Nguyễn Quốc Trụ

 Anne Frank, một ghi nhận

 


 

Trong một câu chuyện người viết đọc đă lâu, chẳng c̣n nhớ ǵ, ngoại trừ một vài chi tiết: một cháu nhỏ bị bệnh, phải nằm nhà thương một thời gian dài. Cháu năn nỉ xin được nằm ở một giường bên cạnh cửa sổ, nh́n xuống đại lộ của một thành phố lớn. Và cháu lấy những mảnh giấy nhỏ, làm những cánh diều thả xuống đường. Bay theo cùng với những cánh diều đó, là những ước mơ, những chuyện vụn vặt xẩy ra trong ngày, bên cạnh, chung quanh cháu… tận cùng bằng lời nhắn nhủ: hăy viết thư cho tôi nhé!
 

Thế rồi giường cháu tràn ngập những cánh diều boomerangs, cùng với những lời chúc tốt lành: hăy mau chóng khỏi bệnh, ra ngoài này chơi với chúng tôi…
 

Nhật kư của Anne Frank cũng là một trường hợp tương tự.
 

Mặc dù ngày càng quan tâm tới bè bạn, cô vẫn mê đọc sách. Vào lúc 12 cho tới khi 14 tuổi, một trong những tác giả cô bé thích là Cissy van Marxveldt, một nhà văn Ḥa Lan, đă viết nhiều cuốn sách cho lứa tuổi vị thành niên vào thập niên 1920. Cô mê nhất, Joop ter Heul, một cuốn tiểu thuyết-chuỗi (a serial novel) gồm bốn tập. Anne nhập vào Joop, nữ nhân vật chính với cái tên con trai nhưng dần dần trở thành một người đàn bà trẻ, theo ḍng chuyện. Joop giống như Anne, có nhiều bạn gái. Joop cũng có những bạn bè qua thư từ, như Anne. Nhưng khi gia đ́nh phải ẩn trốn trong cuộc chơi hú t́m với đám Nazi, cha cô cấm cô viết thư.
 

Cô viết về căn nhà phụ bí mật (the secret annex): Ở nhà, tôi không thể nghĩ, có một ngày, tôi phải dùng cầu tiểu làm nhà tắm, nhưng cũng chẳng tệ hại ǵ lắm đâu, bởi v́ có thể, một ngày nào tôi phải sống ở đó nữa… Thật là c̣n may mắn, đây là một thiên đàng so với cuộc sống của bao nhiêu người Do Thái khác không kịp trốn.
 

Một cô bé luôn luôn ṭ ṃ, mê bè bạn, mê đọc sách, mê phiêu lưu, phải từ giă thiên đường trẻ thơ; trong cái chuồng nhỏ bé mới mẻ là nơi ẩn trốn đó, mỗi ngày là một ngày tiếp theo. Thiếu khoảng không, nhưng lại quá dư thời giờ. Cô không thể la thét, hát hỏng, hay khóc lóc khi mà cô muốn, “chung quanh tôi là một trống trơn” (I am surrounded by too great a void).
 

Nhật kư là món đồ đầu tiên cô mang theo tới chỗ ẩn trốn. Như thể cô biết trước, nó sẽ đóng một vai tṛ quan trọng trong cuộc chơi ‘chết người’: đối đầu với cái ác. Tuy nhiên, phải hai tháng sau đó, cô mới bắt đầu viết một cách đều đặn. Và có ư định, mỗi ḍng mở ra như một “thư gửi bạn”: “Tôi chỉ mê được trao đổi với một người nào đó, và đó là điều tôi muốn làm, trong tương lai, với nhật kư của tôi."
 

Cô bé gần như viết nhật kư mỗi ngày. Cho những bè bạn tưởng tượng. Về những ǵ xẩy ra chung quanh cô, ở trong đầu cô, ở một chốn nhân gian bé tí đó. Với họ, cô có thể cười to, khóc lớn, quên nỗi trơ trọi. Tất cả những bạn gái tưởng tượng (cô không hề viết cho một bạn trai tưởng tượng), đều là từ cuốn truyện Joop ter Heul của Cissy van Marxveldt. Nhưng cô không viết thư cho nhân vật chính Joop – cô này cũng giữ một nhật kư – có thể v́ cô cảm thấy “cô bé đó” là một nguyên mẫu cho một loạt nhân vật.
 

Cuốn nhật kư, khi được xuất bản vào năm 1947 có tên là Het Achterhuis (Căn nhà Đằng Sau, The House Behind), và ấn bản tiếng Anh có tên là Anne Frank: Nhật kư của một Cô Gái Trẻ.
 

Cô bé tự coi ḿnh là một người lớn, hay ít ra cũng đủ trưởng thành, để có cùng một tiếng nói với những người khác, cùng “điều hành” cơi nhân gian nhỏ xíu đó. Nhưng trong cơi tưởng tượng, giữa những bạn bè tưởng tượng đă trrưởng thành kia, cô là một đứa bé, và rất “ưu tư” về chuyện được đối xử như là một đứa bé. Anne cảm thấy người lớn chung quanh cô không coi trọng những ư nghĩ của cô. Cô bé nghĩ, cô có cùng bổn phận, trách nhiệm như họ, nhưng không có cùng quyền hạn (rights). Chính những cảm nghĩ về sự bất b́nh đẳng đă làm cô có vấn đề với bà mẹ và những người quanh cô.
 

Sau đây là trích đoạn, từ một ghi nhận của Miep Giesi, người đă trông nom, che chở cho cả gia đ́nh Anne, trong những ngày ẩn trốn, và cũng là người đă phát giác ra tập nhật kư, khi thu dọn “thiên đàng”, sau khi họ đă bị bắt.
 

Trên năm mươi năm rồi, kể từ khi tập nhật kư được xuất bản, tôi cứ bị hỏi đi hỏi lại nhiều lần, tôi kiếm ở đâu ra can đảm giúp đỡ gia đ́nh Franks. Câu hỏi này, đôi lúc được hỏi với sự thán phục, đôi lúc, với nghi ngờ, nó luôn luôn làm tôi khó chịu. Vâng, lẽ dĩ nhiên, phải có can đảm mới làm một chuyện như thế, khi coi đó là bổn phận, của một con người. Vâng lẽ dĩ nhiên, người ta sinh ra đời là để sửa soạn làm những điều hy sinh như vậy. Điều đó là thực, trong rất nhiều hoàn cảnh của con người.
 

Nhưng rồi, tôi tự hỏi chính ḿnh, tại sao người ta lại hỏi một câu như thế? Tại sao có rất nhiều người ngần ngại khi phải giúp đỡ đồng loại?
 

Phải thật lâu tôi mới hiểu ra điều này.
 

Hầu hết trẻ con, được cha mẹ giảng dậy, từ khi c̣n nhỏ: “Nếu con tốt và biết nghe lời, sau này con sẽ được hạnh phúc”. “Phản đề” của triết lư đó, là: Bất cứ một con người nào gặp ‘trouble’ trong đời, kẻ đó chắc chắn đă cứng đầu, và đă làm nhiều ‘lỡ lầm’.
 

Tôi may mắn, được biết rất sớm sủa một điều là: người ta chẳng hề làm một điều ǵ xấu, và vẫn có thể gặp nhiều nỗi chuân chuyên trong đời. Tôi sinh ra tại Vienna, và được 5 tuổi, khi xẩy ra Cuộc Chiến Lớn I. Mẹ tôi rất hài ḷng về tôi. Khi 9 tuổi, tôi không khi nào được ăn no. Tôi vẫn c̣n nhớ rơ cái đói dầy ṿ tôi như thế nào. Và tôi cũng chẳng bao giờ quên được nỗi đau (the shock), khi cha mẹ tôi phải gửi tôi đi Hoà Lan, qua một cơ quan thiện nguyện giúp cho trẻ con khỏi chết đói. Cha mẹ tôi đâu có cách nào khác, nhưng măi sau này tôi mới hiểu được. Tôi lúc đó, chỉ c̣n da bọc xương, lại c̣n thêm bệnh phổi. Tôi đă làm điều ǵ không tốt, để phải chịu hậu quả như thế, đứa bé ở trong tôi khăng khăng tự hỏi?
 

Vậy là từ khi 11 tuổi tôi đă nhanh chóng hiểu ra rằng, con người có thể gặp khó khăn, dù chẳng có lỗi ǵ ráo. Tôi nh́n hoạn nạn của dân Do Thái, nh́n Ḷ Thiêu, từ kinh nghiệm trẻ thơ đó.
 

Ngay cả bây giờ, vẫn có những người trẻ tuổi nói với tôi rằng, họ không thể tin, rằng Hitler đă giết sáu triệu dân Do Thái mà “chẳng có lư do ǵ hết”. Và tôi kể cho những người trẻ tuổi đó, về Anne, và hỏi họ, cô gái trẻ đó có thể nhận ra rằng cô chưa hề làm một điều ǵ sai quấy, để phải chịu số phận thê thảm như vậy.
 

-Ô, lẽ dĩ nhiên. Anne Frank th́ thơ ngây vô tội (innocent).

 

- Cô thơ ngây vô tội đúng như sáu triệu người kia, tôi trả lời.
 

Melissa Muller, tác giả cuốn “Anne Frank, tiểu sử” (Anne Frank, the biography, nguyên bản tiếng Đức, 1998; bản dịch tiếng Anh của Rita và Robert Kimber, nhà xb Henry Holt and Company, NY; ấn bản Canada của nhà xb Fitzhenry & Whiteside Ltd), là một nữ kư giả hiện đang sống ở Munich và Vienna. Theo người điểm sách của tờ Time, Muller đă tôn trọng huyền thoại [về Anne], nhưng bà đă làm một điều tuy quá trễ cho nên thật cần phải làm: Bà cứu Anne Frank ra khỏi vai tṛ thần tượng, biểu tượng, và trả lại cho nhân loại một Anne Frank bằng xương bằng thịt. Miep Gies, vị phúc thần của Anne, đă nhân dịp xuất bản cuốn tiểu sử để đưa ra một ghi nhận về Anne, như trên. Bà nói thêm:
 

Tôi muốn nhân dịp này để làm sáng tỏ một điều vẫn thường được hiểu sai. Người ta thường nói Anne biểu tượng sáu triệu nạn nhân Ḷ Thiêu (Anne symbolizes the six millions victims of the Holocaust). Tôi nghĩ một phát biểu như vậy là không đúng (wrong). Cuộc đời và cái chết của Anne, là của riêng cô: một số mệnh cá nhân; một số phận cá nhân đă xẩy ra sáu triệu lần. Anne không thể, và không nên để cho cô đứng đại diện cho biết bao nhiêu cá nhân con người mà đám Nazi đă lấy đi mạng sống của họ. Mỗi nạn nhân có một chỗ đứng độc nhất của riêng họ ở trên thế giới, và trong trái tim của thân quyến và bạn bè của người đó.
 

Tôi rất đau buồn v́ không cứu được mạng sống của Anne. Nhưng tôi đă có thể giúp cô sống thêm được hai năm trời. Trong hai năm đó, cô viết tập nhật kư đem hy vọng cho những con người trên khắp thế giới, và kêu gọi sự hiểu biết và bao dung. Điều này làm cho tôi tin tưởng: rằng hành động th́ tốt hơn là bất động. Một toan tính [đưa đến hành động] có thể sai lầm (an attempt ‘can’ go wrong), nhưng khoanh tay không làm ǵ hết chắc chắn chỉ đưa đến thất bại.
 

Bà nhắc lại một ước mơ của Anne: “Bà biết từ lâu, mong ước lớn lao nhất của tôi là một ngày nào đó, trở thành một kư giả, và sau đó, một nhà văn nổi tiếng”.
 

***
 

Trong chương 9, và cũng là chương chót Những Di chúc bị Phản bội, Kundera bàn về một sự thô bạo trong thế giới văn chương: vấn đề cắt xén, vặn vẹo tác phẩm, ngay từ khi tác giả c̣n sống, và lẽ dĩ nhiên, càng trở nên thô bạo hơn, khi họ đă chết rồi.
 

Ông kể chuyện, vào cuối đời, Stravinsky quyết định tự tŕnh diễn, như một tay dương cầm, hay một nhạc trưởng, toàn bộ âm nhạc của ông. Và bị chế diễu thậm tệ: khi Stravinsky tŕnh diễn qua vai nhạc trưởng, ông ta khiếp đảm đến độ, mắt dán vào nốt nhạc, tuy đă thuộc ḷng. Và tính giờ. Mọi nguồn vui rời bỏ ông!
 

Kundera tự hỏi tại sao, và ông t́m được câu trả lời, khi nghiên cứu 146 bức thư, của Stravinsky gửi cho Ernest Ansermet (người chế diễu), khởi sự năm 1914: My dear Ansernet, My dear fellow, My dear friend, Very dear, My dear Ernest, rồi bất th́nh ĺnh: "Paris Oct 14, 1937, Rất vội, bạn thân của tôi. Tuyệt đối không có bất cứ một lư do ǵ cắt xén Chơi Bài (Jeu de cartes) khi tŕnh diễn... Cá nhân bạn cảm thấy một vài động tác hơi ngán ngẩm (boring). Về chuyện đó, tôi chịu thua. Nhưng tôi thật sự ngỡ ngàng khi bạn cố thuyết phục tôi về vụ cắt xén; tôi, người đă tŕnh diễn nó tại Venice, và cũng đă cho bạn biết về sự hứng khởi của khán thính giả... Tôi thực sự không tin khán thính giả của bạn kém thông minh, so với ở Venice. Nghĩ rằng bạn có thiện ư, khi muốn co dăn để công chúng dễ hiểu hơn: Bạn, người đă từng can đảm chơi một danh tác đầy rủi ro như Giao Hưởng Đàn Gió (Symphonies of Wind Instruments); khi khăng khăng cho rằng nó phải thành công, và công chúng thừa sức để thông cảm! Bởi vậy tôi không để cho bạn cắt xén "Jeu de cartes". Tôi nghĩ, tốt nhất đừng chơi nó ǵ hết, c̣n hơn là với sự dè dặt! Tôi không c̣n ǵ để thêm. Chấm hết!
 

Ngày 15, tháng Mười, bạn trả lời: "Tôi chỉ xin bạn tha lỗi cho tôi, về một cắt xén nho nhỏ..." "I am sorry, nhưng không cho phép bạn về bất cứ một cắt xén nào trong Jeu de cartes... Bạn ơi, đây đâu phải nhà của bạn."
 

Samuel Beckett có lẽ vô địch, trong nỗ lực bảo vệ nghệ phẩm: ông theo dơi từng chi tiết, ngay cả khi tập dượt, và nhiều lần nhẩy lên sàn tập, để tự tay điều khiển diễn viên. Rồi in cả một cuốn sách, những ghi chú tŕnh diễn Tàn Cuộc (Endgame). Bạn ông, và là nhà xuất bản đứng coi thiên hạ tŕnh diễn, nếu cần đưa ra ṭa, để bảo vệ tác phẩm, sau khi ông đă chết.
 

Kafka gửi bản thảo Hoá Thân tới một tờ báo. Ông chủ, nhà văn Robert Musil, bằng ḷng in, với điều kiện tác giả rút ngắn lại. (Buồn thật, hai thiên tài văn chương bàn chuyện in ấn, xuất bản tác phẩm văn học!). Trả lời của Kafka, cũng nguyên tắc, và cũng lạnh lùng như Stravinsky: Tôi chịu được chuyện bỏ vô thùng rác, nhưng không thể chịu nổi việc in, mà cắt xén, xẻ thịt nó! Ông không được may mắn như Stravinsky, hay Beckett. Và điều này một phần lớn, là do Max Brod, người theo truyền thuyết, v́ nhân loại, đă phản bội di chúc của Kafka. Theo Kundera, Max Brod tuy yêu bạn, cố gắng hiểu bạn, đưa bạn ra ánh sáng, tạo nên cả một môn học Kafkology, nhưng chính ông là người xa lạ nhất với nghệ thuật của Kafka.
 

Thật dễ dàng khi không vâng lời một người đă chết. Càng dễ dàng hơn, khi người chết là một nạn nhân của Ḷ Thiêu, một cô bé, lại là con gái của một ông bố: trường hợp Anne Frank.
 

Nếu Anne Frank không mất tại trại tập trung vào năm 1945, cô ăn mừng lễ sinh nhật 68 tuổi vào tháng Sáu vừa qua (1996). Và nếu cô không giữ tập nhật kư khác thường, qua đó, chúng ta có thể coi cô là một trong những nhà văn nổi tiếng của thế kỷ - cho dù vậy, số phận của cô cũng không quá sức bi đát, như là bây giờ, sau những khám phá mới nhất về cô.
 

Cô sinh ra để là một nhà văn. Vào năm 13 tuổi, cô đă cảm thấy quyền năng này; tới 15, cô điều khiển được nó. Nếu cô được phép sống, thật dễ dàng khi tưởng tượng, biết bao nhiêu tiểu thuyết, khảo luận, từ cái nguồn giầu sang, từ ng̣i bút lưu loát, chín mùi chữ nghĩa đó. Người ta cũng thấy được những tác phẩm chẳng bao giờ có được đó, sẽ gần gụi với Nadine Gordimer, Nobel văn chương, hơn là Francois Sagan. Cô bé la lên, vào mùa xuân năm 1944: "Ta muốn tiếp tục sống, ngay cả sau cái chết của ta!" (I want to go on living even after my death!)
 

Ở đây không phải là t́nh trạng hưng phấn thái quá của tuổi trẻ. Bằng trực giác cô đă nhận ra, sự lớn lao của nghệ thuật nghĩa là ǵ. Và cũng đă nhận ra sức mạnh văn chương nằm bên dưới bàn tay của cô, trong những trang nhật kư: một ghi nhận văn học về những cuộc sống hăi hùng trong hiểm họa thường nhật; một tài liệu nóng bỏng nhắm thẳng tới tương lai. Vào những tháng cuối cùng, cô miệt mài rũa gọt, thêm thắt, cắt xén một số đoạn, với hy vọng in nó sau chiến tranh. Cô gọi bản thảo của cô là Het Achterhuis, tiếng Đức có nghĩa là "căn nhà phía sau", nhưng thường được dịch là "căn nhà phụ bí mật", và không đúng như ư của cô, qua tác phẩm. Nó liên can đến lịch sử, tới thực tại, tới sự thực chết người. "Khi tôi viết", cô tâm sự, "tôi có thể rũ sạch mọi lo toan. Sự phiền muộn biến mất, tinh anh tôi sống lại!" Nhưng cô không thể rũ bỏ sự tù tội, sự huỷ diệt, của ḿnh.
 

Anne Frank bị bắt và đưa vào trại tập trung cùng với chị và mẹ như hàng triệu con người. Tất cả bị huỷ diệt, qua một chương tŕnh đă được tính toán để bảo đảm sự thoái hóa độc ác nhất, mới mẻ nhất, quỷ ma nhất của con người. Cô thuộc trong số được chỉ định để bị huỷ diệt, xóa sạch khỏi cuộc đời, không để lại mộ chí, không một kư hiệu, không một dấu vết, bất kể loại ǵ. Lỗi của cô - tội ác của cô, là người Do thái, và như vậy cô bị xếp vào trong những kẻ không có quyền được hiện hữu, không c̣n là một vấn đề người, không được như một giống dân hạ cấp, ngay cả làm nô lệ cũng không luôn. Thoát bị đưa vô pḥng hơi ngạt, cô chết v́ bệnh ban đỏ (bệnh chấy rận), một tháng trước khi giải phóng.
 

Nhật kư, cho dù thế nào cũng không thể coi là câu chuyện của Anne Frank. Không nên gọi, một câu chuyện là một câu chuyện, nếu phần cuối bị mất. Và bởi v́ phần cuối bị mất cho nên câu chuyện của Anne Frank trong ṿng 50 năm, kể từ khi "Nhật Kư của một Cô Gái Trẻ" lần đầu tiên được in ra, đă bị vặn vẹo, cắt xén, chuyển hoá, dịch thuật, gia giảm, giả mạo, trẻ con hóa, ngây thơ hóa, Mỹ hoá, đồng nhất hóa, cảm tính hoá... và sự thực, đă bị chối bỏ, một cách thật thô lỗ. Trong số những người làm giả gồm có những nhà bi kịch, những ông giám đốc, những nhà dịch thuật, ông bố của Anne Frank, và ngay cả công chúng, kể luôn cả những độc giả, những khán giả phim ảnh, kịch nghệ, trên toàn cơi địa cầu. Một tác-phẩm-kể-sự-thực thật sâu xa đă biến thành một dụng cụ để nói lên một phần sự thực, một phản sự thực. Gần như mọi bàn tay đụng vào tập nhật kư, với một thiện ư in nó ra, đều đă góp phần làm chuyện bậy, đảo ngược lịch sử.
 

Nhật kư được coi như một tài liệu về Ḷ Thiêu. Điều quan trọng cần nói, là nó không phải như vậy. Gần như bản in nào cũng choàng cho nó những ṿng hoa, đại khái "ca khúc của đời sống", "sự vui thích buốt nhói ở nơi tinh thần vô tận của con người". Có một sự chế diễu, tṛ hề ở đây. Một ca khúc cho đời? Nhật kư chưa hoàn tất, hoặc đă được hoàn tất bởi những nơi chốn khủng khiếp: Westerbork, địa ngục chuyển tiếp ở Ḥa Lan, nơi những người Do thái Ḥa-lan bị tống xuất từ đó; Auschwitz; hay bởi những ngọn gió tàn khốc của Bergen-Belsen. Chính tại đây, không phải tại "căn nhà phụ bí mật", những tội ác mà chúng ta gọi là Holocaust đă xẩy ra. Ghi nhận của chúng ta là những cột con số, những danh sách tỉ mỉ những chuyến tống xuất trong những ḍng chữ viết tay của những thủ thư đẹp trai; những cuốn sách chuyển hàng. Có thể Anne Frank đă được chuyển tới Auschwitz vào đêm Sept 6, 1944, trong chuyến hàng một ngàn mười chín "sucke" (mẩu). Trong đêm đó 549 người được đưa vào pḥng hơi, có một người trong nhóm Frank, và tất cả trẻ em dưới 15. Anne lúc đó, 15, thoát, có lẽ để lao động. Từ 20 đến 28 tháng Mười, bị đưa vào pḥng hơi ngạt hơn 6 ngàn người, chỉ trong ṿng hai giờ, khi họ mới tới. Nhưng lực lượng Xô-viết đang hướng về Auschwitz, và vào tháng 11, đă có lệnh giấu diếm mọi chứng cớ về pḥng ngạt, và phá huỷ ḷ thiêu. Cả chục ngàn tù nhân bị tống ra ngoài trời, trong chuyến đi tử thần. Nhiều người bị bắn. Trong một chuyến di tản vào 28 tháng Mười, hoặc 2 tháng 11, Anne được chuyển đi Bergen-Belsen, chết một hay hai ngày sau đó, vỡ tim, trơ xương, trần trụi dưới một đống rẻ rách.

 

Đến với nhật kư mà bỏ qua những Đêm, của Elie Wiesel, hay Những Kẻ Chết ĐuốiNhững Người Được Cứu Vớt, của Primo Levi (chỉ nhắc tới hai chứng nhân), hay những cột con số, những chuyến hàng, những thuật ngữ như "mẩu"... th́ đúng là tự cho phép ḿnh được quyền ngây thơ một cách xấu xa, không thể tin được! Những ngợi ca theo kiểu "bản chúc thư hoài hoài về tính cao cả không thể bị huỷ diệt của tinh thần nhân loại", "một nguồn không bao giờ cạn của can đảm và hứng khởi"... sự thực chỉ là những tṛ ru ngủ. Sự thành công, chiến thắng, của Bergen-Belsen, chính là nó đă thổi sạch, cái gọi là khả tính can đảm, nó cho thấy sự huỷ diệt dễ dàng của tinh thần nhân loại, và đây là bản di chúc lâu dài của nó.
 

"Hier ist kein Warum", một lính gác ở Auschwitz đă cảnh cáo: ở đây không có "tại sao", không câu hỏi, không câu trả lời, chỉ là một mầu u tối của không-lư lẽ (unreason). Câu chuyện của Anne Frank, được kể lại, rất thực, là không cứu chuộc, không thể cứu chuộc. Và đó là thông điệp của Anne Frank.

 

NQT

 

 

 

                    Ballad of Anne Frank - Johnny McEvoy


 

 

trang nguyễn quốc trụ

art2all.net