
thiên đường, vượt qua tất cả mọi giả chân, mê ngộ, mộng thực… để thong
dong, tự tại giữa có không, sống chết… Trên con đường sáng tạo vô vi,
thi sỹ Giác Tâm cảm nhận ngay trong cơn tử sinh trường mộng này vốn hiện
diện đầy đủ cảnh giới Niết Bàn, mặc dù c̣n thấp thoáng nhưng cũng thấy
ra một cơi đi về. Thành thử, cứ như vầy, như thế, tùy duyên bất biến
giữa ḍng đời vạn biến, sớm biết t́m đường trở về quê quán an lạc dưới
ánh đạo vàng :
Đi về một cơi thênh thang
Suối thương yêu chảy mênh mang đất trời
C̣n đây áo trắng tinh khôi
Vờn bay thấp thoáng núi đồi mù sương
Con về đốt nén tâm hương
Ḷng thành tưởng niệm vấn vương mẹ hiền
Cơi người ta cơi oan khiên
Con về nương tựa cửa thiền từ đây
Một đời mê măi sống say
Quay về ngồi ngắm may bay đỉnh tùng
Chim nào rớt xuống ḷng thung
Xé toang lưới mộng trùng trùng bay lên
Bay lên đỉnh núi không tên
Cất cao tiếng hót mông mênh lưng trời
Đă về đă tới như thiền sư Nhất Hạnh, nhà thơ Giác Tâm mỉm nụ cười trầm
tịnh, lắng nghe “Suối thương yêu chảy mênh mang đất trời” thênh
thang chảy qua cả ba ngh́n thế giới. Chảy về chùa núi Bửu Minh tịch mịch,
thanh vắng giữa đồi cao bạt ngàn cà phê, nương rẫy chè xanh. Thi sỹ tùy
duyên chuyển hóa, cưu mang, giúp đỡ, hướng dẫn đồng bào phật tử hữu
duyên biết buông bỏ tham lam, sân hận, si mê, để vơi đi bớt mọi lụy
phiền, điên đảo, khổ đau, sầu thảm, âm u…
Lăng đăng phong trần, giữa muôn trùng cuộc lữ, tôi làm chuyến đi xuyên
Việt, khởi từ bờ biển Kiên Giang đến nay cũng hơn 4 tháng rồi mới tới
vùng cao nguyên, phố núi Pleiku này. Một nếp duyên lành hạnh ngộ, tôi
dừng gót giang hồ, lưu trú lại chùa Bửu Minh gần cả tuần lễ nay. Sớm
chiều vào ra nhàn nhă, vô sự, ngắm huyền ảo khói sương Biển Hồ, trông
mây ngàn trôi bàng bạc trên dăy núi Tiên Sơn, chập chờn bao hoa nắng
phiêu bay, bảng lảng, vang vọng bóng sơn khê, nghi ngút bồng bềnh trên
miền thiên thanh vĩnh thúy…
Gặp du sỹ như gặp người đồng điệu, thầy trải ḷng ra ḥa khúc tri âm,
tri kỷ. Rót cạn mấy b́nh trà bên thềm trăng khuya mà vẫn chưa hết ư, cạn
lời hàn huyên, tâm sự. Một chiều, thầy đưa xem bản thảo tập thơ Ḍng
Sông Xưa Đôi Bờ Hoa Nở Đỏ, hơn mấy trăm bài thơ, vừa ngậm ngùi vừa
tiêu sái, vừa nỗi niềm vừa xuất cốt, phiêu diêu. Tôi liền đọc một mạch
như đọc lại chính ḿnh và hân hoan, sảng khoái, cảm đề bài thơ, riêng
tặng nhà sư, thi sỹ Giác Tâm, trước khi chia tay, tạm biệt, tiếp tục lên
đường, viễn phương hành theo khói trời mênh mông bay về cùng tuyệt :
BỬU MINH TRẦM TỊCH NHIÊN
Rừng nhạt nắng dừng chân Chư Pah
Đồi cao nguyên xanh ngút Biển Hồ Trà
Trại Mộ nao nao hồn cố quận
Bóng thông già vi vút gió chiều qua
Hàng cau trước vườn chùa xưa cô tịch
Đứng thanh lương như Từ Phụ mỉm cười
Đón đứa con hoang về quê cũ
Sau bao ngày lang bạt đuối chơi vơi
Thương từng vệt rêu phong trên cổ tháp
Từng nét mờ ẩn hiện dấu thời gian
Con về c̣n trọn niềm tin* tưởng
Vẫn rung ngân bất tuyệt tiếng thu ngàn
Là tiếng ḷng tâm ca ḥa sâu thẳm
Quyện ân t́nh vĩnh cửu bước thiên thu
Bửu Minh Bửu Minh trầm tịch chiếu
Diệu kỳ tan vô lượng kiếp mịt mù
Tâm Nhiên
( Phố núi Pleiku 20. 4. 2016 )
______
Chữ nghiêng : Thơ Giác
Tâm. Trích trong tập Ḍng Sông Xưa Đôi Bờ Hoa Nở Đỏ, sắp xuất bản.
*Con Về C̣n Trọn Niềm Tin. Thích Giác Tâm. Tập tản văn, Phương Đông xuất
bản, 2012
art2all.net
|