Nguyễn Quốc Trụ
DỊCH LÀ CHẤP NHẬN PHẦN SỐ CỦA M̀NH
Lời người viết: Nhân Trần Trọng Hoàng Bách, một tác giả ở trong nước, có nhắc tới hai bài viết mới đây của tôi, trên diễn đàn Talawas, tôi viết bài này, như một món qùa gửi người bạn nói trên, (trong bài viết có một chi tiết làm tôi tự hỏi, liệu có phải đây làmột cố nhân đă từng rành rẽ Sài G̣n, và quăng đời sa sẩy tuyệt vời của tôi hay không). Bài hơi dài, tôi xin viết thành vài ḱ. NQT ~~oOo~~
1.
Trăm Năm Cô Đơn, tiểu thuyết của G. García
Márquez, bản dịch của Nguyễn Trung Đức, Phạm Đ́nh Lợi, Nguyễn Quốc Dũng;
Nguyễn Trung Đức viết lời giới thiệu, nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội (ấn
bản 2000), trang 67 (chương thứ nh́, ngay sau chương mở đầu):
1. “Quá kinh ngạc trước... đến mức quẫn trí...”: kinh
ngạc làm sao có thể đưa đến quẫn trí? 1. Tiếng chuông nhà thờ đổ hồi, bản tiếng Anh: tiếng chuông báo động đổ hồi (the ringing of the alarm bells). Quá kinh ngạc, bản tiếng Anh dịch là became so frightened: quá khiếp sợ. 2. Bà vợ ăn bám suốt đời, bản tiếng Anh: bà vợ vô dụng suốt những ngày c̣n lại của bà (a useless wife for the rest of her days). Như vậy, bà vợ vô dụng suốt những ngày c̣n lại của ḿnh có nghĩa là bà vợ không c̣n đáp ứng được việc chăn gối, chứ không phải, v́ bị sẹo bỏng nên không làm việc được nữa, và phải ăn bám chồng con. Bản tiếng Anh c̣n cho thấy một số khác biệt (vết sẹo cháy/vết bỏng; đi đứng kỳ dị/ dáng đi của bà chắc phải kỳ cục, cho nên bà không c̣n đi ra ngoài đường ngoài phố nữa; cực h́nh ghê rợn/ tra tấn nhục nhă (shameful torture)... những chi tiết đều quyện vào nhau, mỗi chi tiết cho thấy/ hoặc giấu giếm một ư nghĩa nào đó của câu chuyện, và chỉ “sáng tỏ, khi “sự thực“ xuất hiện: “Chỉ v́ sợ nằm mơ thấy mấy tên cướp người Anh và những con chó dữ tợn... tra tấn nhục nhă bằng những thanh sắt nung đỏ.“
Bạn có thể coi cả đoạn trên chỉ là một câu văn, bởi
v́ nên nhớ một điều, García Marquez là một nhà văn thuộc “trường phái“
William Faulkner! Phạm Thị Hoài, nhân câu chuyện, cung cấp bản dịch tiếng Đức: Als im sechszehnten Jahrhundert der Seeräuber Francis Drake Riohacha überfiel, erschrak Ursulas Urgroßmutter dermaßen über Sturmläuten und Kanonendonner, daß sie die Nerven verlor und sich auf einen brennenden Herd setzte. Die Brandwunden machten sie für den Rest ihres Lebens zu einer untauglichen Ehefrau. (Bản dịch của Curt Meyer-Clason, NXB Kiepenheuer & Witsch, Köln, 1970) và cho biết những chỗ gạch chân:
- erschrak: khiếp sợ, hoảng Như vậy bản tiếng Anh và bản tiếng Đức tương đối khớp nhau. Bản dịch sẽ bớt sai sót, nếu: Người dịch thật rành rẽ tiếng... Việt. Đây là điều kiện tiên quyết, tối hậu, sinh tử v.v... và v.v... đối với bất cứ một cá nhân nào lăm le dịch tiếng nước ngoài ra tiếng nước ḿnh. Bạn càng rành rẽ tiếng nước ḿnh tới đâu, bản dịch càng đáng tin cậy tới mức đó. Một người rành tiếng Việt, làm sao không “ngạc nhiên“ tự hỏi, tại sao ngạc nhiên lại đưa đến quẫn trí, tại sao chỉ bị bỏng ở bàn tọa, mà lại trở thành bà vợ ăn bám?... Dịch hay không dịch, bất cứ bản văn nào cũng đều cưỡng lại mọi cố gắng làm cho nó có nghĩa. Trần Trọng Hoàng Bách đành chọn cái này, thay v́ cái kia, trong khi không có nguyên tác trong tay, điều này cho thấy, ông căn cứ trên khả năng, sự rành rẽ tiếng Việt của ông, khi chọn lựa. Nếu dịch là cướp, chỉ một khi bạn tự tin vào khả năng pḥng thủ của ḿnh mới dám rước họa vào nhà, mới biến của cải của người thành của ḿnh. Theo nghĩa đó, George Steiner cho rằng, thi sĩ là những dịch giả tốt nhất. Sau nhà thơ, tới những kẻ bị đá văng ra bên lề xă hội, hay bị đá văng ra khỏi nơi chôn rau cắt rốn (outcasts, wanderers). Và dịch là số phần của họ, nếu muốn ôm dịt lấy căn nhà hữu thể (chữ của Heidegger để chỉ ngôn ngữ).
“Bảnh“ hơn nữa, là dùng ngay tiếng của người làm vơ
khí, để đi ăn cướp! Phần số, trời đầy, kẻ bị trù yếm: Cứ mỗi lần Ursula
bị khổ v́ những ư nghĩ khùng điên của chồng, bà lại chồm ngược về quá
khứ hơn ba trăm năm, cái quá khứ của số mệnh và trù ẻo, cái ngày Sir
Francis Drake tấn công Riochia; tôi cũng muốn bắt chước bà, nhảy ngược
về quá khứ, của số mệnh và trù ẻo, cái ngày mà người Pháp tấn công Nam
Kỳ.... 2. [Trong bài trước, người viết dùng chữ “của ḿnh”, là muốn nhấn mạnh tới cái số phận nghiệt ngă của những kẻ chỉ mong được say xỉn, để văng tục bằng tiếng mẹ đẻ, c̣n lúc b́nh thường th́ lại quen miệng xài f. f., hay “̣a ̣a”, “e, e” (yeah, yeah)...]
Bây giờ nói đến số phận của chính “cái gọi là” tiếng
mẹ đẻ, khi bị (chuyển) dịch. “Có một điều nghịch lí là từ sau thống nhất đất nước, hàng loạt từ địa phương ở miền Nam tràn ra miền Bắc, dần dần lấn lướt thậm chí thay thế những từ đă chuẩn hóa từ nhiều đời. Lợn lành chữa thành lợn què, đang trương biển Công Ty Gạch Hoa lại sửa thành Công Ty Gạch Bông, đang thiếp mời lại sửa thành thiệp mời, đang kem cốc lại sửa thành kem li. Trên thực đơn của các hàng ăn, các chữ rang và rán biến mất, nhất loạt thay thế bằng chữ chiên: cơm chiên thay v́ cơm rang, cá chiên, đậu chiên, khoai tây chiên thay v́ cá rán, đậu rán, khoai tây rán... Trong ngôn ngữ mọi nước, tiếng dùng ở thủ đô bao giờ cũng được coi là chuẩn mực, quyết không thể đem tiếng địa phương thay thế. Hiện tượng này nếu diễn ra theo chiều ngược lại, nghĩa là đem những từ miền Bắc thay thế cách gọi của miền Nam, cũng là vô lối, không thể chấp nhận được.”
Sự thắng thế của
những từ miền Nam tại miền Bắc, như trên, theo tôi, là do vấn đề tiện
dụng, theo cả nghĩa kinh tế của từ này: nếu trên thực đơn để là cá
chiên, chẳng khách ăn nào sờ tới món này, là nó biến mất. Trường hợp gọi
là vô lối, đă xẩy ra rồi, chứng cớ là Sài G̣n bị đổi tên, chắc là ông
Dương Tường không để ư tới, bởi v́ ông vẫn quen miệng gọi là Sài G̣n. 1954, vào Nam, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền có lẽ là một trong những người đầu tiên có những ḍng thơ văn về Hà Nội, bên cạnh những ḍng nhạc của một "Mưa Sài G̣n, Mưa Hà Nội", hay "Hướng Về Hà Nội". Câu thơ trên, tôi chỉ nhớ loáng thoáng, trong tập "Tôi không c̣n cô độc", đă một thời làm ngơ ngẩn cả đám bạn bè hồi cùng học trung học. Ngớ ngẩn, đúng hơn. Số là Phạm Năng Cẩn rất mê câu thơ đó. Anh cứ ngâm đi ngâm lại khiến Nguyễn Quốc Sủng đâm ra thắc mắc, hỏi, mưa ô buy là mưa ǵ? Tôi nhớ là, bạn Cẩn ngớ ra, và... cương đại: mưa ô buy là một thứ mưa bụi (buy biến thành bụi), hạt lấm tấm như nhũ kim cương trên những chiếc áo Mùa Thu, Hà Nội! Sủng coi bộ không hài ḷng với một lời giải thích rất thơ như vậy. Một bữa, trong lúc cả đám vây quanh nhà thơ, anh hỏi. Thi sĩ trả lời: ô buy là một từ tiếng Pháp, obus. Mưa ô buy là mưa đại bác, mưa trái phá!
Sau này tôi được biết, người miền nam gọi trái phá là trái
ô buy. Họ gọi
phạm nhe là người y tá, và hồi mới vào Sài G̣n, tôi đă từng khổ sở v́
không hiểu nghĩa của nó, sau cùng truy ra, là do từ tiếng Pháp,
infirmier. Bởi v́ không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ sử dụng từ “mưa ô-buy”: ông vẫn bị những cơn mưa từ cái thành phố mà ông từ bỏ ám ảnh, cũng như không phải ngẫu nhiên mà ông bạn ngày xưa của tôi tán ẩu, ông cũng bị ám ảnh.... Nhân chữ chuẩn hóa lâu đời tôi lại nhớ đến Lévi-Strauss; ông cho rằng từ ngữ vốn không phải là của chung, mà là của riêng, giống như ngày xưa, khi đi thi, mà dùng một chữ của vua dùng, là phạm húy, có khi mất luôn cái chỗ đội nón; nhưng, như một ṿng tṛn luẩn quẩn, khi những chữ được những nhà quyền quí dùng chán chê, vứt bỏ, lúc đó thứ dân lại mang ra xài, và ngược lại.
Chiên được người dân cả hai miền sử dụng, biết đâu đấy, chính nó đang
mang thông điệp thống nhất, và người dân miền bắc có vẻ đă đến lúc quá
chán cái gọi là chuẩn hóa lâu đời rồi cũng nên...
|