Nobel văn chương
1994: Cha và Con.
Tháng
Chạp 1994, nhà văn Nhật Kenzaburo Oe tới
Stockholm lănh giải Nobel văn chương. Trước
những thính giả lịch sự, và những phóng viên,
ông cứ nói đi nói lại, ‘Tôi sẽ ngưng viết tiểu
thuyết.", khi được hỏi. Một xác quyết kỳ kỳ,
được nói bằng một giọng nhẹ nhơm, vui vui, thành
thử chẳng mấy ai tin. Ông vừa tới tuổi sáu mươi,
tráng kiện, và được coi là nhà văn đầu đàn trong
cơi văn xuôi của Nhật. Giải thưởng Nobel càng
làm cho sách của ông bán chạy ở trong nước, và
giới xuất bản nước ngoài đua nhau dịch. Ông
chẳng có vẻ mệt mỏi, hay xuống tinh thần. Chưa
bao giờ ông cảm thấy thanh thản như lúc này.
Quyết định của ông như muốn đóng lại một đoạn
đời, chứ không phải là một khủng hoảng.
Tôi ngưng viết tiểu thuyết, ông nói, bởi v́ cái
nhiệm vụ mà tôi đặt ra cho tôi cách đây 31 năm
kể như không c̣n cần thiết nữa. Hikari, con trai
của ông, do năo bộ tổn thương, chỉ có thể nói
bập bẹ vài tiếng, và phải có người coi sóc
thường trực, sau 31 năm, lúc này đă t́m ra tiếng
nói của ḿnh. Anh soạn nhạc cho đàn dương cầm và
sáo, và âm nhạc của anh thật là đáng kể - "như
sương long lanh trên lá cỏ", ông bố miêu tả - và
vừa mới cho ghi âm CD thứ nh́, "Nhạc Hikari Oe,
2".
"Đôi khi, con trai tôi nghĩ, chính nó mới là
người được giải thưởng Nobel văn chương", ông bố
nói, mặt mày rạng rỡ. "Khi kư giả tới nhà tôi ở
Tokyo, họ gặp con tôi trước, và nói, ‘Xin chúc
mừng’. Đúng vào thời gian đó, cu cậu vừa cho ra
ḷ một tác phẩm âm nhạc mới. Vả chăng, những tác
phẩm của tôi, trong đó có hai cuốn A Personal
Matter và The Pinch Runner Memorandum, là dựa
trên cuộc sống của hai cha con. Thành thử, nếu
cu cậu nghĩ ḿnh đoạt giải Nobel, cũng đúng thôi.
Tôi vẫn c̣n ngỡ ngàng, với năo bộ tổn thương như
thế, làm sao cu cậu lại có thể tiếp tục đi sâu
măi vào thế giới thanh âm, làm giầu thêm âm nhạc
của ḿnh. Đă một thời gian dài, tôi ngỡ ḿnh
sống là để diễn tả những sự vật giùm cho đấng
con trai, nhưng bây giờ cu cậu tự làm lấy việc
này. Hóa ra là tôi quá đề cao vai tṛ của ḿnh."
Trước mắt, ông tính lo cho con và quay qua
nghiên cứu. Hikari là đứa lớn nhất trong ba đứa.
Năm 1996, ông sẽ là giáo sư thỉnh giảng tại Đại
Học Princeton. "Tôi tính đọc văn cho sinh viên
trong ṿng ba, hay bốn, hoặc năm năm, và biết
đâu đấy, tôi lại kiếm ra một văn phong mới cho
ḿnh.", ông nói. "Tôi chưa biết tính sao, về
chuyện sẽ tiếp tục viết, và viết như thế nào.
Nhưng tôi hy vọng, sẽ viết chuyện nhi đồng, ít
ra là, cái thứ chuyện mà tôi sẽ viết ra đó, trẻ
con sẽ ưng. Tôi viết cho nhi đồng, và cho những
người già thê thảm – những con người giống như
tôi."
Được giải Nobel văn chương, trong linh tinh đủ
thứ, có cái thú như vầy: một tuần lễ thoải mái ở
Đại Khách Sạn, Stockholm. Lễ lạc, chào mừng...
và [như người Việt ḿnh nói, vừa ăn, vừa nói,
vừa] gói mang về 930 ngàn đô la Mỹ. Oe đă hoàn
thành nhiệm vụ của ḿnh, bằng dáng dấp, lời ăn,
tiếng nói thật là tuyệt vời. Khi anh chàng phó
nháy yêu cầu, "Hăy nh́n vào caméra như thế này
này, và nói: Tối nay, vào lúc mười một giờ thiếu
mười lăm", ông đă làm đúng như yêu cầu. Ông cũng
không quên đùa giỡn với những Nobel đồng sự
người Nhật, Pháp hay Anh. Tác phẩm của ông th́ u
tối, khó đọc, nhưng ai cấm ông có một bề ngoài
vui vẻ. Ông đeo cặp kiếng giống như hai bánh xe,
tóc cắt ngắn, với những sợi tóc nhọn hoắt. Hai
vành tai rộng lạ thường, như ôm lấy mọi cánh gió.
Chúng tôi (1) đang ngồi tại căn pḥng của ông, ở
Đại Khách Sạn, Stockholm, vào buổi sáng; Yukari,
bà vợ của ông đang phụ Hikari lau mặt và mặc
chiếc áo khoác. Trong cuốn tiểu thuyết Một
Chuyện Riêng (A Personal Matter), Oe viết, cậu
con tật nguyền ngày càng giống bố. Tôi nhận thấy
cậu có vẻ giống ông, nhưng vẫn c̣n nguyên những
khuyết tật bẩm sinh: mắt lé, cái sọ không ăn với
cái ḿnh. Hikari (có nghĩa là "ánh sáng") đă là
một người lớn, nhưng khả năng nói của anh, như
ông bố nói, chỉ bằng một đứa trẻ ba tuổi, và
chẳng có ǵ tỏ vẻ sẽ khá hơn. Anh bị chứng động
kinh hành hạ. Thị lực yếu. Đi đứng khó khăn, đôi
khi. Trong lúc nói chuyện, ông bố vẫn không quên
trông chừng con, và sẵn sàng ngưng ḍng tư tưởng
của ḿnh để lo cho cậu. Như bà vợ, ông là ông bố
hết ḿnh cho con. Và c̣n là một người cha biết
ơn: Hikari đă "rọi sáng những ngơ ngách, những
tầng sâu u tối ở trong tôi," ông nói. Cậu con đă
cứu cuộc đời của ông bố.
***
Kenzaburo Oe sinh năm 1935 tại Ose, một làng ở
vùng núi thuộc đảo Shikoku. Tên làng đă bị xóa
trên bản đồ, tuy hồi xưa được nối vào một thành
phố khác. Khi Oe được sáu tuổi, cuộc chiến Thái
B́nh Dương bắt đầu. Ông mất cha và bà. Truyện
ngắn chủ chốt đầu tiên của ông, "Prize Stock",
là về những năm chiến tranh tại một làng Nhật
bản huyền hoặc hầu như thuộc thời tiền sử. Một
cơi Thiên Thai bất th́nh ĺnh bị làm rộn bởi sự
xuất hiện, không phải của chàng Lưu và chàng
Nguyễn, mà một phi công Hoa Kỳ bị bắt, chắc là
bởi mấy o du kích. "Đối với chúng tôi, người
lính da đen là một con vật nuôi trong nhà, thuộc
loại hiếm quí, và thật là tuyệt vời", Oe viết. "
Làm sao tôi có thể diễn tả nổi, chúng tôi yêu
anh ta như thế nào, hay là ánh mặt trời chói
chang trên làn da nặng nề, ướt đẫm của chúng tôi
vào buổi xế trưa mùa hè thật huyền ảo và cũng
thật xa vời đó, những khối bóng sẫm trên những
viên đá cuội, cái mùi toát ra từ những đứa trẻ
và người lính da đen, những tiếng ḥ la đầy ứ
hạnh phúc, làm sao tôi có thể chuyên chở nổi tất
cả cái nhịp sống tràn trề như thế đó? Và cái
giọng điệu, đúng là của một thế giới đă tuyệt
chủng, đă mất tích – một thế giới được lọc riêng
ra, thật là giản dị như vậy, đă biến mất vào
cuối cuộc chiến.
Mười tám tuổi, Oe làm chuyến du lịch thứ nhất
trong đời, bằng xe lửa, tới Tokyo; nơi ông bắt
đầu cuộc đời sinh viên, và nhà văn. Ông viết
những truyện ngắn đầu tiên khi đang học văn
chương Pháp tại Đại học Tokyo, và tiếng tăm nổi
như cồn vào thời gian ông tốt nghiệp, khi được
trao giải văn chương Akutagawa Prize, cho truyện
ngắn "Prize Stock", vào năm 1958. Cũng năm này,
ông cho xuất bản tiểu thuyết đầu tiên, Nip the
Buds, Gun the Kids, viết về cuộc di tản trong
thời gian chiến tranh mười lăm học sinh trai
thuộc trường reform-school tới một nơi rất giống
làng Ose.
"Thuở thoạt đầu, tôi là một nhà văn khá hạnh
phúc," ông nói, bằng một thứ tiếng Anh rơ ràng
nhưng ngần ngại. "Có bóng dáng của chiến tranh
và sự chiếm đóng của người Mỹ, điều này gây nhức
nhối ở giới trẻ, nhưng nói chung, tôi cảm thấy
hạnh phúc. Tới năm hai lăm hoặc hai sáu tuổi,
tôi mất hết mọi ư nghĩa về căn cước của ḿnh,
mất luôn cả cái cảm giác, hoặc ư nghĩ, rằng ḿnh
ổn định, của thời gian trước đó. Mấy năm liền
tôi luẩn quẩn với ư định tự tử. Rồi th́, vào năm
1963, con trai tôi ra đời. Một cách nào đó, đứa
nhỏ là hiện thân của nỗi bất hạnh của tôi. Do sọ
phát triển quá khổ, nó giống như một đứa bé với
hai cái đầu. Đây là thời gian khủng hoảng ghê
gớm nhất trong đời tôi. Những vị y sĩ cho biết,
quyết định giải phẫu đứa trẻ, hay không, là tùy
thuộc vào vợ chồng chúng tôi. Nếu không giải
phẫu, Hikari sẽ chết ngay sau đó. Giải phẫu, đứa
bé có thể sống, nhưng với rất nhiều, rất nhiều
khó khăn. Con trai tôi ra đời ngày 13 tháng Sáu,
và tôi đi Hiroshima vào ngày Một tháng Tám.
Hiraki vẫn c̣n ở trong bệnh viện. Tôi chạy trốn
đứa bé. Đây là những ngày nhục nhă, tủi hổ của
tôi, mỗi lần nhớ lại. Tôi muốn chạy trốn, tới
một chân trời nào khác. Tôi được yêu cầu thực
hiện một phóng sự về Hiroshima, và tôi bỏ đi,
chạy trốn tới đó th́ đúng hơn, với ư định gặp gỡ
những chính trị gia, bác sĩ, và những nhà hoạt
động tại một cuộc hội họp quốc tế chống vũ khí
nguyên tử. Chán ngán chính trị gia, và ba câu
chuyện của họ, tôi bỏ đi liền, tới một bệnh viện,
nơi những nạn nhân sống sót trái bom được chữa
trị. Ở đó, tôi gặp giám đốc, một vị bác sĩ lớn,
Fumio Shigeto, và chúng tôi nói chuyện hàng giờ
đồng hồ. Đêm hôm đó, tại căn pḥng nơi khách sạn,
tôi soạn lại những ǵ ông đă nói, về chuyện làm
cách nào ǵn giữ, bảo vệ những nạn nhân của bom
nguyên tử, tôi bắt đầu nh́n ra ở trong tôi, một
h́nh ảnh mới về con người. Thật khó mà cắt nghĩa,
giải thích, nhưng suy nghĩ của tôi bắt đầu thay
đổi."
Oe ngưng nói, đưa mắt nh́n con trai, lúc này
đang ngồi tại một cái bàn ở trong pḥng.
Hikari
nhấc chén trà đưa lên gần mặt, chăm chú quan sát
từ mọi góc cạnh, nh́n cái bóng phản chiếu của
ḿnh ở trên đó, giống như trên một tấm gương lồi.
Anh loay hoay một lúc, rồi ngước mắt nh́n bố,
mỉm cười. Và ông bố mỉm cười lại, rồi quay đi,
tiếp tục câu chuyện của ông.
Thế là vào bữa Thứ Bẩy, như tôi c̣n nhớ được,
tôi tŕnh bày t́nh trạng đứa con trai với Bác sĩ
Shigeto Ông nói với tôi về một vị bác sĩ nhăn
khoa trẻ làm việc dưới quyền ông. Như bạn biết,
ở Hiroshima, nhiều người mắt bị tổn thương, do
ánh sáng chói ḷa của trái bom nguyên tử, hoặc
do những miểng kính. Vị bác sĩ trẻ này, sau tự
tử, lúc đó đang trong cơn chán ngán cùng cực.
Anh nói với ông thầy: "Làm sao bây giờ? Chúng ta
đâu biết ǵ về hậu quả của phóng xạ? Tôi không
biết chữa trị họ như thế nào." Bác sĩ Shigeto
bảo anh: "Với những người bị thương, nếu họ đang
đau đớn, chúng ta phải làm một điều ǵ cho họ,
cố gắng chữa trị họ, cho dù chúng ta không có
một phương pháp nào." Nghe ông nói tôi cảm thấy
thật là xấu hổ. Tôi đă chẳng làm ǵ cho con tôi
– con trai của tôi, nó câm lặng, chẳng thể biểu
tỏ nỗi đau đớn, chẳng thể làm điều ǵ cho chính
nó. Và tôi hiểu, tôi phải đối mặt với con tôi,
yêu cầu bệnh viện thực hiện ca giải phẫu, và cố
gắng đủ mọi cách để chăm lo nó. Tôi trở về
Tokyo, và con trai tôi trải qua cuộc giải phẫu.
Sau cùng nhờ Trời, ca mổ thành công. Hikari tiếp
tục sống, và sự hiện diện của đứa con là điểm
tựa chống lại ư nghĩ tự tử. Tôi bắt đầu làm lại
đời ḿnh. Trước đó, tôi vốn là một con người thụ
động, nh́n đời bằng cặp mắt u tối, và chẳng có
một ư nghĩ ǵ về tương lai. Bà xă tôi rất cứng
cỏi, rất tự lập, và tôi cảm thấy thật xấu hổ về
ḿnh, trước bà, do lúc nào cũng âu sầu. Không
phải cứ có bà vợ cứng cỏi như thế, là ông chồng
không thể nào tự tử, tôi đă từng nhiều phen tính
kết liễu đời ḿnh, nhưng đứa con ra đời, và trái
tim của tôi mở ra."
Trong ṿng hơn hai chục năm, Oe nghiền ngẫm, vật
lộn, đối chiếu sự ra đời của đứa con với mọi
hành xử, thái độ của chính ông; bằng một con mắt
không thương hại, ông nh́n nó dưới mọi góc cạnh
của vấn đề, của hoàn cảnh, với mọi khả hữu. Ở
Nhật bản, những người tàn tật bị sỉ nhục, khinh
khi nhiều hơn, so với nhiều xứ sở khác. Khối
lượng khổng lồ những ǵ Oe viết ra, về cha và
đứa con tàn tật, gây ám ảnh, nhức nhối và tạo
sốc. Trong một truyện ngắn nhan đề "Aghwee the
Sky Monster", người cha giết đứa con dị tật bằng
cách cho đứa bé uống đường thay v́ sữa. Cuộc
giảo nghiệm cho thấy, khối u của đứa bé chỉ mới
nhen nhúm, và sau đó hồn ma đứa con thường xuyên
viếng thăm ông bố. Trong "Một chuyện riêng" (A
Personal Matter), người cha, không phải chạy
trốn con tới Hiroshima, mà là tới một cô bạn cũ.
Cô bạn say mê những cuộc phiêu lưu xác thịt này
cùng người cha âm mưu giết đứa bé, "con quỉ con"
(a "monster baby"). Phút chót, người cha bỏ dự
tính, và chấp nhận – đúng ra là ôm lấy – trách
nhiệm đối với đứa con bệnh hoạn. ("Trong cuộc
đời này", Oe nói, "tôi chọn con đường trong cuốn
truyện Một chuyện riêng"). Trong truyện ngắn
nhan đề "Teach us How to Outgrow Our Madness" (Hăy
dậy chúng ta làm sao hết khùng), Oe mô tả mối
cảm ngầm (unspoken communication) giữa người cha
với đứa con trai. Đây là một thứ "cảm" tuyệt đối,
thậm chí vật chất, của ông. Người cha mập thù lù
trong câu chuyện "cảm" từng nỗi đau của con trai,
và cố gắng, qua thính giác (lời nói), qua xúc
giác (sờ mó, đụng chạm), để xuyên qua lớp vỏ bề
ngoài câm nín của đứa con, để nuôi dưỡng và bảo
vệ nó. "Người đàn ông mập béo kinh nghiệm thẳng,
bất cứ một nỗi đau vật chất nào mà đứa con đang
cảm thấy, đang phải chịu đựng. Khi ông đọc được
ở đâu đó, rằng có một loài cá đực nơi biển sâu,
sống là nhờ được gắn liền với một cơ thể lớn hơn
của một con cái, ông ta mơ tưởng, ḿnh chính là
con cá cái lơ lửng nơi đáy biển, cưu mang đứa
con trai trong cơ thể của ḿnh, một giấc mơ thật
ngọt ngào, khi mơ, và thật ác độc, khi tỉnh.
Không giống như giấc mơ, Oe và bà vợ chẳng làm
cách nào để chấm dứt những đau đớn, những khinh
khi mà đứa con phải chịu đựng. "Trong ba chục
năm đó, không biết bao nhiêu cơn khủng hoảng đă
xẩy ra cho nó", Oe nói, "nhưng luôn luôn, chúng
tôi – Hikari, vợ tôi, và tôi – cố gắng đối đầu
và vượt lên những khó khăn. Mỗi lần vượt qua
được một khó khăn, rồi một cái khác, là chúng
tôi cảm thấy như vươn lên một bậc cao hơn. Một
cách nào đó, chúng tôi như đang leo lên một cầu
thang. Khi đứa con đau, chúng tôi đều đau, khi
nó được chữa trị, chúng tồi đều được chữa trị."
Oe và bà vợ bây giờ có thể nói chuyện với con,
và bước đường chông gai đó tương tự như trong
những truyện mà ông viết ra – một tiến tŕnh
chậm chạp, thật khó giải thích, "Chúng tôi xây
dựng sự cảm thông từng bước một, "Oe nói. "Thoạt
đầu, Hikari tỏ ra hoàn toàn tiêu cực, với mọi
trao đổi, như thể nó bị mắc bẫy, ở ngay bên
trong cơ thể của nó. Nhưng chúng tôi luôn luôn
cố lặn sâu hơn, để vươn tới nó. Khi cháu được
bốn tuổi, chúng tôi mua một bộ đồ chơi, ghi đủ
thứ tiếng chim chóc, và chơi đi chơi lại cho
cháu nghe. Sau tiếng chim, là giọng nói của một
người giới thiệu: "Đây là chim sáo", hoặc "Đây
là chim bồ câu", thí dụ vậy. Trong hơn hai năm,
chúng tôi cho cháu nghe đi nghe lại hoài, bộ âm
thanh của những loài chim như trên. Bữa đó, khi
Hikari được sáu tuổi, chúng tôi tới căn lều của
chúng tôi tại một vùng núi. Cơng cháu trên vai,
hai cha con dạo chơi trong rừng, và có tiếng
chim hót, tôi cũng không biết đây là thứ chim ǵ,
thế rồi một giọng nói cất lên: "Đây là chim sáo".
Tôi nghĩ ḿnh bị hoang tưởng. Đâu có ai khác ở
quanh chúng tôi. Rồi có tiếng chim hót, và lại
có tiếng nói: "Đây là chim sáo." Lần này th́
thật rơ ràng, đúng là tiếng nói phát ra từ cổ
họng con tôi. Và nó đă nói đúng tên chim. Như
vậy là nó đă có học, và biết tất cả các giọng
chim chóc được ghi lại trong bộ đồ chơi. Hóa ra
là cu cậu biết được 70 thứ tiếng chim hót. Đúng
là thiên tài! Và chúng tôi bắt đầu trao đổi với
cu cậu, qua tên, và tiếng hót của những loài
chim."
"Rồi th́ bà vợ tôi bắt đầu chơi nhạc Bach,
Mozart, và những nhạc sĩ khác, ở quanh quẩn
trong nhà, thường là cho bả. Nhưng rơ ràng là,
mỗi lần bà chơi nhạc như thế, cháu có thể nhận
ra, thí dụ đó là một bản Brandenbug Concerto.
Mặc dù cháu chưa thể trưởng thành về lời nói, về
ngôn ngữ, nhưng về âm thanh, tôi muốn nói âm
nhạc của cháu, luôn luôn phát triển. Những vị
bác sĩ giải thích cho chúng tôi, rằng bộ năo có
hai phần, một phần lo về tiếng nói, một phần lo
về âm nhạc. Theo họ, nối kết giữa hai phần năo
của Hikari rất yếu, nhưng phần năo lo âm nhạc
th́ lại rất mạnh.
Bố mẹ Hiraki sau đó mướn một vị thầy dậy đàn
dương cầm cho cậu, nhưng họ nhận ngay ra là
Hikari gần như như bất lực, nếu nói về khả năng
xoay sở, sử dụng những cơ phận của cây đàn. Tuy
nhiên, họ c̣n nhận ra, h́nh như cậu con đă ghi
lại (viết ra) tất cả những âm thanh mà cậu đă
được nghe. Lúc đầu, vị thầy lại nghĩ, đó là
những mẩu đoạn âm nhạc của những nhạc sĩ nổi
tiếng, như của Bach, hoặc Mozart, nhưng ông nhận
ra liền, đây là âm nhạc của riêng Hikari. Cách
đây hai năm [tức là vào năm 1992], với sự trợ
giúp của hai nhạc sĩ, một chuyên về dương cầm,
một chuyên về sáo, Hiraki đă cho ra ḷ chiếc CD
âm nhạc đầu tiên của anh. Đĩa nhạc mới của anh
được giải thưởng âm nhạc ở Nhật – một giải
thưởng âm nhạc quan trọng nhất. Bà mẹ cho biết,
năm nào gia đ́nh cũng đoạt giải thưởng. "Ông
biết không, những nhà phê b́nh đă chỉ trích
chúng tôi, là đă ‘bóc lột’ cậu con". Oe nói, "Sự
thực là họ không hiểu, tôi đă sống với nó trong
31 năm, và rất hiểu rơ cháu, đâu phải họ. Tôi
c̣n tin tưởng rằng, tuy cháu không thể nào đọc
những cuốn sách mà tôi đă viết ra, nhưng nếu
Trời cho cháu có cái khả năng đọc, cháu sẽ thấy,
ḿnh không hề bị tổn thương, về những điều đă
được viết ra như thế đó. Tôi chắc chắn như vậy."
Trong khi đề tài "đứa con ngu ngốc" trở thành
một trong những quan tâm số một của Oe, ông c̣n
được biết tới ở Nhật như là một nhà văn dấn thân,
một khuôn mặt chính trị. Cuốn sách best seller
của ông, Những ghi chú về Hiroshima, tuyển tập
những tiểu luận và phóng sự, xuất bản năm 1965,
là về những ǵ xẩy ra sau đó, và ư nghĩa, của vụ
ném bom nguyên tử trên đất Nhật vào năm 1945. Về
mặt chính trị, Oe có vẻ giống Guenter Grass, một
nhà văn tỉnh lẻ (Grass là từ Danzig), người đă
lay động cả một quốc gia hùng mạnh, là nước Đức
của ông, về những ư hướng quyền lực của nó, cũng
như là về sự trống vắng ư thức chính trị và
khung cảnh văn hóa hiện tại. Oe đập thẳng vào sự
sống dai của những biểu tượng hoàng gia của Nhật.
Ngay trong mùa đông năm nay, liền ngay khi hết
sức mừng rỡ về tin được trao giải thưởng Nobel
văn chương, Oe từ chối Bunka Kunsho, Huân Chương
Văn Hóa, một huân chương được Hoàng Đế ban cho.
Lư do, theo ông, khi trả lời Kyodo News Service,
"Huân Chương Văn Hóa không thực xứng hợp với
tính dân chủ của thời kỳ hậu chiến". Liền ngay
sau đó, ông nhận được những đe dọa và sự sỉ nhục
của công chúng.
Oe là một cột trụ c̣n lại của thế hệ nhà văn hậu
chiến, trong đó có Kobo Abe và Yukio Mishima,
những nghệ sĩ chín mùi vào đúng mùa của những
chống đối, của không khí trí thức bất b́nh
thường (Abe mất năm 1993, Mishima mổ bụng tự sát
năm 1970). Một thế hệ chứng kiến cảnh tan hoang
của đất nước, tiếp theo sau phép lạ tăng trưởng
kinh tế, cùng sự xác định lại giá trị tinh thần
của nó. Biến cố thê thảm nhất trong cuộc đời Oe,
lẽ dĩ nhiên, là cuộc chiến, và cơn sốc tiếp theo
sau đó. Như tất cả những bạn đồng học, ông cũng
tiếp nối họ, khi tới lượt ḿnh, thề trung thành
với hoàng đế, thề sẽ tự sát, nếu hoàng đế ra
lệnh: "Tôi sẽ chết, thưa Ngài, tôi sẽ mổ bụng tự
sát". Những ảo vọng về cuộc chiến, về văn hóa và
vũ trụ quan của Nhật, tất cả đều biến mất, vào
ngày 15 tháng Tám, 1945, khi Nhật Hoàng tuyên bố
đầu hàng Hoa Kỳ, vô điều kiện. Trong một tiểu
luận nhan đề "Tướng Về Hưu" [thực sự là "Chân
Dung Viên Tướng Hậu Chiến"], Oe viết, "Vào ngày
hôm đó, những người lớn ngồi chung quanh chiếc
đài (la-dô), và khóc rống lên. Những đứa trẻ th́
xúm thành từng đám ở bên ngoài, giữa con lộ bụi
bặm, th́ thào, chuyền cho nhau nỗi kinh hoàng,
và hoang mang, của chúng. Chúng tôi quá sức ngạc
nhiên, và thất vọng, khi nghe và khám phá ra
rằng Hoàng Đế nói bằng giọng nói của con người
(a "human" voice)... Làm sao chúng tôi có thể
tin được, một quyền uy như thế đó, bỗng chốc
biến thành một con người b́nh thường, vào một
ngày định mệnh, mùa hè năm đó?" Khi hoàng đế bị
bắt buộc phải thoái vị, văn hóa Nhật đă không
làm sao xóa nổi bóng dáng ông vua, ở ngay tâm
của nó. Cuộc khủng hoảng tâm lư, và chính trị cứ
thế tiếp tục ngay cả tới bây giờ.
Trong khi trên sân khấu chính trị, Mishima nổi
bật như là một người theo chủ nghĩa quốc gia hữu
phái, ủng hộ hoàng đế, Oe cầu mong chấm dứt mọi
dấu vết hoàng gia Nhật. Michiko Niikuni Wilson,
tác giả cuốn "Thế giới bên lề của Oe Kenzaburo",
và c̣n là dịch giả, cùng với chồng, Michael,
cuốn The Pinch Runner Memorandum, viết, một biến
cố chính trị ảnh hưởng nặng nề Oe, xẩy ra vào
năm 1960, là khi Otoya Yamaguchi, một phần tử
cực đoan 17 tuổi, xông lên diễn đàn, dùng dao
đâm nhà lănh đạo đảng Xă Hội, Inejiro Asanuma.
Oe viết truyện ngắn, nhan đề là "Mười Bẩy", dựa
theo biến cố kể trên. Phản ứng và những hăm dọa,
đối với tác giả và nhà xuất bản, dữ dằn tới mức
tạp chí Bungakukai, nơi truyện ngắn xuất hiện,
đă phải đưa ra thông báo, "Chúng Tôi Chân Thành
Cáo Lỗi V́ Đă Sơ Xuất Cho Đăng Truyện Ngắn Kể
Trên" (Our Humble Notice). Truyện sau không được
đưa vào trong tuyển tập truyện ngắn của Oe; tác
giả cho biết, ông đành chấp nhận giải pháp đó,
chỉ v́ sợ cho mạng sống của chủ nhà xuất bản,
cùng gia đ́nh của ông ta.
Trong một thời gian dài, Oe yên lặng sau biến cố
trên, và quay qua những đề tài khác, đặc biệt là
về thời thơ ấu của ông ở nơi làng quê, và liền
sau đó, là về đứa con mới sinh. Tuy nhiên, năm
năm sau, lợi dụng lễ tưởng niệm ngày 15 tháng
Tám, 1945 (August 15 Memorial Meeting), ông nói
về hệ thống hoàng gia, ban cho nó một cái tên:
kakuremino, "cái áo khoác biến người mặc trở
thành vô h́nh"; nhờ vậy, nó cho phép người mặc (dân
chúng Nhật) vờ đi ư nghĩa của cuộc chiến. Trong
một bài viết đăng sau đó, ông đưa ra câu hỏi,
tại sao những nhà văn Nhật dám lên tiếng chống
lại việc kiểm duyệt ngăn cấm không cho xuất bản
tác phẩm Người T́nh Của Phu Nhân Chatterley [tác
phẩm bị coi là dâm thư, của D.H. Lawrence], vậy
mà lại không dám đứng ra tranh đấu cho một
truyện ngắn "Mười Bẩy", và phần tiếp nối "Cái
Chết Của Tuổi Trẻ Chính Trị" (The Death of
Political Youth). Và ông trả lời: "Bởi v́ cả hai
truyện ngắn kể trên đă vờ đi, chẳng thèm ‘quan
tâm đúng mức’ tới cái gọi là những thành phần
hữu phái, cũng như mọi thứ, mọi điều mà Hoàng Đế
kêu gọi, nhắn nhủ."
Thập niên 1960, mặc dù quan điểm chính trị của
Mishima, Oe là bạn của nhà văn này. Nhưng vào
năm 1970, khi Mishima mổ bụng tự sát – seppuku,
như tên gọi của nó, là một nghi lễ thẩm mỹ hóa
hành động hiến ḿnh cho hoàng đế – nhằm kêu gọi
một cú đảo chánh của phái hữu, Oe đă coi đây là
một hành động vô dụng, và một toan tính rẻ mạt
nhằm tạo ra một h́nh ảnh dởm, về nhà văn Nhật.
Vào năm 1972, một phần là muốn đưa ra một câu
trả lời cho vụ tự sát của Mishima, Oe đă viết "Cái
Ngày Mà Chính Anh Ta Sẽ Lau Giùm Những Giọt Nước
Mắt Cho Tôi". Đây là một bài văn mang tính châm
biếm, nhạo nhại, và có giọng điệu giận dữ.
Truyện ngắn này được coi là một trong những tác
phẩm khó khăn nhất của Oe, nó "giao động giữa sự
giận giữ trước Mishima, ước muốn một niềm tin
không bị một chút mây mù che phủ, ư nghĩa về tài
sản tinh thần và quốc gia, mà sự tự sát của
Mishima đă bi thảm hóa." Sau cùng, Oe nh́n thấy
ở cuộc đời và cái chết của Mishima, như là một
toan tính vụng về, một vụ sẩy thai, nhằm nhập
thân căn cước, cá tính Nhật, không phải cho
người Nhật, nhưng mà là vượt quá cả cơi thế. Sau
đó, trong lần tṛ chuyện với tiểu thuyết gia
Kazuo Ishiguro [gốc Nhật, viết văn bằng tiếng
Anh, tác giả cuốn Tàn Ngày, The Remains of the
day, đoạt giải The Booker của Anh], được đăng
trên tạp chí "Phố Lớn" (The Great Sreet), Oe nói,
"Toàn thể cuộc đời của Mishima - chắc chắn phải
kể cả cái chết bằng cách mổ bụng tự sát theo
nghi lễ seppuku – là một màn tŕnh diễn, được
thực hiện nhằm tŕnh bầy h́nh ảnh một người Nhật
mang tính điển h́nh, an archetypal Japanese. Hơn
thế nữa, màn tŕnh diễn theo kiểu như thế, không
phải tức thời bật ra từ cảm tính Nhật, mà là một
h́nh ảnh phiến diện, về một người Nhật được nh́n
từ một quan điểm Tây Phương, một thứ tuồng ảo
hóa, cuồng phóng."
Theo Oe, màn tự sát của Mishima là một h́nh thức
kỳ quặc của chủ nghĩa Đông Phương. Trong nghiên
cứu của Edward Said [tác giả cuốn Chủ Nghĩa Đông
Phương] về hiện tượng này, những tay phiêu lưu
Tây Phương thực hiện những chuyến đi về phương
đông, tới những xứ sở thuộc địa của họ, và trở
về với một h́nh ảnh mang tính văn chương của "Người
Phương Đông", thí dụ như người Ả Rập trong tác
phẩm The Seven Pillars of Wisdom, của T. E.
Lawrence, hay trong những hồi ức của Flaubert về
xứ Ai Cập. Trong trường hợp Mishima, thay v́ một
tay phiêu lưu Tây Phương, lại là một người Đông
Phương, đă vặn vẹo, làm méo mó h́nh ảnh của
chính ḿnh, trước lớp khán thính giả đông đảo
Tây Phương [đang] trầm trồ ngưỡng mộ. Khi tôi
[David Remnick] hỏi Oe về Mishima, ông giơ cả
hai tay lên trời, và cười lớn, như nhớ tới h́nh
ảnh một Mishima điên điên khùng khùng ở trong
ḷng độc giả Tây Phương. "Bạn biết không, tôi
rất mê cuốn tiểu thuyết vĩ đại của Ralph
Ellison, "Người Vô H́nh", và trường hợp ở trong
đó có thể áp dụng cho chúng tôi – chúng tôi,
những người Nhật. Khi tôi nói về những người
Nhật, như những kẻ vô h́nh, là theo nghĩa đó.
Bạn có thể nh́n thấy nền kỹ thuật của Nhật tại
Âu Châu, bạn biết quá nhiều về cái gọi là sức
mạnh kinh tế Nhật, bạn biết rất nhiều về nghi lễ
có tên là trà đạo của Nhật... nhưng tất cả những
cái đó chỉ là những h́nh ảnh, nói đúng hơn,
những cái mặt nạ, của sự khiêm tốn Nhật, sức
mạnh kỹ thuật Nhật. Mishima và Akio Morita, ông
chủ của Sony, có thể coi là như hai cực của cảm
thức về cái gọi là người Nhật. Đa số những h́nh
ảnh về nước Nhật đều là những mặt nạ. Chúng tôi
đi theo sau và bắt chước triết học và văn học
Tây Phương, nhưng ngay cả bây giờ, hơn một trăm
hai mươi lăm năm sau khi khởi đầu công cuộc hiện
đại lớn lao của chúng tôi, the Meiji
Restoration, Nhật Bản mở rộng cửa ra trước thế
giới, nhưng dưới lớp vỏ cứng, chúng tôi vẫn
không thể nào bị chọc thủng, trước con mắt những
người Âu Châu và người Mỹ. Bạn có thể hiểu những
nhà văn được giải Nobel khác, họ luôn luôn sẵn
sàng cho bạn t́m hiểu, ở Mỹ: Czeslaw Milosz,
Derek Walcott, Joseph Brodsky. Nhưng chẳng là
bao, nếu nói về con số người Tây Phương muốn t́m
hiểu những người làm ra tất cả xe Honda đó. Tôi
chẳng hiểu tại sao. Có lẽ chúng tôi chỉ bắt
chước người Tây Phương, hay cứ thế lầm ĺ, lặng
thinh, khi đối diện những dân tộc Âu Châu."
Trong khi Oe tạm để văn chương qua một bên, ông
tự hứa, sẽ sấn vào đám đông, bởi v́ theo ông,
những cuộc tranh luận nơi công cộng tại Nhật bây
giờ chỉ là một tṛ chơi cho qua thời gian, hoàn
toàn tự măn, và chẳng phản ảnh bất cứ điều ǵ
quan trọng, đấy là chưa nói đến cái mùi thèm
khát tiền bạc đến phát khùng toát ra từ đó.
Những ngày này, sự dấn thân chính trị tả phái
của Oe, đối với hầu hết những người Nhật tỏ ra
bực ḿnh khi phải nhắc tới, chỉ là hoài nhớ một
"diễm xưa" của thập niên 50 và 60. "Khi tôi bắt
đầu viết", Oe nói, "trước mắt tôi bầy ra cả một
thế hệ lớn lao những nhà tư tưởng độc lập – thế
hệ hậu chiến – nhưng ngày nay, chỉ là trống rỗng."
Những tiểu thuyết gia trẻ nổi tiếng nhất trong
giới độc giả b́nh dân, như Banana Yoshimoto và
Haruki Murakami, tỏ ra ít quan tâm tới những
chuyện dấn thân hay những rắc rối đa đoan mang
tính chính trị như thế hệ lớn tuổi hơn họ; những
cuốn tiểu thuyết của họ là nhằm có được cái vẻ
trống rỗng chói ḷa, của một tṛ chơi điện tử,
video game, và thường xuyên bán ra hàng chục
triệu ấn bản. Oe không có ư định vứt những nhà
văn kể trên vào thùng rác, nhưng quan tâm đến
chuyện này: những tác phẩm của họ phản ảnh và
nhằm biện minh cho tầng lớp dân chúng Nhật chẳng
thèm có một quan điểm chính trị, và hài ḷng
sống ở trong cái ao tù, một thứ tiềm-văn hóa
thời thiếu niên muộn (late adolescent) hoặc
hậu-thiếu niên (postadolescent).
Kệ mẹ mấy tay già nói ǵ th́ nói. "Tôi biết,
những người già hay phàn nàn, nhưng sự t́nh
không hẳn như vậy", Oe tiếp tục. "Hoàn cảnh ở
Nhật nghiêm trọng hơn nhiều. Những bè bạn của
tôi ở Mỹ lo lắng về không khí trí thức trong xứ
sở của chính họ, nhưng tôi nhận ra những con
người ở đó có nhiều người độc lập dám ăn to nói
lớn, và cũng đa đoan phức tạp hơn. Tại Nhật, văn
hóa của chúng tôi quá giản dị, hoặc được giản dị
hóa tới mức tối đa. Có một kiểu văn hóa được gọi
là văn hóa đại chúng, và cái thứ văn hóa này gần
như là tất cả, hoặc có tham vọng ôm lấy tất cả
mọi thứ có mùi văn hóa vào trong nó, một thứ văn
hóa "cho" và "phục vụ" quần chúng, cứ nói như
vậy. Rất hiếm, phải nói là chẳng thể nào bói ra
được một tiếng nói, từ những nhà trí thức, nhà
tư tưởng của đất nước chúng tôi. Chỉ c̣n mỗi một
thứ quan trọng, thảm thay, lại là hàng nhập: sự
quan trọng của những kiểu mẫu mới về suy tư,
triết học, từ Âu Châu; ngay cả cái món này, cũng
chỉ là nhai lại, chẳng có ǵ sâu sắc."
Như là một độc giả, và một tư tưởng gia, Oe đắm
ḿnh vào văn học Tây Phương, ngay vào lúc, là
một đứa con nít, ông bị hớp hồn bởi "Những cuộc
phiêu lưu của Huckleberry Finn", và "The
Wonderful Adventures of Nils", của Selma
Lagerlof [1858 – 1940, nữ văn sĩ người Thụy Điển,
Nobel văn chương 1909, cuốn này đă được dịch ra
tiếng Việt là "Những cuộc phiêu lưu trên lưng
ngỗng", trước 1975 tại Miền Nam, dịch giả Lư
Quốc Sỉnh]. Là một nhà văn, ông hy vọng có cho
ḿnh một tầng lớp độc giả người Nhật, tuy nhiên
cách viết của ông lại đẩy ông ra ngoài ḍng
chính – ḍng chính này bắt đầu với The Tale of
Genji, chảy qua Mishima, và tiểu thuyết gia Nhật
được Nobel văn chương trước ông, Yasunari
Kawabata, (Nobel văn chương 1968). Oe gọi cách
viết của ông là "thứ yếu, ngoại vi"
(peripheral). Như Michiko Wilson chỉ ra, những
câu văn của Oe th́ dài, gai góc; những đề tài
của ông, về bất thường, dị dạng, dục tính, và
bên lề... ở bên ngoài truyền thống Nhật Bản, vốn
trọng sự cân bằng, ḥa ḿnh vào với vũ trụ thiên
thiên, thí dụ vậy. Oe muốn, nghệ thuật Nhật sẽ
từ bỏ truyền thống văn phong hóa tính hàm hồ,
muốn hiểu ra th́ hiểu, tính rỗng tuếch của nó,
và cố gắng làm bật ra những bộ mặt thực không
măng mặt nạ của người Nhật. Tác phẩm của Oe có
tính thô cứng, khiến gần gần gụi với những nhà
văn như Mailer, Grass hay Roth hơn là những tiểu
thuyết gia Nhật khác. Nhà phê b́nh văn học quan
trọng nhất đối với Oe là Mikhail Bakhtin, một
học giả Nga về Rabelais và là lư thuyết gia về
chủ nghĩa hiện thực thô kệch (grotesque
realism). Có lẽ v́ vậy mà nhiều độc giả Tây
Phương đă nghĩ là họ bị lừa, khi đọc Oe, bởi v́
họ vẫn nghĩ là sẽ gặp được một nhà văn "thứ
thiệt" của Nhật, giống như khi đọc tác phẩm
Runaway Horses, của Mishima.
Thay v́ văn chương, Oe hy vọng, sẽ có một cái ǵ
đó đặc biệt của Nhật, từ chính trị. Trong nhiều
năm, ông đă kêu gọi một chính sách phi quân sự
cho Nhật. Ông lên tiếng chỉ trích nhà cầm quyền
đă sử dụng quân đội quốc pḥng, cho những nhiệm
vụ hải ngoại, và chỉ trích những chính quyền
nước ngoài đă gây sức ép để Tokyo phải làm như
vậy. "Người Nhật chọn lựa nguyên lư ḥa b́nh
vĩnh cửu như là căn bản của nền đạo đức đưa đến
sự tái sinh của chúng ta", ông tuyên bố, trong
diễn văn nhận Nobel văn chương. "Đi chệch nguyên
lư đó, sẽ là một hành động phản bội lại những
dân tộc Á Châu, và những nạn nhân của bom nguyên
tử ở Hiroshima và Nagasaki. Thật chẳng khó khăn
ǵ cho một nhà văn, thí dụ như tôi, khi phải
tưởng tượng, một sự phản bội như vậy sẽ đưa đến
những hậu quả như thế nào."
Tại Đại Sảnh, Hàn Lâm Viện Thụy Điển, trong bài
diễn văn "Nhật Bản, Những Người Hàm Hồ, và Chính
Tôi", Oe đă nói nhiều về một con người Nhật khó
mà bị chọc thủng dưới lớp mặt nạ, về ḍng văn
chương truyền thống được coi như ḍng chính, và
lên án nền chính trị ở đây; nhưng ông cũng xen
vào đó những vấn đề mang tính cá nhân, kể cả món
nợ của ông đối với gia đ́nh ḿnh. Đứng trước một
rừng máy ghi âm, thu h́nh của các phóng viên, và
thính giả, ông nhớ lại thời thơ ấu của ông, tại
một làng "ngoại vi, bên lề", tại một xứ sở "ngoại
vi, bên lề", và bằng cách nào ông đă t́m được
cơi văn của ḿnh, nhờ đọc "Những cuộc phiêu lưu
trên lưng ngỗng." Trong khi đọc câu chuyện thần
tiên, về một chú bé ngồi trên lưng ngỗng phiêu
lưu khắp vùng Sandinavia, có thể ông mơ hồ cảm
nhận hai giấc mơ, cũng thể gọi là hai điều tiên
tri, về đời ḿnh, tỏa ra từ những trang sách:
một ngày nào tôi sẽ hiểu được ngôn ngữ của những
loài chim, và một ngày nào khác nữa, tôi sẽ ngồi
trên lưng một chú ngỗng bay tới miền đất thần
tiên ở trong chuyện của Selma Lagerlof.
Và ông mỉm cười với thính giả, nói về đứa con
trai của ḿnh, và con đường những loài chim đă
chuyển những tiếng hót của chúng, thành tiếng
người, rồi thành âm nhạc. "Cháu đă v́ tôi mà
thực hiện một điều tiên tri kể trên: cháu đă
hiểu được ngôn ngữ của những loài chim." Và sau
đó, ông quay qua bà vợ, "Với tôi, Yukari là hiện
thân của Akka, con ngỗng đầu đàn của đàn ngỗng
trời của Nils". "Cùng với bà xă, chúng tôi đă
bay tới Stockholm và, điều tiên tri thứ nh́ cũng
đă được thực hiện."
Jennifer Tran *
Chú thích:
(1) Tôi" ở đây, là David Remnick, kư giả Mỹ. Đây
là chuyển ngữ bài viết của ông, Cha và Con, A
Father and His Son (Feb, 1995), trong "Vấn đề
Quỉ Ma và những chuyện thực khác, The Devil
Problem and other true stories", nhà xb Vintage,
Nữu Ước. Ông là kư giả của tờ Người Nữu Ước, và
đă từng được giải thưởng Pulitzer, với cuốn Ngôi
mộ của Lênin: Những ngày cuối cùng của Đế quốc
Xô viết.
______
*Jennifer Tran là một trong những bút hiệu
của nhà văn/ nhà phê b́nh Nguyễn Quốc Trụ .
a2a mời xem :
http://www.dailymotion.com/video/x7y3y9_hikari-oe_lifestyle
https://www.youtube.com/watch?v=l4e3pI8k6zY
https://www.youtube.com/watch?v=mSezGklc-I0
https://www.youtube.com/watch?v=sed73hdy_n4