TUỆ SỸ TRÊN NGƠ VỀ IM LẶNG
Giữa thiên đường rong chơi lêu lổng Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng B́nh, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đă viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ. Cùng đứng tên trong nhóm chủ trương tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh, Sài G̣n, trước năm 1975, Tuệ Sỹ cũng là giáo sư giảng dạy Thiền tông, Trung quán luận ở Đại học Vạn Hạnh và Cao đẳng Phật học viện Hải Đức, Nha Trang, nổi bật lên như một hiện tượng độc đáo, gây bao nguồn cảm hứng cho những tâm hồn ưa thích thiền học, thi ca và phiêu lăng. “Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đă trùm lấp hết mọi chân trời mới cũ từ Đường thi Trung Hoa tới siêu thực Tây phương.”* Bùi Giáng đă nhận định như thế về Tuệ Sỹ qua bài thơ Không đề :
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Trừ thi sĩ Bùi Giáng ra, khi nói về Tuệ Sỹ th́ có lẽ không ai đủ tư cách, thẩm quyền bằng triết gia Phạm Công Thiện : “Có sống bên cạnh Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát từ ngày này qua ngày khác, trong những hoàn cảnh khác nhau th́ mới may ra cảm nhận đôi chút tác phong thiền sư kín đáo toát ra một cách tự nhiên, một cách vô công dụng hạnh từ đời sống thường nhật và tinh thần diệu nhập của hai vị. Tôi xin gọi hai vị này là thiền sư với tất cả đắn đo thận trọng, với tất cả ư nghĩa cao đẹp và như thực của một danh xưng xung thiên chí.” Như vậy, chúng ta có thể gọi Tuệ Sỹ là một thiền sư thi sĩ với ư nghĩa trọn vẹn, tốt đẹp nhất của danh từ. C̣n tiến sĩ kỳ tài Lê Mạnh Thát, bạn thân thiết, cận kề Tuệ Sỹ là nhà Phật học, Sử học quảng bác, lăo luyện, uyên thâm, một con người quán tuyệt cổ kim, thông tuệ, siêu quần bạt chúng, cũng bằng tuổi Tuệ Sỹ. Giống như Tuệ Trung Thượng Sỹ thời Trần thuở xa xưa, Tuệ Sỹ bây giờ cũng là một thiền sư thi sĩ đích thực. Điều đó chứng tỏ qua những tác phẩm thâm viễn, uyên áo, nhất là thể hiện qua phong cách sống đạm bạc, đơn sơ giản dị mà rất nghệ sĩ phiêu bồng, thong dong phóng khoáng, khai mở thông lộ tự do cho con người, biết mỉm cười vô úy, “uy vũ bất năng khuất” trên tinh thần Đại bi tâm trầm hậu giữa muôn chiều diệu dụng với đời sống thực tại cái đang là. Năm 1973, Tuệ Sỹ vừa đúng 30 tuổi, viết Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng, một tác phẩm thâm thúy tuyệt trù, trữ t́nh lai láng, tràn đầy chất nhạc và thơ, mở ra con đường phong quang sáng tạo, ngạt ngào hương vị thi ca ḥa chan cả trời thơ đất mộng không cùng : “Đạt đến cơi thượng thừa của Thơ như người học Thiền chứng chỗ Không tịch của Đạo, cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm đày đọa thân tâm mà không thành. Phẫn chí bỏ đi, bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cơi Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng cho thông. Cho nên không thể nào lấy tay chỉ thẳng vào cơi thơ, rồi bảo đây là chân diện mục của nó… Thơ phát ra từ những khổ lụy và những nguyện ước khơi vơi của cuộc tồn sinh, từ độ đó, Thơ đi vào những thảm họa hoành sinh của lịch sử. Từ buổi b́nh minh, Thơ vang vọng những lời t́nh tự thiết tha, từ tiếng chim thư cưu nơi cồn cát đến những đêm dài trằn trọc... Thơ dấn bước đi vào cuộc lữ… Thơ phát ra từ cuộc lữ đọa đày rồi trở lại đọa đày cuộc lữ. Cuộc lữ là trường thể nghiệm lịch sử tồn sinh thảm họa của Thơ và Thơ mở rộng những phương trời lữ thứ. Quê hương nguyên thủy chỉ là những âm vang của lịch sử, vang dội ngân dài trong những phương trời viễn mộng. Cho nên đất của Thơ là đất trích, là những vùng đày ải, đường của Thơ là quán trọ, là những bước đường ngược gió. Mặn nồng nơi đất trích, lân la nơi quán trọ, cuộc thể nghiệm dây dưa với hằng triệu vấn vương và cũng là cuộc thể nghiệm cho khước từ tuyệt đối… Bởi cách điệu trầm trọng như thế, nên Thơ là phong vận tài hoa, đẹp như những cụm mây trời trong nắng sớm.”** Tuệ Sỹ nói về cơi thơ Tô Đông Pha mà vô h́nh chung cũng dường như nói về cơi thơ của chính ḿnh. Thật vậy, cơi thơ Tuệ Sỹ bước đi bi tráng giữa ḍng sử lịch kinh hoàng của thời hiện đại. Đơn sơ mà kỳ vĩ, bi ai mà hùng tráng, im lặng mà sấm sét, tĩnh toạ mà phiêu bồng, đó là cơi thơ trầm thống, khốc quỷ kinh thần của Tuệ Sỹ, một thi sĩ thượng thừa, một tài hoa đủ điệu, một tâm hồn cô liêu cùng tuyệt với hồn thơ thâm viễn, uyên mặc u ẩn, ngân dài trên giai điệu trầm tư lăng đăng :
Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Để cho trời thơ phiêu phưỡng, bước đi lồng lộng, độc hành ca giữa đỉnh cao và hố thẳm, làm kẻ rong chơi từ thuở hồng hoang hỗn độn, phiêu hốt tang bồng, rong rêu, lêu lổng trong cuộc mộng trần sa :
Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn
V́ lêu lổng mười năm trời nói mộng
Đất đỏ thắm nên ḷng người hớn hở
Cuộc rong chơi phiêu bạt, lăng tử giang hồ vô tận đến nỗi quên bẵng hết những chuyện mộng mị chiêm bao, hồn thi nhân chuếnh choáng, xuất thần lâng lâng rồi chợt bỗng hóa thân thành cánh chim én mùa xuân bay qua ḍng sông chiều tàn hoang vắng hay làm cánh bướm chao nghiêng, tung lượn xôn xao giữa mưa nắng phong trần :
Một con én một đoạn đường lay lất
Bóng ma gọi tên người mỗi sáng
Người đứng măi giữa ḷng sông nhuộm nắng
Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng
Ngàn năm rồi mà sao vẫn c̣n măi lạc loài hỡi mây trắng hoằng viễn miên du ? Nhà thơ chợt lặng thầm trầm tư thắc mắc, chẳng biết chiếc lá vàng úa rụng xa mùa kia sẽ về đâu giữa phong ba, băo loạn ? Nhưng rồi bỗng thấy “năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng” nên cứ để mặc nhiên cho ḍng thơ trôi chảy qua ngh́n bến bờ xa lạ nḥa nhạt hoang vu tận cuối băi mịt mù. Thi nhân chạnh ḷng trắc ẩn trong ngậm ngùi, khắc khoải, xót xa cho bao kiếp người phải hốt hoảng, kinh hoàng vượt trùng dương để t́m kế sinh tồn. Cưu mang nung nấu một nỗi niềm tâm sự mênh mông, không biết bày tỏ cùng ai nên chẳng biết nói ǵ hơn là để cho tiếng ḷng ngân lên cung bậc sầu thương vô hạn trước những lượn sóng cuồng phong ch́m nổi giữa sinh tử ba đào :
Một bước đường thôi nhưng núi cao
Một bước đường xa xa biển khơi
Cho hết đêm hè trông bóng ma
Cho hết mùa thu biệt lữ hành
H́nh ảnh máu màu xanh bầm tím rơi xuống như mưa mù thảm đạm thật khiếp đảm làm sao, gợi ra bao cảnh xiêu hồn lạc vía ở địa ngục âm u mù tăm tối. Ơi chao ! Địa ngục đó chẳng phải ở dưới ḷng đất sâu kín kia mà lại ở ngay trên mặt đất trần gian này mới đâu đớn, rợn người khủng khiếp chứ ! Từ khi chứng kiến biết bao oan khiên, nghiệt ngă, biết bao khổ lụy đọa đày diễn ra một cách khốc liệt, tàn bạo, vô nhân đạo, vô lương tâm trên khắp mọi miền thế giới đó, nhà thơ nhạy cảm của chúng ta đă thấm thía một nỗi buồn vạn cổ sầu trong vô lượng xót thương :
Ôi nỗi buồn từ ngày ta lạc bước Cốt cách, phong vận của thi nhân vốn là ở cơi tự do tiêu sái, tiêu dao, bay bổng chất ngất một trời thần tiên huy hoàng tráng lệ. Thế mà cũng đành phải cố quên đi tất cả, v́ ma quỷ A tu la tham sân si đă hiện h́nh như người, dùng bạo lực thâm độc, dốc hết tốc độ tham tàn, sân hận, si mê giáng xuống những tai ương thảm họa, trong cơn điên đảo loạn cuồng. Buồn quá phải không, buồn chết lặng quặn ḷng đau tê tái giữa chập chùng bóng tối u mê :
Lửa đă tắt từ buổi đầu sáng thế
Khuya rờn rợn gió vèo run bóng quỷ
Khi tâm tư chưa là gỗ mục
Một khi đối diện với quỷ ma giữa ban ngày th́ hầu hết chúng ta đều hăi hùng khiếp sợ, nhưng ở đây, kỳ lạ thay, nhà thơ vẫn hào hùng vô uư, khi biết ḿnh đang giáp mặt với thập tử nhất sinh. Một ḿnh lẫm liệt hiên ngang bất khuất, dấn bước lên đường dưới gầm trời băo loạn cuồng si. Đi về đâu hỡi Long Thọ, Mă Minh, Thế Thân, hỡi Tăng Triệu, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, hỡi Tô Đông Pha, Lư Hạ, Vương Duy, hỡi Duy Ma Cật, Thiện Tài, Thắng Man, hỡi Suzuki, Nietzsche, Heidegger…giữa điêu tàn tan hoang trên mặt đất ? Rồi lặng hồn lắng nghe đồng vọng vang lên những lời kinh Hoa Nghiêm hùng tráng :
Trang phục bằng khôi giáp Nhẫn kiên cố Với cánh tay Đại bi cầm thanh gươm Đại trí, thi nhân c̣n mặc thêm áo giáp Vô sanh pháp nhẫn nữa th́ cũng thừa sức dấn ḿnh vào địa ngục trần gian, trực diện đương đầu với đảo điên, chuyển hóa ma vương, quỷ sứ đang quờ quạng, loạn cuồng trong bóng tối vô minh. Cuộc thế trận sinh tử kinh hồn, một lần tận tường giáp mặt là một lần thấu triệt lẽ vô thường huyễn ảo quá đỗi mong manh trong cơi người ta và cũng chính từ đó, thi nhân mới phát Bồ đề tâm, phát đại nguyện thượng thừa, gánh vác lên vai vô số khổ lụy đoạn trường của nhân gian như chính lời Tuệ Sỹ nhắc nhở rạt rào : “Bồ đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy ḿnh đang sống trong cảnh tối tăm giữa đọa đày khổ nhục, mong t́m một con đường sáng, không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà c̣n là để giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ. Bồ đề tâm, đó là ư chí kiên cường, bất khuất của một con người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà đạp dưới những sức mạnh tàn khốc bởi tham vọng điên cuồng của chính ta và của một tập thể ma quái chung quanh ta. “Vui sướng ǵ, thích thú ǵ giữa ngọn lửa tam độc không ngừng thiêu đốt ? Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi t́m bó đuốc ?” Không có tâm nguyện đó, không có ư chí đó, Bồ tát đạo chỉ là một con đường xa xôi, không tưởng, thần thoại hoang đường và Phật thừa không hơn một tiếng nói suông của một người mê sảng trong giấc ngủ ngày.”*** Thi nhân thấy như vậy bằng đôi mắt sâu thẳm rực lửa tam muội của chính ḿnh nên vẫn thường vô vi tùy duyên nhẹ bước vào ra giữa ta bà đây đó :
Đây khúc nhạc đưa hồn lên máu đỏ
Vẫn khúc điệu tự ngàn xưa ám khói
Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỷ mị Từ vô thủy đến vô chung, cuộc luân hồi khởi sự từ đâu chẳng biết, chỉ hay rằng từ lúc nghe đồng vọng những trận gió phù trần tận chốn miền thiên thu vi vu thổi tới giữa vạn đại miên trường :
Đá ṃn phơi nẻo tà dương Sinh tử là một việc trọng đại như thi nhân đă có lần nói tới trong lời tựa Vô môn quan của thiền sư Vô Môn, do Trần Tuấn Mẫn dịch : “Nơi đây, sa mạc vẫn cứ thiên thu cô tịch trong cơn gió bức bách của hư vô. Lẽ sống và lẽ chết cứ măi bập bềnh trên hư ảo. Tâm hồn miệt mài nóng cháy, nhưng không cháy tan nổi những giấc mộng hăi hùng của hư vô và huỷ diệt.” Hư vô đă trở thành một thứ chủ nghĩa đang huỷ diệt mặt đất một cách trầm trọng đau thương, gây bao tang tóc năo phiền, khiến thi sĩ nghe ra nghèn nghẹn tận đáy hồn :
Một ước hẹn đă chôn vùi tang tóc
Khuya c̣n lạnh sương mù và gió lốc
Đi để nhớ những chiều pha tóc trắng Giọt máu nào phiêu lưu, lạc nẻo xa nguồn trôi tan tác, lao đao trong nỗi hao ṃn tàn tạ, trong cơn gió lốc kinh hồn rờn lạnh buốt xương da ? Đi là đi mất, đi biền biệt, biến tan như sợi khói mỏng manh giữa bầu trời gió lộng, không bao giờ trở lại nữa, nhưng vừa đi vừa ngoái nh́n để lắng nghe những tiếng gào kêu thống thiết của nhân gian, của thập loại chúng sinh đang quằn quại rên siết trong bao đổ nát đoạn trường, dâu bể tan hoang đầy thảm hoạ tồn sinh bức bách rợn ngần :
Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận
Ai tóc trắng sững sờ trên tuyết lănh Hoang đường nào c̣n in trên dấu vết lênh đênh ? Tên tuổi nào cô liêu đến bạc trắng cả mái đầu ? Sầu thế kỷ điêu linh nào cứ ngân dài măi trong năo nề thê thiết :
Tang thương một dải tóc huyền
Chênh vênh hoa đỏ nắng vàng Cô liêu, cô đơn, cô độc, cô lữ là bước đi kỳ cùng của người thi sĩ dị thường. Bước đi chênh vênh, khập khễnh bên này cát bụi phù du, bên này bờ Thị Ngạn Am xao xác cọng lau gầy sậy yếu lặng phất phơ. Thở cùng hương trái đắng và hương nắng buồn trong mắt biếc nhiều diệu vợi uyên tư :
Gà xao xác gọi hồn ta từ quá khứ
Từng tiếng lẻ loi buồn thống thiết
C̣i xa vắng giữa trưa nào lạc lơng Em ở đây chính là h́nh ảnh cuộc đời. Cuộc đời nếu nh́n từ chân đế, vốn là tuyệt trần Chơn mỹ, vốn là Vô sinh bất diệt, vốn là Niết bàn, Tịnh độ như thị như nhiên. Biết được điều đó, cho nên ḷng thi nhân tự bao giờ vẫn vô cùng khoan dung rộng lượng, thương yêu nhân loại trong vô ngôn lặng lẽ, trong tận cùng dung nhiếp âm thầm, chia sẻ với muôn loài vạn vật trần ai :
Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói Vô biên vô lượng thương yêu con người tha thiết mà không bao giờ nói ḿnh yêu thương ǵ hết cả, đó mới chính là thương yêu đích thực nhất. Phải chăng chỉ có những tấm ḷng Bồ tát mới có thứ t́nh yêu vô điều kiện, vô phân biệt như vậy ? Một t́nh yêu rộng răi Đại bi tâm nhập diệu, kết tinh thành bản t́nh ca mà thi sĩ thường lắng nghe từ hun hút biển ngàn, sông núi giữa trời đất mênh mang :
Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lăng
Mười năm nữa anh vẫn lầm ĺ phố thị
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối
Mười năm đó anh quên ḿnh sậy yếu Bản t́nh ca vô tận ấy, thi nhân vẫn nghe hoài rung ngân bất tuyệt trên những dặm dài long đong lữ thứ ở dọc đường quán trọ bơ vơ, bên làng mạc, thôn ấp đ́u hiu, cạnh ven rừng sơn dă hay quanh triền sông thị trấn tiêu điều hoặc trên ghềnh suối truông ngàn hoang vắng tịch liêu giữa những chiều sương khói chơi vơi bềnh bồng trống trải :
Em trải áo trên hoa rừng man dại
Em xỏa tóc cho cây khô sầu mộng
Ta chiến đấu nhọc nhằn như cỏ dại
Ta cúi xuống trên chân người bụi đỏ Bằng ánh mắt từ tâm thâm cảm, nhà thơ bi tráng của chúng ta nh́n sâu vào ḷng đời với nụ cười bao dung rạng rỡ. Thở cùng điệu hát bản t́nh ca nhă nhạc vang lừng trên núi rừng cô tịch hay giữa ngày hội lễ rộn ràng dưới phố thị xôn xao, nhà thơ đều im ắng lắng nghe trong từng khoảnh khắc lặng trầm, cảm nhận sâu xa v́ biết chỉ là chiêm bao huyễn mộng trong khói bụi chập chờn :
Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn Em là nàng thơ, là h́nh ảnh cuộc sống. Cuộc sống nếu nh́n từ tục đế th́ đầy những thăng trầm, điêu linh khổ lụy từ ngh́n xưa đến ngày nay. Khổ đế là sự thật thứ nhất mà Đức Phật đă chỉ bày cách đây gần ba ngh́n năm rồi. Giống như đại văn hào Hermann Hesse phát biểu : “Dù có bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn yêu thương trần gian điên dại này” nhà thơ Tuệ Sỹ cũng vậy, cũng hết ḷng thương yêu con người, dù kiếp người có tàn xiêu hiu hắt :
Ai biết ḿnh tóc trắng Một h́nh một bóng cô đơn ngồi trên tuyệt đỉnh núi lạnh xanh rờn, sẵn sàng chờ đợi một điều ǵ có thể xảy đến, đôi mắt thi nhân cúi nh́n xuống cuộc đời đang ch́m trong bóng tối mù sa mà cảm thương một nỗi u buồn xót xa sầu khôn tả :
Ta không buồn c̣n ai buồn hơn nữa
Ta lên bờ nắng vỗ bờ róc rách Ráng chiều xa băng lăng bóng hoàng hôn nhân loại đang phủ trùm vàng vọt xuống khắp vùng sông núi Đông phương. Cho dẫu đường đời giăng bẫy đầy hầm hố cách ngăn, khó khăn trắc trở ǵ ǵ đi nữa, thi nhân vẫn nhận diện, tỉnh thức trước những sự kiện đang diễn biến, v́ đă bừng ngộ thấy : “Ngay trong phiền năo tức là Bồ đề, ngay trong những nguy hiểm đáng sợ hăi của sinh tử cũng chính là Niết bàn an ổn. Sợi dây bị tưởng lầm là con rắn, nhưng không phải hủy diệt sợi dây để diệt trừ ảo giác gây nên sợ hăi. Ngoài những ǵ vô thường được thấy, được kinh nghiệm bằng chính mắt, tai, mũi, lưỡi này, không tồn tại một thế giới chân thường, đại lạc hay đại ngă nào khác. Đó chính là thực tại Nhất nguyên tuyệt đối.”**** Phải chăng, đó là cái thấy bằng Trí tuệ siêu việt ? Một khi nhà thơ có cái nh́n tuệ giác đó rồi th́ những sầu khúc thê lương kéo dài trong đợi chờ năo nuột suốt mười lăm năm trường đọa đày viễn mộng như lời thơ tiên tri trước cuồng phong băo tố mịt mùng cũng chẳng hề dao động mà vẫn như như tự tại vô ngại :
Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng Chút thân bé bỏng dù bị tù ngục lưu đày v́ sự ngộ nhận của thế lực vô minh, nhưng ngay trong dầu sôi lửa bỏng, trong đêm dài sinh tử đó, thi nhân đă nhập thần, đại thiền định, thấu thị tất cả vạn pháp “như sương mai như ánh chớp mây chiều” làm vỡ bùng rơi rụng bóng tối để rực ngời lên ánh phong quang, hiển lộ vô ngần thần lực vô vi. Một câu thơ khiến bay dậy âm vang sấm sét, mặc như lôi từ trong kinh Kim Cang làm phấn chấn bất khả tư ngh́ :
Tất cả pháp hữu vi Trùng trùng vạn pháp muôn loài vạn vật núi sông, rừng biển, thiên nhiên vũ trụ và con người đều như mộng như huyễn , như bọt nước như sương mai…Phải thường xuyên thấy rơ ràng như thế. Tuệ Sỹ cũng nhiều lần nói : “Tất cả giáo pháp của Phật đều hướng đến diệt trừ tự ngă. Tôi đang tồn tại, đó là một hiện thực, đồng thời cũng là một ảo ảnh. Đau khổ là một sự thực. Cái tôi đang đau khổ ấy lại là ảo ảnh. Cái ta ảo ảnh được bọc trong vỏ trứng vô minh, nó được định h́nh bằng vọng tưởng thành thân thể ta, linh hồn ta, sở hữu của ta, tài sản của ta, cho đến núi sông này là của ta, tài sản này là của ta, ta là tài sản này, sông núi này là của ta, ta là sông núi này. Cho nên, khi tán gia bại sản, khi sông núi sụp đổ, cái ta vọng tưởng cũng sụp đổ th́ có kẻ trầm ḿnh xuống sông hoặc treo cổ trên cành. V́ thế, khi nghe nói cái ta này là ảo ảnh, là không thực, người nghe có thể kinh hoàng như nghe sét đánh ngang tai. Tiếng sét đó là từ Kim Cang Bát Nhă. Duy có điều, mọi người đều mù, chỉ thấy bóng tối, mọi người đều điếc, chỉ nghe tiếng vo ve. Làm sao có thể thấy cái ta chỉ là ảo ảnh ? Làm sao nghe được tiếng sấm từ kinh Kim Cang ? Với những ai có mắt để thấy, có tai để nghe, kinh Kim Cang sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của cái tôi và chỉ cách vận dụng kim cang xử đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngă.” Khi thi nhân lănh hội, quán chiếu sâu xa, thấy tất cả vạn pháp như ảo ảnh, mộng huyễn như vậy th́ hoát nhiên hiển lộ, bừng sáng lên một phương trời Tánh Không lồng lộng nên hết thảy mọi khổ nạn điêu linh trầm thống đều chuyển hóa thành lửa tịch mịch, tự nhiên đốt cháy hết những kinh hoàng khủng khiếp của địa ngục trần gian và sầu khúc thê lương trở thành “Bản t́nh ca vô tận của Đông phương” hay biến thành Những điệp khúc cho dương cầm thâm thúy dưới ngàn trăng sao xao xuyến lặng bồi hồi :
Nỗi nhớ đó khát khao luồn sợi tóc Từ xưa đến nay vẫn điệp khúc cung đàn trường ca Đại bi tâm trầm lặng ngân rung trên cung bậc Bất nhị giữa cơi người ta vô thủy vô chung. Chúng ta hăy lắng nghe, thưởng thức những giai điệu tài hoa của nhạc sĩ tế nhị cảm giao ḥa :
Ta nhận ch́m thời gian trong khóe mắt Ngoài hiên chiều phất phới bay qua những vệt nắng nhạt nḥa phôi pha trong bóng tà huy thấp thoáng lan dần nhẹ tỏa xuống mềm mại những sợi khói mênh mang :
Nắng lụa đỏ phủ tường rêu xám bạc Thời gian và không gian trộn lẫn ḥa quyện tan vào trong cùng một tấu khúc rung cảm, bồng tênh lênh láng, dạt dào du dương, vi vu vi vút nguồn cảm xúc khôn ḍ của người em thi ca quá tuyệt diệu trong tự t́nh khúc rung động chan ḥa :
Tự hôm nào suối tóc ngọt lời ca Tiếng đàn miên man réo rắt lặng hồn dưới bàn tay phấn chấn thân yêu, d́u dặt vọng vang bàng hoàng qua những điệp khúc cho dương cầm thâm t́nh thấm thiết măi ngân nga từ cơi mộng không lời, hỡi vầng trăng gầy tịch nhiên soi chiếu trong vườn sương khuya mờ ảo lung linh ngời lấp lánh long lanh :
Nhà đạo nguyên không khách Chao ơi ! Yêu thương nhau đă từ muôn triệu kiếp rồi, hỡi vầng trăng thanh thoát vàng hoa mộng như nàng thơ gầy yểu điệu, lặng lẽ chia phôi. Thôi buồn làm chi nữa phải không ? Thôi cứ thản nhiên để cho hồn thơ dệt phím nhạc ngàn đời những tơ đàn diệu âm trầm bổng ngát xanh huyền :
Tóc em bay trong sương chiều khói biếc Trong tim hồn rộn ràng bao nhịp hát hoang sơ từ thượng cổ vọng về, nghe như điệu hát Trang Tử tiêu dao du, bên bờ sông xa mù Dương Tử, hay như lời thơ ngâm nga của Milarepa trên tuyệt đỉnh ngàn cao Hy Mă Lạp Sơn chập chờn sương khói tỏa thiên thu hoặc như khúc hát nghêu ngao Phóng cuồng ca của Tuệ Trung Thượng Sỹ, trong cơn xuất thần nhập diệu, đại ḥa điệu chơi cùng nhật nguyệt, thiên địa tuần hoàn. Thế là, bát ngát bồng tênh trên ngơ về im lặng, tiếng thơ trầm hùng Tuệ Sỹ như ánh trăng huyền nguyên thủy, chiếu diệu xuyên qua ngút ngàn bóng tối vô minh làm bừng hiện rực ngời lên trên cung bậc ngôn ngữ thi ca đầy sáng tạo và sáng tạo tân kỳ như Tuệ Sỹ từ thuở thanh xuân đă nghe tận thần hồn : “Ngôn ngữ không c̣n là một h́nh ảnh héo hắt của Thực tại sai biệt và sai biệt. Nó không đi chơi vơi trên Thực tại mà đóng vai tṛ truyền thông như tiếng gọi từ trên một đỉnh trời Tuyệt đối vô tri, từ trên một đỉnh núi ngàn đời bất khả xâm phạm, luôn luôn thách đố bước tiến của con người. Nó đánh mất đi cái cụ thể nghèo nàn trong tầm mắt thường nghiệm của phàm phu để dẫn đến một chân trời rực rỡ của sáng tạo.”***** Con đường mây trắng thênh thang sáng tạo đă vượt qua những mộng tàn năm tháng cũ, dù vẫn cỏn chút dư hương của một thời đọa đày viễn mộng u sầu :
Màu nắng xế ôi màu hương tóc cũ Ơi chao ! Đă chia phôi, từ biệt cuộc ân t́nh nhân thế từ dạo đó, kể từ ngày như Nguyễn Du xa xưa từng chứng kiến giữa trần ai : “Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn ḷng” nhà thơ Tuệ Sỹ cũng đi về theo thể điệu phiêu nhiên, quy hồi Vĩnh cửu với nụ cười sâu lắng tự tri :
Khói ơi ! Bay thấp xuống đi Vĩnh hằng chẳng ở đâu xa mà ngay trong từng sát na hiện tại, ở đây và bây giờ, ngay trong tiếng ve sầu hay từng nhịp thở nhẹ nhàng giữa ḷng phố bụi lao xao :
Ve mùa hạ chợt về thành phố Ngôn ngữ thi ca thường chứa nhiều ẩn dụ, tượng trưng hàm súc như vậy, chúng ta tha hồ suy diễn, lănh hội, cảm nhận theo đủ cách điệu riêng tư của ḿnh thôi. Đọc thơ Tuệ Sỹ là lang thang bước dạo chơi vào một thế giới diêu mang kỳ ảo vô vàn :
Một ngày chơi vơi đỉnh thác Tấu khúc Thiên hoang vang rền, đồng vọng trong tận đáy ḷng Không tánh vô biên, khiến cho thi nhân tự ḿnh thưởng thức hương vị cô liêu của cuộc sống. diệu thường :
Tự tâm tự cảnh tự thành chương Thế th́, tuyệt cùng ẩn ngữ thi ca Tuệ Sỹ là ǵ ? Làm sao chỉ ra được, khi ngôn ngữ cứ lấp lánh ẩn hiện trong ánh sáng phát ra từ tâm cảm thông tuệ thâm trầm ? Có ai nắm giữ được những tiếng dương cầm âm thanh thánh thót, phiêu diêu, dịu dàng vang ngân bất tận từ giữa ḷng bàn tay của người nghệ sĩ tài hoa ? Đă rời khỏi Thị Ngạn Am ở Sài G̣n gần 2 năm nay rồi, bây giờ Tuệ Sỹ sống lang thang đúng nghĩa lang thang, hoàn toàn rỗng rang vô sự. Vô sự là thong dong tự do tự tại giữa đang là, không c̣n chạy theo nắm bắt bất cứ một cái ǵ nữa cả, dù đó là Phật, là Tổ như thiền sư Lâm Tế nói : “Con người vô sự là người đă dừng lại, không c̣n dính mắc vào một lư thuyết, một giáo pháp, một đường lối nào nữa hết. Con người vô sự có tự do, có khả năng sống hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, không bị bất cứ một cái ǵ có thể kéo đi, kể cả lư tưởng độ sinh cứu đời. Bởi v́ lư tưởng độ sinh cứu đời cũng có thể bắt ḿnh chạy đi t́m cầu, bỏ mất giây phút hiện tại, bỏ mất cái tâm sáng chói và sáu đạo thần quang đang có mặt, vốn là nguồn gốc của tất cả chư Phật.” Lẫn vào cát bụi phù du “ḥa kỳ quang đồng kỳ trần” Tuệ Sỹ giống như thiền sư thi sĩ Nhật Bản Basho xuống núi, phiêu bồng thơng tay vào chợ làm thơ và làm thơ giữa ngày tháng lưu linh cùng sương khói bồng bềnh.
Trên ngơ về im lặng, lúc th́ tiêu dao với mây trắng trên núi
rừng Madagoui huyền ảo, lúc th́ lên đồi Phương Bối ở vùng
Đại Lăo, Bảo Lộc uống trà với nhà thơ Nguyễn Đức Sơn. Bồng
tênh xuôi về phố hoa Đà Lạt, ghé bên cầu sông nước Đại Ninh
cùng những ẩn sĩ tâm t́nh, rồi thênh thang xuống miền biển
khơi Vạn Giă, Nha Trang muôn trùng bát ngát…Hát khúc vô
thanh siêu thoát làm hồi phục những tiêu điều, hiu hắt dọc
khắp ven đường thi sĩ đi qua. Anh không thể cảm thơ người ta th́ anh hăy im lặng, c̣n nếu cảm được th́ anh hăy tha thiết ca ngợi, đừng e dè giữ ǵn ǵ cả. Không nên có những kẻ phê b́nh thơ mà chỉ nên có những người ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người, không có ai làm thầy ai cả.” Bắt chước Phạm Công Thiện, người viết cũng muốn ca ngợi tán thán Tuệ Sỹ, một thiền sư thi sĩ vĩ đại, một trái tim Kim Cang bất hoại vô úy nhưng ngợi ca làm chi nữa, khi mà tiếng thơ của thi nhân đă làm chấn động rung chuyển cả thế giới hoàn cầu và lan tỏa lạ thường ra khắp vũ trụ mười phương rồi. Thôi th́ chỉ xin kính tặng một bài thơ b́nh dị :
Những phương trời viễn mộng đi
________________________ a2a mời đọc :
|