Nguyễn Quốc Trụ
CƯỜI VỠ ĐÊM ĐEN
Style, Isaak Babel claimed, is "an army
of words, an army in which all types of weapon are on the move. No iron
spike can pierce the human heart as icily as a full stop deployed at the
right moment".
Cuối thế kỷ, chúng ta hăy
thử tưởng tượng một chuyến tháp tùng Thánh Peter, giả dụ như ông
thánh này kiếm được chiếc ch́a khóa nhà tù Lubyanka, và thả hết
những nhà văn bị giết hại ở đây: bóng dáng oan hồn độc nhất vẫn c̣n
giữ được nụ cười ở trên môi, hẳn là Isaac Emmanuilovich Babel. Như
bà vợ thứ nh́ của ông, Antonina Piozhkova, cho chúng ta biết, tiếng
cười rất quan trọng đối với Babel.
Biết cười, chịu được sự bỡn cợt là một đ̣i hỏi, khi đọc văn chương
Nga, nhưng nó c̣n một sắc thái văn hóa vốn nín lại những dấu hiệu mở
ra niềm hoan lạc. Có tất cả, thần thái nghiêm nghị, niềm âu lo, nỗi
đau khổ chịu đựng, nhưng thiếu hẳn sự rạng rỡ. Ngay Gogol cũng gạt
mọi nét hoan hỉ, trong những bức chân dung. Nabokov h́nh như chỉ
được hưởng "tiếng cười vui", khi đă vượt biên giới tới Berlin,
Paris, và Ithaca.
Piozhkova giấu giếm viết về chồng từ bao thập kỷ trước, nhưng hồi kư
chỉ được in ra đầy đủ tại Moscow, vào năm 1989, cao điểm mùa
glasnost. Bản tiếng Anh, At His Side: The Last Years of Isaac Babel,
(nhà xb Steerforth Press, 1997), cho thấy một Babel với tiếng cười
vui, ngay những ngày đen tối. Một trong những bức h́nh, chụp vào năm
1938: một ông Phật Do-thái dưới cặp mắt kính. Giấu kín đằng sau nụ
cười, chúng ta hăy thử tưởng tượng, biết bao tṛ khôi hài, bỡn cợt,
và định mệnh cay đắng.
Tháng Năm 1939, Babel bị bắt, theo lệnh của trùm mật vụ Beria. Ông
có biết, và nghĩ, sau cùng chuyện phải tới. Bạn bè thường b́nh phẩm
thái độ ngây thơ về chính trị của ông. Không phải vậy. Ngay đầu
những năm 1920, là một phóng viên chiến tranh bên cạnh Bolshevik,
trong cuộc nội chiến, trong nhật kư, ông đă minh bạch, về một điều:
cuộc cách mạng đă bị chà đạp, do những tội ác được thực hiện, nhân
danh nó: "Họ đều nói, họ chiến đấu v́ công lư, nhưng toàn một lũ ăn
cướp, giết người", Babel viết, trong khi rong ruổi cùng đội kỵ binh
của Semyon Budyonny qua những thành phố hoang tàn, những làng mạc
Do-thái vùng đông Ba-lan, tây Ukraine - Dubno, Chelm, Belz, Zamosc -
cảnh làm cỏ người Do-thái, và hai mươi năm sau, cảnh nhổ sạch cỏ Do-thái.
Ít nhà văn thời kỳ đầu Xô-viết được tận mắt chứng kiến sự độc ác đó.
Đằng sau nụ cười của ông Phật Do-thái là nỗi đau không đáy, cùng khả
năng thấu thị: nh́n, rồi tiên đoán. (Phải chăng đây là thế kỷ của
chúng ta, thế kỷ người Do- thái bị huỷ diệt, ông tự hỏi, trong nhật
kư, năm 1920). Bởi vậy, không có chuyện ngây thơ. Vào năm 1936, khi
Gorky, bạn, và cũng là người che chở, chết, Babel nói với vợ: Bây
giờ, tụi nó sẽ không cho tôi sống đâu.
Babel sở trường về đoản văn, viết với một nỗi ám ảnh nóng bỏng, đến
nỗi, khi câu chuyện được hoàn thành, nó đă trải qua, chừng trên chục
lần, viết đi viết lại. Có khi cả trăm, những lần ông cố gắng đẩy câu
chuyện vào hồi ức. "Viết thật khó khăn đối với tôi", có lần ông nói
với bạn, Konstantin Paustovsky. "Đâu đó, h́nh như có lần tôi viết
rằng, nhờ căn bệnh suyễn mà tôi đă nhanh chóng già dặn, nhưng không
giản dị như vậy. Khi viết một cái truyện ngắn nhất, tôi vẫn phải làm
việc như thể phải đào lên ngọn núi Everest, chỉ một ḿnh tôi thôi,
với cây cuốc và cái xẻng... Tim tôi như bị thắt nghẹn, mỗi lần không
thể viết xong một câu văn". Thời gian hoàn thành Những câu chuyện
về Odessa và tác phẩm lớn lao nhất của ông, Kỵ binh Đỏ,
vào đầu thập niên 1920, hàng tuần, hàng tháng, ông đă phải "đánh vật"
với năm trăm hoặc một ngàn từ, cho mỗi câu chuyện. Babel nghĩ, nó
phải chính xác như một thông báo hành quân, hay tờ ngân phiếu, "chính
xác như thước đo loga, và tự nhiên như mùi rau th́a là". Phản ứng
của giới phê b́nh văn học Nga đối với Kỵ binh Đỏ - h́nh ảnh
sống động, ngôn từ chính xác - sôi nổi chẳng kém chi đối với những
truyện ngắn đầu tay của Hemingway, ở Mỹ. Sau khi đọc những bản dịch
đầu tiên qua Anh ngữ, vào cuối những năm 20, Hemingway đă nói với
Ilya Ehrenburg, "Tôi nhận thấy văn phong của Babel súc tích hơn của
tôi. Nó chỉ cho thấy, điều có thể làm được, đă được làm. Ngay cả khi
bạn đă vắt hết nước, vẫn c̣n những cục đặc quánh ở trong đó." Để thư
giăn, Babel tự chiều ḿnh, bằng "tiếng cười vui", và những lần tụ
tập bạn bè. Không ǵ làm ông hạnh phúc hơn, những lần thăm viếng bạn,
nhà làm phim nổi tiếng, Sergei Eisenstein.
Babel sinh năm 1894 tại cảng Odessa, trên bờ Hắc hải. Không chỉ là
một trung tâm trường ốc, thương mại, và c̣n của băng đảng Do-thái.
Điều sau cùng làm Babel thích thú, và nó không có nghĩa là những con
người của Babel tránh khỏi chủ nghĩa bài Do-thái. Họ đă là nạn nhân,
vào cuối thế kỷ 19, và Babel không thể nào quên được những vụ giết
hại cư dân Do-thái tại Odessa, vào năm 1905.
Khi c̣n là một đứa trẻ, Babel học tiếng Talmud, Yddish, Hebrew, và
Pháp ngữ. Cậu chỉ thất bại, khi muốn trở thành một tay vĩ cầm; và
đành nhường âm nhạc cho những tài năng đương thời như Jascha
Heifetz. Bởi v́ quota của Nga hoàng, vốn hạn chế sinh viên Do- thái,
Babel không thể len chân vào nổi đại học Odessa, và học tại Kev
Institude of Financial and Business Studies, từ 1911 tới 1915. Sau
đó ông dời tới St. Petersburg, và sống một cuộc đời "nửa dưới hầm".
Do Thái không được phép sống bên ngoài khu Pale of Settlement, nếu
không có giấy tờ cư trú, Babel phải ngủ basements hoặc nhà bạn bè,
để tránh cảnh sát. Hai mươi tuổi vào năm 1916, ông in những truyện
ngắn đầu tay, trên tờ báo của Gorky, Letopis, và viết cho báo chống-Bolshevik,
cũng của Gorky, Novaya Zhizn (Đời Mới), nhưng báo này sau bị Lênin
ra lệnh đóng cửa.
Như hầu hết người Do-thái, Babel thoạt kỳ thuỷ hân hoan đón nhận
cuộc cách mạng, tin tưởng rằng những người Bolshevik sẽ "cải thiện"
số phần của họ, vốn đă bị đối xử tàn tệ bởi Nga hoàng. Tuy nhiên,
trong những bài viết trên tờ Đời Mới, ông đă thường xuyên chỉ trích
họ, và những tổn thất do cách mạng gây ra. Khi Đời Mới bị đóng cửa
tiệm vào năm 1918, Gorky khuyên đệ tử hăy làm dơ tay của ḿnh, bằng
cuộc sống, hăy "đi thực tế", ở những vùng tỉnh nhỏ, thâu lượm kinh
nghiệm làm chất liệu cho sáng tác. Babel làm theo. Trước tiên, ông
phục vụ tại tiền phương Romania, theo đoàn thu gom lúa ḿ chống đói
tại những thành phố dọc sông Volga, và rồi, năm 1920, ông nhập vào
đoàn quân Cô-zắc theo-Bolshevik của Budyonny, với tư cách là phóng
viên chiến trường, viết bài cho ROSTA, thông tấn xă nhà nước, và cho
nhật báo quân đội, Kỵ binh Đỏ. Cuộc xung đột Xô viết-Ba lan ba năm
đầu là cuộc nội chiến mở rộng, và sau đó, là do những thái độ thù
nghịch giữa hai quốc gia, vốn bắt rễ từ năm 1772, khi Ba-lan bị xâu
xé, giữa Nga, Phổ, và đế quốc Hung-Áo. Sau Đệ Nhất Thế Chiến, và
cùng với sự vươn lên của một nước Ba-lan độc lập, chính quyền quốc
gia Warsaw, cầm đầu bởi Jozef Pilsudski, đă t́m cách mở rộng bờ cơi
về phía đông tới Ukraine, toan tính chuyện cứu vớt nhân loại khỏi
chủ nghĩa CS. Lênin, vốn tin tưởng vào việc xuất cảng cách mạng vô
sản tới Âu châu, đă biến vùng tây Ukraine, và đông Ba-lan thành
chiến trường đầu tiên, hy vọng tạo nên một cuộc nổi dậy tại Ba-lan,
và sau cùng là ở Đức.
Hầu hết dân Cô-zắc theo Bạch vệ, nhưng Budyonni, dưới quyền chỉ huy
của chính uỷ mặt trận phía nam, Josef Stalin, là một Bolshevik chính
cống. Ư tưởng làm một phóng viên Do-thái cưỡi ngựa rong ruổi cùng
quân Cô-zắc cũng là một trong những tiếng cười vui của Babel. Ngày
đầu tiên ông trèo lên lưng ngựa là ngày thứ nhất cùng với đơn vị Đệ
nhất Kỵ binh. Chẳng bao lâu, ông nhận ra, nếu Budyonni là một
Bolshevik, lính của ông ta th́ không. Nói chung, họ đều thất học, và
chẳng thèm để ư đến ư thức hệ, hay cách mạng CS. Họ hăm hiếp, cướp
phá, giết tù binh, và trên hết, họ chỉ khoái ăn trộm. Cho dù Babel,
trong bài viết hay trong nhật kư đă tỏ ra xúc động về cảnh "hoang sơ"
của một đoàn quân Cô-zắc cưỡi ngựa suốt vùng Galicia, cuối cùng ông
phải phán đoán: đây là một đám người vô đạo đức, tàn nhẫn, và chống
Do-thái đến cùng cực. "Quân đội của chúng ta xuất quân là để nhét
đầy túi, đây không phải là một cuộc cách mạng, chỉ là sự nổi loạn
của những người Cô-zắc hung bạo."
Kinh nghiệm phóng viên chiến trường của Babel chấm dứt khi đội Đệ
nhất Kỵ binh phải rút lui khỏi Ba-lan. Nga và Ba-lan đi đến một thỏa
ước về đất đai, được duy tŕ đến khi Hitler lên cầm quyền. Cuối năm
1920, Babel trở lại Odessa, làm xuất bản một thời gian rồi sống tại
vùng Caucasus với vợ là Yevgenia Gronfein, con một chủ xưởng giầu có
tại Odessa đă mất hết tài sản v́ cách mạng. Thời gian 1921-1925, ông
bắt đầu xuất bản bốn truyện ngắn, về thời thơ ấu tại Odessa, và 35
truyện, sau gom thành Kỵ Binh Đỏ. "Tưởng tượng của tôi kể như không
có", ông nói với Paustovsky. "Tôi rất nghiêm trang về chuyện này.
Tôi không biết bịa đặt. Tôi phải biết mọi chuyện đến tận đáy của nó,
nếu không tôi không thể viết bất cứ điều ǵ. Chân thực,
authenticity, là phương châm của tôi...". Chuyện của ông là những ǵ
được thu nhỏ lại, những mẩu giai thoại, những chân dung; ḍng kể
luôn luôn tận cùng bằng một pha hoặc ghê rợn, hoặc khôi hài. Một anh
nhà quê viết thư cho mẹ; không một chút xúc động, ông con tả cảnh
mấy anh em đă thịt ông bố như thế nào. Một anh chàng trí thức Do-thái,
v́ muốn được sự kính nể giữa đám đồng chí Cô-zắc, đă ăn trộm một con
ngỗng của dân, và giết nó, sau cùng ngủ lăn lộn với 6 tên bạn, chân
gác lên nhau, dưới mái nhà thủng lỗ để cho những ngôi sao lọt vào;
nằm mơ, thấy những người đàn bà trong giấc mơ, và chỉ trái tim, một
khối đỏ vốn đă thành sẹo với những vụ sát nhân, chỉ có nó bật ra
niềm hân hoan tràn đầy". Trong một chuyện khác, anh ta trải qua lễ
Shabat với một gia đ́nh Hasidic, rồi trở về viết truyền đơn CS.
Babel, qua nhân vật kể trong truyện, luôn mâu thuẫn về bản thân,
chẳng bao giờ chắc chắn, anh ta bà con với người Do-thái, hay với
những đồng chí trên lưng ngựa.
Bà vợ thứ nhất rời bỏ Babel, rời bỏ Nga khi ông vừa kết thúc
Kỵ binh
Đỏ. Bà tuyên bố, như một nghệ sĩ, bà bị nghẹt thở dưới chế độ mới.
Nhưng bà cũng quá suy sụp, v́ chồng bà có một người đàn bà khác, một
nữ nghệ sĩ đẹp. Không phải một mà nhiều người, tuy nhiên, Babel có
thể v́ cách xa nên mới hiểu được ḷng vợ, và đă ba lần đến Brussels,
kết quả là họ có được một cô con gái, Nathalie. Cô sống nhiều năm
gần Washington. Trong bài giới thiệu những lá thư mà cô c̣n giữ được,
in thành tập mang tựa đề Những năm cô đơn, cô viết: "Tôi lớn lên với
niềm mong ước, một ngày nào, một nơi chốn nào, cửa bỗng mở, và cha
tôi bước vô... Cha con nhận ra nhau, và h́nh như cũng không có sự
ngạc nhiên. Chẳng để cha tôi có dịp thở, tôi sẽ nói, nào, cuối cùng
cha con ta cũng gặp nhau. Gia đ́nh đă quá lâu chẳng biết ǵ về cha.
Cha để lại phía sau quá nhiều yêu thương và tận tuỵ, nhưng cũng quá
ít ỏi, những sự kiện. Cha hăy ngồi xuống và kể hết cho gia đ́nh nghe."
Những băn khoăn của cô con gái cũng là của những người ái mộ ông, và
của giới phê b́nh: Ông là một Do-thái tốt, hay xấu? Một người CS tự
trái tim hay giản dị là một dân chủ tự bản chất? Ông có chút cảm
t́nh cá nhân nào dành cho Stalin, như một thứ quỷ mê hoặc, hay ông
sau cùng đă bị cuốn hút bởi sự ṭ ṃ tai hại của người nghệ sĩ?
Nhưng có một điều chắc chắn, ông không chịu rời bỏ Nga. Ông muốn
nh́n cuộc sống cho đến phút chót, dù với tư cách là một nhà văn có
đặc quyền, ông có thể bỏ đi nước ngoài; dù ông biết rơ t́nh trạng
văn học tại xứ sở của ông. Ông tin tưởng rằng, một nhà văn sẽ tự băm
vằm chính anh ta cũng như những ǵ anh ta viết ra được, một khi rời
bỏ quê hương. Nhưng trên hết, những điều làm người khác kinh tởm, sợ
sệt lại dấy lên ở nơi ông ư thức về bổn phận, và một điều ǵ giống
như định mệnh, với một chút mùi vị anh hùng. Điều ông lo nhất, không
phải chuyện bị bắt, bị tra tấn và sau đó, bị xử tử, mà là số phận
tác phẩm của ông. Một lần ở Paris, khi một người bạn hỏi: "Anh có
nghĩ rằng, ở Nga, rất nhiều tác phẩm có giá trị không được xuất bản
v́ điều kiện chính trị?" Chắc chắn như vậy. Những tác phẩm đó hiện ở
trong tay mật vụ GPU. "Ông nói sao?" Bất cứ một người có ăn học bị
bắt là anh ta được trao cho mẩu giấy và cây viết. "Hăy viết đi".
Những điều ngạc nhiên về nhà tù Loubianka: những khám phá mới mẻ từ
những hồ sơ văn học của KGB, tác giả Vitaly Shentalinsky, (bản tiếng
Pháp của nhà xb Laffont, 1997), cho thấy một câu chuyện "thú vị":
Vào đêm Giáng sinh 1918, trong lúc Lênin đang ngồi xe Rolls-Royce,
chạy trong vùng ngoại vi Moscow, ông bị bốn kẻ lạ mặt kéo ra khỏi xe,
dí súng vào đầu, và lục soát tiền bạc. "Tụi mi có biết ta là ai
không?" "Tao đếch cần biết", tên cầm đầu, Jacov Kochelko, c̣n có
biệt danh là The Wallet (Cái Bóp), trả lời. "Tao là ông vua của
Moscow". Lấy hết giấy tờ, cây súng lục browning của Lênin, ông vua
và đồng bọn nhẩy lên xe phóng đi, vị lănh tụ cách mạng, cận vệ và
viên tài xế đành lặn lội giữa trời tuyết đến trung tâm đảng bộ, kiếm
xe về Kremlin. Phải mất 6 tháng mật vụ Xô-viết mới hạ được The
Wallet. Trong túi ông vua có một lá thư t́nh, mớ giấy bạc lủng lỗ
đạn, và khẩu súng của Lênin. Tay mật vụ hạ sát The Wallet tính xào
nấu thành quả của ḿnh thành một câu chuyện trinh thám cho một tờ
báo địa phương, nhưng lại không hài ḷng với kết quả, và cuối cùng
đă giao hết cho Babel, để ông viết lại. Trao đúng thầy, bởi v́ Babel
vốn có tài trong vụ sử dụng tiếng lóng của dân tội phạm. Bọn cướp,
The Bandits, được hoàn thành, nhưng số phận cũng như tác giả của nó,
nằm trong hồ sơ nhà tù Lubyanka, cho đến khi được Shentalinsky lôi
ra ánh sáng. Tác giả cũng cho thấy, vài ông nhà văn-nạn nhân lại
thích chơi với trùm mật vụ-đao phủ. Babel quen hai ông trùm dưới
thời Stalin, ngoài ra nghe nói, c̣n "có liên hệ mật thiết" với vợ
của một ông, Genrikh Yagoda, khách thường xuyên tại villa của Gorky.
Babel bị bắt ngày 15 tháng Năm, 1939. Mật vụ lục soát và khui ra một
đống bản thảo khổng lồ đói với một nhà văn nổi tiếng v́ sự im lặng:
15 tập bản thảo, 18 sổ ghi và phụ đính, 517 lá thư... Babel biết rơ
số phận của ông, nhưng cố cứu mớ bản thảo, trong có nhiều cuốn đă
được hoàn tất, và đă từng năn nỉ đám mật vụ, trao cho ông để ông "sắp
xếp lại", và "hứa hẹn" sẽ viết một cuốn tiểu thuyết ghi lại con
đường "sa đọa" vào những tội ác chống lại Xô-viết. "Cuốn sách đang
nóng bỏng trong đầu tôi. Tôi cảm thấy đầy hứng khởi và sức mạnh, để
viết nó ra...". Mấy ông chủ ngục làm sao tin nổi chuyện đó, Babel
th́ khỏi nói. Mớ bản thảo mất tiêu luôn, Shentalinsky tin rằng chúng
đă bị tiêu huỷ.
Cuộc hỏi cung thứ nhất kéo dài ba ngày, đúng "tinh thần Kafka". Mọi
tội đều có sẵn, cấm hỏi. Anh bị bắt v́ những hành động chống Xô-viết.
Nhận tội hay không? Không, tôi không nhận. Làm sao anh vô tội, một
khi bị bắt? Mấy năm gần đây, tôi không viết được ǵ hết. Như vậy có
thể bị coi là phá hoại, không muốn viết dưới điều kiện do Xô-viết ấn
định. Anh muốn nói, anh bị bắt v́ anh là nhà văn? Các ông nói đúng,
lẽ dĩ nhiên. Tác giả không thể bị bắt, v́ không c̣n viết được. Vậy
th́ lư do thực sự của việc bắt anh là ǵ? Tôi thường ra nước ngoài,
và thường giao du với những phần tử Trotskists... Hăy giải thích tại
sao một nhà văn Xô-viết như anh lại để kẻ thù ở hải ngoại lôi cuốn...
Anh phải thú nhận tội ác, hành động phản quốc... Đừng đợi chúng tôi
bắt buộc anh. Hăy thú tội đi.
Cuối cùng, Babel thừa nhận đủ những thứ tội, dù vô lư cỡ nào. Ông
nói với họ, ông là điệp viên Pháp, và ông đă từng chuyển cho A.
Malraux những tài liệu về trại tập trung và mật vụ. Ông đă từng nhỏ
to với đám nghệ sĩ, và đă từng cắt nghĩa nguyên nhân tự tử của
Maiakovsky là do không thể nào viết, dưới điều kiện Xô-viết; đă từng
liên can tới âm mưu ám sát Staline, Chính Uỷ Quốc Pḥng. Thê thảm
nhất, nhục nhă nhất, ông đă tố cáo một số bạn bè như Eisenstein,
Mikhoels, Yuri Olesha...
Vsevolod Meyerhold, đạo diễn sân khấu, bạn của Babel, đă từng viết
thư cho bạn, nhà ngoại giao Molotov: "Nếu anh không viết, họ sẽ đánh
đập anh, sao cho mỗi thứ rời một nơi, trừ cái đầu và hai tay là họ
không đụng tới".
Phiên ṭa Babel diễn ra tại một trong những văn pḥng của Beria. Chỉ
kéo dài 20 phút. Những lời nói chót của ông: Tôi vô tội. Tôi không
hề là một điệp viên. Không bao giờ cho phép ḿnh chống lại Xô-viết.
Tôi tự buộc tôi một cách sai lạc. Bị bắt buộc phải tố cáo bậy bạ
chống lại chính tôi và bạn bè... Tôi chỉ xin một điều: hăy cho tôi
hoàn thành tác phẩm của tôi...".
Ông bị bắn vào lúc một giờ rưỡi, sáng hôm sau. Bà vợ chỉ biết vào
năm 1954. Trong bao năm trời, bà đă năn nỉ xin được biết tin tức về
chồng, và chỉ nhận được những lời hứa hẹn. Bà vẫn nuôi hy vọng chồng
ở một nhà tù nào đó, tại Siberia, hay Kolyma, và sẽ có một ngày, ông
trở về. Năm 1947, bà c̣n nhận được điện tín của nhà nước Xô-viết,
chồng bà vẫn c̣n sống, khoẻ mạnh, và sẽ được tha vào năm 1948. Để
tiện bề lo lắng cho thân nhân người bị bắt, nhà nước cho một mật vụ
đến ở luôn trong nhà bà. Năm 1996, bà di cư qua Hoa-kỳ, hiện sống
với Lida, cô con gái của họ, và đứa cháu trai, tại Maryland.
Hồ sơ KGB cho biết, xác của Babel được thiêu tro, gom chung thành
Ngôi Mộ Tập Thể Số Một, và được đánh dấu, h́nh như vào năm 1991 bởi
những ḍng chữ: "Nơi đây an nghỉ, tro cốt của những con người vô tội,
nạn nhân bị tra tấn, hành quyết do những vụ đàn áp chính trị. Hăy
cầu xin chẳng bao giờ nhân loại quên họ".
Và đây là một trong những tiếng cười vui của ông, sau khi từ biệt vợ,
trên đường tới nhà tù Lubyanka, Babel quay qua một mật vụ: "H́nh như
tối qua đồng chí không ngủ được nhiều?"
Trên tờ Điểm Sách Paris, số Mùa Đông 1995, có loạt bài Chân Dung
Nga (Russian Portraits); từng tác giả đặc biệt, viết về một bức
h́nh đặc biệt. Có bức h́nh được lôi ra từ hồ sơ mật, hoặc từ ống
thông hơi cầu thang.
H́nh Dostoevski, là từ hồ sơ Bettmann; với bài viết của Thom Jones:
Chúng ta muốn Thượng Đế, nhưng có Thực mới vực được Đạo (we want
God, but we also crave power, love, meat: Chúng ta muốn Thượng Đế,
nhưng chúng ta cũng khao khát quyền lực, t́nh yêu, thịt.)
Bài viết về chân dung nhà thơ cách mạng Mayakovski, là của một nữ
văn sĩ Francine du Plessix, vốn "bị gán cho" là con gái của nhà thơ.
Có h́nh Babel, đang bế cô con gái. Bài viết của James Salter có
những ḍng thật chân t́nh: Tôi thật ân hận v́ đă đọc Babel trễ quá.
Giá mà đọc sớm, giá mà được hưởng chút hơi hớm của ông. (The regret
I felt was that I had not read them earlier and been influenced by
him). Tác giả cũng kể, một giai thoại thật tuyệt vời (thật bi thảm,
đúng hơn), về Babel:
Stalin, người đă tống vào tù và làm chết hàng triệu đồng bào của ông
ta, đôi khi làm những cú điện thoại thật bất ngờ, vào ban đêm, từ
văn pḥng của ông ở điện Cẩm Linh. Thường là gọi cho một vài nhà văn,
trong số đó có Pasternak, Ilya Ehrenburg. Ehrenburg đă nhận được một
cú gọi như vậy, sau khi Babel bị bắt. "Babel có phải là một nhà văn
tốt không?" Stalin hỏi.
-Một nhà văn tuyệt vời, Ehrenburg nói.
Câu nói tiếp của ông Trùm Đỏ, là một từ cụt ngủn:
-Zhalko (Đáng tiếc,đáng thương).
Và Người gác máy.
Đó là death knell (tiếng chuông báo tử).
Jennifer Tran.
____
a2a: Jennifer Tran
là một bút hiệu khác của nhà văn Nguyễn Quốc Trụ .
Isaac Babel and his Daughter
I was filled with
regret when I first discovered Isaac Babel's stories in 1975 or
thereabouts. I had already written four books as well as stories of
my own. Babel's stories were overwhelming. The regret I felt was
that I had not read them earlier and been influenced by him.
It was Robert Phelps, a writer whose judgment of literature was
unerring, who introduced me to Babel, even prescribing the stories I
should read before making up my mind, My First Goose, Dante Street,
Guy de Maupassant and The King.
I read them in a small, book-lined study that Phelps kept, separate
from his apartment, on East Twelfth Street, and immediately fell
under the spell of a writer I liked as much as any I had ever known.
Babel's reputation was originally based on Red Cavalry- stories
drawn closely from his experience as a correspondent attached to
Budenny's forces during the bloody civil conflict that followed the
revolution of 1917-1918. The writing is brilliant, original and
utterly unsentimental, marked by that telltale sign of greatness,
keen observation. Every sentence is like an arrow thudding into the
target, and Babel is stunningly succinct. His famous dictum states
that no iron can pierce the human heart so chillingly as a period
put in exactly the right place.
I have reread the stories, some published long after his death in
The Atlantic, Commentary and The New Yorker, many times. They are of
an unquenchable freshness and somehow have - this is Babel's genius
- despite their barbarity, an immense kindness of heart. Beyond the
harshness they are filled with a perverse human nobility. They have
the power to console. It is a quality one finds in Turgenev, Chekhov
and Tolstoy.
Born in 1894, the son of a tractor salesman, Babel was raised in
Odessa and later lived in Moscow and for brief periods in the 1920s
and 1930s in Paris. He had two daughters, Nathalie and Lidya, by
different wives. The photograph is of Babel and Nathalie, his oldest
child, who was raised in France by her Russian mother and came to
America where she taught and later edited her father's work. In
Babel's kind face and high forehead, his wire-rimmed glasses, one
can sense his personality: cheerful, shrewd and somewhat
mischievous. There is a hint of his great wisdom. We cannot hear his
voice, which was high-pitched and with a slight lisp, but from his
letters and the recollections of his friends, IIya Ehrenburg and
Konstantin Paustovsky among others, one gains the picture of a
wonderful man. I think of him agonizing over his work, "composing"
as he liked to say, writing and rewriting. Half a page a day was a
huge amount for him. I think of him living in Paris on a street
called Villa Chauvelot, along the sea in the mountains section of
Odessa, and in meager lodgings in Moscow.
Like Pasternak, Mandelstam, Shalom Aleichem and it's not far-fetched
to include Isaac Singer, Babel was Jewish. Strangely, he seems the
least known though he may be the greatest of them. Fame is a vapor.
Babel's compatriot, Bunin, a generation older, won the Nobel Prize
but is little read today.
Babel was perhaps forty-six when he died. His exact fate remains
unknown. Crushed by censorship and official disapproval, he was
arrested in May 1939, towards the end of the terror, and disappeared
into the prison camps. His trunk, which contained countless pages of
unpublished work - he was famously long in revising and slow to
submit stories- disappeared with him and has never been found. It,
too, vanished in the pyre.
Stalin, who was responsible for the imprisonment or death of tens of
millions of his countrymen, sometimes made unexpected telephone
calls from his Kremlin office at night, to Pasternak and Ilya
Ehrenburg among others. Ehrenburg received such a call after Babel
had been arrested. Was Babel a good writer, Stalin asked him?
“A wonderful writer," Ehrenburg said.
Stalin's reply was a single word,
"Zhalko," he said-pity-and hung up. That was the death knell.
James Salter
(Source : Tin Van
www.tanvien.net )
trang nguyễn quốc trụ
art2all.net |