Nguyễn Quốc Trụ
KẺ MƠ NGÀY
[Phỏng vấn nhà văn Nhật Bản Huraki Murakami]
Lời giới thiệu:
Trong "Chuyện Nghề" (The Writer's Apprenticeship), Borges viết:
Nghề văn, nghề thơ, là một nghề kỳ cục. Chesterton có nói: "Chỉ có
một điều cần - tất cả mọi điều." Với một nhà văn, tất cả mọi điều là
một từ không chỉ có nghĩa "bao gồm"; phải hiểu theo nghĩa đen của nó.
Thí dụ, một nhà văn cần sự cô đơn, và anh ta được chia phần, của nỗi
cô đơn. Anh ta cần t́nh yêu, anh ta được chia, t́nh yêu, và luôn cả,
t́nh yêu không được chia.
Theo một nghĩa nào đó, nhà văn là một kẻ mơ-ngày, a day-dreamer, một
kẻ sống cuộc đời kép. Anh ta bắt đầu viết, bằng cách bắt chước những
nhà văn mà anh ta thích. Đó là cách nhà văn trở thành chính ḿnh,
bằng cách làm mất bản thân - cung cách kỳ cục của một cuộc sống kép,
sống hết ḿnh trong thực tại này, cùng lúc, trong thực tại khác -
thực tại mà anh ta sáng tạo ra, thực tại "của những giấc mơ".
Một cuộc sống kép, sống hết ḿnh trong thực tại này, và cùng lúc,
trong một thực tại khác... Một kẻ mơ ngày.... Murakami có lẽ cũng
nghĩ như vậy, khi ông cho rằng, viết, là một cách mơ mộng, nhưng mà
trong t́nh trạng tỉnh thức, “écrire, c’est comme rêver éveillé”
Sinh tại Kobé năm 1949, Murakami học về bi kịch Hy Lạp tại Đại học
Wasada trước khi làm công việc trông coi một quán nhạc jazz tại
Tokyo từ 1974 tới 1981. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông Hăy Nghe
Gió Hát được giải thưởng Gunzo. Cuốn sách kéo theo Tam Khúc Chuột
(La trilogie du rat), cuốn chót, La Course au mouton sauvage [Rượt
theo cừu hoang], bản tiếng Pháp do Seuil xuất bản (1990), và sau đó,
Tận Thế [La fin du temps, 1992), một cuốn tiểu thuyết khoa học giả
tưởng khác thường đă đem đến cho tác giả giải thưởng nổi tiếng
Tanizaki. Sau đó, vẫn do nhà xb Seuil, là cuốn La Ballade de
l’impossible (Khúc dạo của sự bất khả), một thành công lớn tại quê
hương của ông.....
Tác phẩm của ông quyến rũ, tinh tế, không ngừng gây kinh ngạc, sững
sờ, dễ nhập vô nhưng cũng thật khó nắm bắt.
Tin Văn đă từng giới thiệu ông, khi cuốn Kư Sự về Chim Lên Dây Thiều
ra mắt giới độc giả Anh ngữ.
Sau đây là bài phỏng vấn đặc biệt do Tran Minh Huy thực hiện, cho tờ
Văn Học Pháp, Magazine Littéraire, số tháng Sáu 2003, số đặc biệt về
nhà thơ, nhà phê b́nh, nhà dịch thuật Pháp, Yves Bonnefoy. Tin Văn
sẽ có bài về ông.
[Tên những tác phẩm của Murakami, là theo bản dịch tiếng Pháp]
“Vâng, cái đó có sự quyến rũ, đọc nó thích lắm đấy”, Fitzgerald nói
về những ǵ ông viết. Người ta có thể nói cùng một điều như vậy, về
những tác phẩm của người đă từng dịch Êm Đềm Như Đêm [Tender is the
Night, Tendre est la nuit], và Tan Vỡ [The Crack-Up, La Fêlure] của
ông, qua tiếng Nhật.
Đó là Haruki Murakami.
Một âm nhạc đặc biệt, một cái đẹp khó định nghĩa, một quyến rũ luôn
cưỡng lại mọi nghiên cứu, t́m hiểu, những cuốn sách Murakami thấm
đậm những chất như vậy. Ông là một nhà văn “thần tượng” không dễ xếp
loại, một pháo đài không dễ xâm nhập. Ít khi chịu phỏng vấn, tuy
nhiên, ông đă bằng ḷng làm một cuộc phỏng vấn đặc biệt, với tạp chí
Văn Học Pháp. Trong khi nói chuyện, ông thú thực, không khoái tṛ
phỏng vấn (cái thứ bài tập này, ce genre d’ exercice), chẳng “tin” (foi)
phê b́nh, chẳng “cậy” (confiance) độc giả. Diễn tả chính xác những
ǵ ḿnh nghĩ, bằng một thứ tiếng Anh thật chuẩn, bởi v́, ngoài
Fitzgerald, ông c̣n dịch Raymond Chandler [một tác giả những truyện
trinh thám nổi tiếng người Mỹ], John Irving và Raymond Carver, tại
quê hương của ông. Một người mê tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh, ông
là một trong những người tiên phong du nhập văn hóa pop vào văn
chương Nhật, ngược lại truyền thống, vốn chuộng một cái đẹp mang
tính qui ước.
Viết tiểu thuyết, truyện ngắn, đă từ lâu, ông là một ngôi sao rock
văn học tại xứ sở của ông. Cuốn tiểu thuyết Bài Hát Của Sự Bất Khả
(Ballade de l’Impossible) đă bán ra hai triệu ấn bản. Đây là một thứ
kư sự mang tính hoài nhớ về cuộc đời của sáu sinh viên Nhật thập
niên 60-70. Không chỉ nổi tiếng ở Nhật, những đại học danh tiếng của
Mỹ như Harvard, Princeton đă từng mời ông ghé thăm. Ở Nga xô, ông
được so sánh với.... Dostoevsky. Một bậc thầy, của những t́nh thế
nhạy cảm, một thi sĩ, ca nhân, của những t́nh huống bất khả (Phía
nam biên giới, phía tây mặt trời, Au sud de la frontière, à l’ouest
du soleil, Những người t́nh của Spoutnik, Les Amants du Spoutnik,
Bài ca của sự bất khả, La Ballade de l’impossible) một người viết
ngụ ngôn hoang đường, kỳ quái (Tận thế, La Fin des temps), và những
truyện giả-trinh thám, lồng vào trong đó một sự t́m kiếm mang tính
khai phá (Rượt theo cừu hoang, La Course au mouton sauvage, Kư sự về
chim lên dây thiều, Chronique de l'oiseau à ressort). Đă từng chọn
Hoa Kỳ để sống thay v́ Nhật bản, cuộc động đất tại Kobé và vụ tấn
công bằng hơi độc sarin của giáo phái Aum tại đường xe điện ngầm tại
Tokyo khiến ông trở lại quê hương, viết “Sau cuộc động đất” và Dưới
Hầm (Underground), những suy tư khi phải đối diện với điều mà ông
gọi là “căn phần” của lịch sử Nhật Bản, và có thể của mọi lịch sử:
bạo lực.
Từ tám năm nay, ông chọn Tokyo làm nơi sống. Có vẻ như ông t́m lại
được sự b́nh an, sau lưu vong.
-Những cuốn tiểu thuyết của ông có rất nhiều
những điển cố văn hóa pop Tây phương: những dấu vết, kư hiệu, nhạc
Beatles, phim ảnh Hollywood, nhạc Jazz... Liệu có thể coi đây là
“cắt đứt truyền thống để lên đường”, giă biệt những cổ thụ của văn
chương truyền thống Nhật, thí dụ, Mishima, Kawabata, Tanizaki?
Khi c̣n trẻ, tôi nghe nhạc Beatles, les Doors, và đọc những cuốn
sách Mỹ, những cuốn “mysteries” [một loại trinh thám của những tác
giả thí dụ như Ellery Queen], khoa học giả tưởng, coi Laura của Otto
Preminger... Tôi tắm đẫm trong âm nhạc, tiểu thuyết, phim ảnh và thứ
văn hóa pop đó. Tôi có ư muốn đọc những cuốn sách viết về những ǵ
mà tôi đă từng yêu và tiếp tục yêu cho đến bây giờ. Đây là một phần
thiết yếu trong thế giới của tôi, và tôi muốn viết về điều này. Theo
kiểu hoài niệm, tưởng nhớ. Tôi thật khác biệt với Mishima hay
Kawabata, về rất nhiều bộ môn. Đặc biệt là về văn phong, nhưng không
chỉ có thế. Văn xuôi của họ gắn bó với một cái đẹp mang tính h́nh
thức, nó có vẻ mơ mơ hồ hồ (ambigu), rất ư kiểu cách, tràn trề cảm
xúc, trong khi cá nhân tôi, chỉ muốn viết tự nhiên, giản dị. Uyển
chuyển, nhẹ nhơm, và trần trụi. Tôi tiếp tục làm việc theo kiểu này.
Đó là điều làm tôi tách hẳn ra khỏi những nhà văn Nhật Bản có tính
truyền thống. “Dù có rũ bụi, tôi cũng chẳng dám làm quen,” có thể
nói như vậy, bởi v́ tôi chẳng nợ nần ǵ, “cho dù chỉ một giọt mực”
của truyền thống Nhật.
-Nhưng có thể ông không nợ họ, nhưng lại nợ
những tác giả khác, như Fitztgerald, Carver, Raymond Chandler, John
Irving, mà ông đă dịch qua tiếng Nhật?
Lẽ tất nhiên. Hẳn nhiên là như vậy. Chính những bản văn mà tôi dịch
đó, đă hướng dẫn tôi, là những người thầy, người chỉ bảo tôi. Cái
hành động dịch thuật đó, nó ảnh hưởng đậm đà và thật là tuyệt vời
vào cái hành động viết, một cách nào đó, nó là một: Khi tôi viết một
cuốn tiểu thuyết hay một truyện ngắn, tôi có nguyên bản, nằm ở trong
tôi, và tôi t́m cách dịch nó ra thành ngôn ngữ, thành văn xuôi,
nghĩa là thành một cái ǵ mà người khác, kể cả tôi, đọc được. Tiếng
Nhật hoàn toàn khác hẳn tiếng Tây Phương như Pháp, Anh, hay Đức. Khi
dịch ra tiếng Nhật, người ta phải tái tạo (reconstruire), có thể nói,
kể từ con số không, về ư nghĩa cũng như câu kệ của bản văn ngoại đó.
Một sự tạo thành như thế đó, là hoàn toàn riêng hẳn ra, nếu phải so
với nguyên bản. Dịch thuật do đó giữ, và tiếp tục giữ một chỗ rất
quan trọng, rất cơ bản, trong cách viết và suy nghĩ của tôi.
-Ǵ th́ ǵ, những điển cố văn hóa pop như vậy
làm cho tác phẩm của ông dễ tới với công chúng thế giới?
Tôi không nghĩ, ḿnh là thứ tác giả được năm châu bốn bể t́m đọc.
Được mọi người nói tới một tí ti thôi, dù chưa đọc sách của ḿnh,
vậy cũng thú vị lắm rồi. Phần khác, cứ kể như là thuộc về huyền
thoại rất đẹp của Đông Phương, về điều mà chúng tôi nói, mắt xanh
nào có mấy người, đâu là tri âm tri kỷ. Tôi lấy thí dụ, khi tôi viết
rằng, nhân vật trong cuốn tiểu thuyết của tôi nghe Radiohead hay
Prince, bạn và tôi biết ngay, tụi ḿnh đang nói ǵ, và thế là có một
liên hệ, một t́nh cảm... giữa tôi và bạn. Đây là điều rất quan trọng.
Khi tôi cho nhân vật của tôi bước vào một tiệm Burger King hay MacDo,
bạn có thể tưởng tượng ra cảnh đó. Theo một nghĩa nào đó, những dấu
vết, những bảng hiệu (logos) như vậy, là một h́nh thức biểu tượng về
điều mà chúng ta cùng chia sẻ, những ngày này.
-Nhưng điều đó cũng đâu có làm cho nhân vật
của ông bớt “hung hăng” chống lại, từ chối hệ thống. Họ đâu có kính
trọng cái thứ luật làm đến ói máu, và cái kiểu sản xuất hàng hóa như
ngựa phi, vốn được coi là “đạo hạnh” của Nhật Bản?
Thời gian 1968-69, tôi là một sinh viên, đó là thời kỳ chống lại văn
hóa, và chuộng chủ nghĩa lư tưởng. Người ta mê cách mạng, mê lật đổ
trật tự đă an bài. Rồi những ngày tháng như thế đó cũng phải qua đi.
Tôi ra trường với mảnh bằng đại học. Nhưng tôi chẳng muốn chui vào
một văn pḥng, một xă hội nào. Tôi chỉ muốn là chính tôi. Một ḿnh
và độc lập. Đâu có dễ, muốn cái chuyện như thế, ở một xă hội như
Nhật Bản, vốn được thành lập từ những ư niệm bộ lạc, tập thể, nhưng
cuối cùng tôi cũng làm được cái điều ḿnh muốn làm đó. Tôi chẳng
thuộc vào một câu lạc bộ, một trường phái nào. Hai mươi năm vừa rồi,
tôi viết, vậy mà chẳng có lấy một mống đồng nghiệp, văn hữu, bạn văn.
Khi bắt đầu viết tiểu thuyết, lẽ tự nhiên, tôi chỉ muốn miêu tả
những nhân vật, như là những cá nhân, cố làm bật ra, bằng cách nào
những con người như thế có thể sống như những cá thể ở bên lề, của
lề luật xă hội.
-Những cuốn sách của ông giống như những ngụ
ngôn, [những đường cong paraboles], cho thấy cách, mà những con
người, những cá thể mà ông vừa nói tới đó, thoát ra khỏi sự phóng
thể, tha hóa, mất bản chất cá thể của họ...
Tôi cũng nghĩ như vậy, một cách nào đó. Nhưng trong ṿng ba mươi năm
qua, xă hội Nhật bản đă thay đổi. Nó trở nên vững chăi, không c̣n
chao đảo. Nghĩa là không c̣n giống như trên nữa. Vào những năm cuối
cuộc đệ nhị thế chiến, chúng tôi đă cần cù làm việc để tái thiết xứ
sở. Chúng tôi nghĩ, công việc đem lại giầu có, và giầu có mang lại
hạnh phúc. Nghe có vẻ quá ngây thơ, nhưng xă hội của chúng tôi đă
sống với một xác tín như vậy từ không biết bao nhiêu đời rồi. Chính
v́ lư do đó mà ông bà tôi, rồi tới cha mẹ tôi cứ thế cắm đầu cắm cổ
làm, làm, và làm, để có được sự thoải mái về kinh tế cho gia đ́nh
chúng tôi vào thập niên 1980, thời kỳ có tên là “kinh tế man rợ” (l’économie
barbare). Chúng tôi trở nên giầu có. Nhưng khốn thay, càng không
thấy hạnh phúc! Chúng tôi cảm thấy mất mát, thua thiệt, và chúng tôi
phải coi lại cái công thức “có tiền mua tiên cũng được”. Có thể,
“Đừng tuyệt vọng em ơi đừng tuyệt vọng”, “Hăy hạnh phúc em ơi, hăy
hạnh phúc”, là nỗi băn khoăn của chúng tôi, tiếp theo đó. Rồi tới
thời kỳ suy thoái kinh tế, kéo dài 10 năm. Theo tôi nghĩ, một cách
nào đó, đây chính là một cứu nguy cho chúng tôi, bởi v́, bây giờ,
chúng tôi có thể suy nghĩ, và t́m ra một con đường khác cho đất nước
của ḿnh.
-Văn học Nhật đương đại cũng có cùng những lo
âu, bận bịu đó. Thí dụ trong những tác phẩm của Ryu Murakami hay
Banana Yoshimoto...
Ryu Murakami là một trong những người bạn thật hiếm hoi của tôi,
chúng tôi rất hiểu nhau, và tôi rất ngưỡng mộ một vài cuốn của anh.
C̣n Banana Yoshimoto, tôi đặc biệt yêu cuốn Giă biệt Tsuguni. Nhưng
tôi thú nhận, ngoài ba chuyện dịch thuật và tác phẩm của chính ḿnh,
tôi chẳng có th́ giờ đọc đồng nghiệp Nhật bản. Một điều chắc chắn,
là, trong ṿng hai mươi năm nay, văn học Nhật Bản hoàn toàn hóa thân,
một cuộc thay đổi không những toàn diện, mà c̣n tới tận gốc rễ của
nó. Đứng vùng lên gông xích (les carcans) ta đập tan, cả về h́nh
thức lẫn nội dung.
-Ông thích chơi với những sơ đồ, bản vẽ (schémas)
của “chuyện t́nh” (Bài hát của sự bất khả), của tiểu thuyết đen, và
của SF (Science-fiction, khoa học giả tưởng), lâu lâu ông pha trộn
chúng với nhau (Những người t́nh của Spoutnik, Kư sự chim lên dây
thiều). Tại sao?
Cái này là do cách đọc của tôi, thật bất thường và thật hỗn độn.
Mười tám tuổi, tôi đọc tiểu thuyết cổ điển Âu Châu, thế kỷ 19, chủ
yếu là Tolstoy, Dostoevsky, Chekhov, Balzac, Flaubert, Dickens. Họ
là những người hùng của tôi. Tôi chúi đầu chúi cổ, dành hết th́ giờ
cho họ. Nói về mặt văn chương, chẳng làm sao mà viết hơn họ. Sau đó,
tôi chuyển qua tiếng Anh, và đọc những tác phẩm viết bằng tiếng
Anh.Tôi khám phá ra thế giới tiểu thuyết đen, và khoa học giả tưởng,
Raymond Chandler, Kurt Vonnegut, và Richard Brautigan. Cả Scott
Fitzgerald nữa. Tôi đọc tất cả bằng tiếng Anh. Thật là một kinh
nghiệm hoàn toàn mới mẻ, và nó làm tôi thay đổi rất nhiều. Đến nỗi
cái nền tảng văn hóa của tôi bị pha trộn, có thể nói, là một món
“nộm” giữa văn học cổ điển và một thứ văn học dính dáng tới văn hóa
pop. Lập tức, tôi tóm lấy cách sử dụng những bản vẽ, những cấu trúc
của “chuyện t́nh” (love story), của tiểu thuyết trinh thám (policier),
khoa học giả tưởng, và nuôi chúng bằng những những thức ăn riêng.
Một thứ “bài tập” giải cấu trúc, nếu bạn muốn. Nói rơ hơn, b́nh (le
contenant) cũ, và là đồ vay mượn, nhưng rượu (le contenu), mới.
-Ông c̣n chơi đùa với thể loại polar (điệp
viên, trinh thám..): người kể chuyện luôn luôn là một người đụng đầu
với một bí mật, nhưng khi khám phá ra những dấu vết, những dấu vết
này không đưa tới việc giải đáp bí mật, mà là giải đáp phần chưa
biết, của chính người đó.
Trong những cuốn sách của tôi, nhân vật chính trong phần lớn các
trường hợp, là một kẻ đi t́m một cái ǵ đó, quan trọng đối với anh
ta. Thí dụ, người kể chuyện ở trong “La Course au mouton sauvage” đi
t́m con vật nằm ở trong tên truyện, c̣n anh chàng ở trong Tận Thế
(La fin des temps) lần ṃ dấu vết của nhà bác học mà anh ta đă làm
việc chung, c̣n ở trong Kư sự về chim lên dây thiều, một người đi
t́m hôn thê... Tất cả trải qua những t́nh huống lạ lùng, kỳ cục,
những cuộc phiêu lưu cũng cứ thế thay đổi, sau cùng họ t́m được
những ǵ họ mong muốn. Nhưng thời gian, cuộc hành tŕnh, những t́nh
huống xẩy ra như thế đó, khiến cho vật mà họ t́m kiếm đó mất đi ư
nghĩa: cái việc tới được mục đích, có được kết quả không c̣n ư nghĩa
nữa. Câu chuyện cũng không v́ vậy mà trở nên bi quan. Bởi v́ ư nghĩa
đích thực của câu chuyện nằm ở trong tiến tŕnh t́m kiếm, ở chuyển
động theo đuổi. Nhân vật khác đi, không c̣n như lúc khởi đầu câu
chuyện, và đó mới là điều đáng nói.
-Một kiểu dẫn dụ (initiation)?
Vâng. Và những cuộc phiêu lưu mà nhân vật trải qua, cùng lúc, cũng
là của tôi – như là một nhà văn. Khi viết, tôi cảm nhận điều nhân
vật tôi cảm nhận, tôi trải qua cùng những trăn trở, những thử thách.
Nói một cách khác, con-người-là-tôi khi viết xong cuốn sách, khác
với con-người-là-tôi khi khởi sự viết. Chuyện viết (l’écriture) một
cuốn tiểu thuyết thực là quan trọng đối với tôi; không giản dị chỉ
là “viết”; không phải là một công việc giống như những công việc
khác. Như bạn “gợi ư” vừa rồi, đây là một công việc mang tính dẫn dụ,
mời gọi. Tôi nở phổng ra với nhân vật của tôi, cùng những trắc trở.
[“Tôi đẹp dần lên là nhờ những nhân vật mà tôi đảm nhiệm”. Trà Giang].
-Ông tuyên bố, trong khi viết những câu chuyện
của ông, là ông t́m câu chuyện của chính ḿnh, rằng, ông đào sâu bề
ngoài để tới được tâm hồn sâu thẳm...
Vâng, trong khi viết, tôi đào một vùng đất gồm nhiều tầng. Tôi cứ
thế đào, sâu hơn, sâu hơn nữa. Một số người nói, đây là một việc rất
ư cá nhân (une entreprise trop individuelle). Tôi không nghĩ như vậy.
Nếu tôi tới được cơi thâm sâu đó, là tôi có thể sờ vào được một
tiềm-tầng (un substrate), có tính chung, nhờ nó mà tôi có thể cảm
thông với những độc giả của tôi, và như vậy một mối liên hệ đă được
thành lập. Nhưng nếu tôi không đi khá xa, không đào khá sâu, sẽ
chẳng có ǵ xẩy ra.
-Ở trong những cuốn sách của ông, luôn luôn
xẩy ra [t́nh trạng] vượt bờ biên giữa tâm hồn và thể xác, sống và
chết, thực tại và một chiều khác (thế giới song song, tiềm thức,
v..v...). Một số loài vật, như con cừu trong La course au mouton
sauvage, và Nhảy, Nhảy, Nhảy, Danse, danse, danse, hay con kỳ lân
trong Tận Thế ... chúng có thể vượt biên giới. Chúng ở đâu ra vậy?
Tôi xin trả lời bằng một h́nh ảnh. Hăy cứ coi con người như một cái
nhà. Tầng chệt là tầng bạn ăn ở nấu nướng, coi ti-vi với gia đ́nh.
Tầng một, có pḥng ngủ của bạn. Bạn đọc sách, ngủ ở đó. Rồi bạn có
tầng hầm, một nơi chốn không lộ liễu so với những pḥng khác. Bạn
dùng vào việc chứa đồ đạc, hay làm mấy tṛ chơi. Nhưng ở tầng hầm đó,
có một khoảng giấu kín, không thể vô, nếu không biết cánh cửa bí mật
của nó. Và nếu nhờ một cơ may, bạn có thể mở được cánh cửa này, bước
vô một khoảng không gian tối, bạn không biết bên trong có ǵ, bạn
cũng không biết h́nh dáng ra sao, lớn hay nhỏ. Một khi bước vào một
khoảng không gian tối tăm như vậy, thường là bạn hoảng, nhưng cũng
có khi, bạn cảm thấy thật là thoải mái. Bạn có thể nh́n thấy rất
nhiều sự vật lạ lùng, những dấu hiệu, những h́nh ảnh, những biểu
tượng siêu h́nh chúng cứ thế diễn ra trước bạn, Như trong một cơn mơ.
Một thứ vũ trụ vô thức. Nhưng một chốc một lát là bạn phải trở lại
với thế giới thực. Thế là bạn đi ra, đóng cửa lại, và đi lên nhà.
Khi tôi viết, là tôi ở trong cái căn pḥng tối tăm và bí mật đó, và
tôi nh́n thấy rất nhiều điều kỳ cục. Người ta nói, đó là cái biểu
tượng, siêu h́nh, ẩn dụ, hay siêu thực. Nhưng với tôi, trong khoảng
không gian như thế đó, [tôi cảm thấy] thật là tự nhiên, và những cái
điều kỳ cục như thế đó giúp tôi viết ra những câu chuyện của tôi.
Viết, đối với một tác giả, th́ giống như là mơ mà tỉnh (rêver
éveillé). Một kinh nghiệm không giống ai (hors-normes), và thật khó
dùng luận lư để giải thích.
-Sex h́nh như cũng là một cây cầu để nhập vào
cái chiều, cái thế giới khác đó... Có phải v́ vậy mà có những xen
làm t́nh ở trong Bài hát của sự bất khả, Kư sự chim lên dây thiều,
Những người t́nh của Spoutnik... ?
Th́ đúng như vậy đó. Sex là một chiếc ch́a khóa. Những giấc mơ và
sex là rất quan trọng để nhập vô chính bạn, để khai phá cái phần
chưa từng được biết tới của bạn. Người ta nói, có quá nhiều xen làm
t́nh ở trong những cuốn sách của tôi. Trong Kư sự chim lên dây thiều,
bạo động t́nh dục tràn lan, tôi bị chỉ trích v́ điều đó, nhưng tôi
cho rằng thiếu những xen đoạn như vậy là không được, chúng rất cần
thiết v́ giúp người đọc mở cánh cửa giấu kín mà tôi nói ở trên. Tôi
muốn lay động tâm trí họ, mở cho họ một phần bí mật của chính họ.
Một điều ǵ xẩy ra giữa tôi và độc giả là như vậy đó.
-Ông có gắng tra hỏi, ngay cả những ǵ được
coi là những xác tín thông thường, những giá trị và có thể nói, luôn
cả cái gọi là thực tại thường nhật?
Chúng ta tin rằng chúng ta sống trong một vũ trụ thánh thiện. Tôi cố
gắng làm xáo trộn quan niệm đó, cái viễn ảnh “thánh” đó, của thế
giới. Đâu phải một lần, mà nhiều lần, chúng ta sống trong hỗn mang,
trong khùng điên, trong ác mộng. Tôi muốn nhận độc giả của tôi vào
trong một thế giới siêu thực, một thế giới của bạo động, xao xuyến,
âu lo, hoang mang, ảo giác...
-Trong cùng lúc, những ǵ ông viết ra mang dấu
vết của “mono no aware”, hay “nỗi buồn cháy da, cháy thịt của những
sự vật” (poignante mélancolie), và đây là một trong nét tuyệt, tuyệt,
của thi ca truyền thống Nhật Bản... (1)
Tôi cho rằng, chúng ta sống trong một thế giới, cái thế giới “này”
(“ce” monde), trong khi c̣n có những thế giới khác cận kề ngay bên
cái thế giới “này” đó. Nếu bạn thực t́nh mong muốn, bạn có thể chui
qua tường, nhập vào một vũ trụ khác. Một cách nào đó, có thể vượt
cái thực, cơi thực này. Đó là điều tôi cố gắng làm, ở trong những
cuốn sách của tôi. Đây là một quan niệm rất Đông phương, rất Á châu,
theo như tôi hiểu được. Ở Nhật Bản, ở Trung Quốc, người ta coi như
có hai thế giới song song, và có những chiếc cầu nhỏ cho phép, không
khó khăn là mấy, qua lại giữa hai bên. Ở Tây Phương, làm ǵ có một
quan niệm như vậy, thế giới-này là thế giới-này, thế giới-kia là thế
giới-kia. Sự cách biệt thật là quyết liệt, thật là khắt khe, tôi
muốn nói giữa “này” với “kia” đó. Bức tường quá cao, làm sao vượt,
làm sao trèo qua? Nhưng trong văn hóa Á Châu, khác hẳn. Và “mono no
aware” diễn tả, theo như tôi cảm nhận được, t́nh huống này. Trong
Bài ca của sự bất khả, có sáu nhân vật. Ba sống sót, ba biến mất và
qua thế giới bên kia - họ tự tử. Ba kẻ c̣n lại trong thế giới này,
sau cùng biết, hiểu ra là, cũng nhấp nha nhấp nhổm (instable), vô
thường, tạm bợ mà thôi. Đó là một h́nh thức của “mono no aware”.
Điều lạ, là, khi tôi bắt đầu viết Bài ca của sự bất khả, tôi có ư
tưởng theo đó, ba trong sáu nhân vật sẽ biến mất, nhưng không biết
là ai. Trong khi viết tôi tự hỏi chính ḿnh, ai sống, ai chết.
-Ông không hề biết chuyện ǵ xẩy ra, trước khi
viết?
Không bao giờ biết trước. Tôi viết theo kiểu tự phát. Nếu biết trước
kết cuộc, viết làm chi cho mệt. Tôi chỉ thèm biết chuyện ǵ sẽ diễn
ra tiếp theo, những biến động nào sẽ xẩy ra. Có vài cuốn, biến động
cứ thế mà nảy nở trên từng trang sách, và đây là loại mà tôi thích
viết.
- Phía nam biên giới, phía tây mặt trời: Một
tiếng vọng của Bài hát của sự bất khả...?
Trong hai trường hợp, tôi muốn nói về điều mà người ta cảm thấy, khi
một người thân yêu mất đi, biến mất. Một con người có hy vọng, có
thiện chí, thèm được yêu thương, nhưng người này tự ḿnh đi vào con
đường lầm lạc. Tôi biết rất nhiều người đáng quí, đáng trân trọng,
và chỉ qua một khúc quẹo, là họ... hỏng. Tôi luôn luôn nhớ họ. Tôi
luôn luôn muốn viết về họ. Đó là điều độc nhất tôi có thể làm cho họ,
là: viết về họ. Cho họ. Về hy vọng bỏ đi, về thiếu vắng mục đích,
không c̣n một bấu víu, một nương tựa. Chính t́nh cảm này được sử
dụng như sợi dây dẫn đạo. T́nh cảm là thiết yếu trong một câu chuyện.
Bạn có thể viết một câu chuyện thật tốt, được sắp đặt thật khéo léo,
nhưng nếu thiếu t́nh cảm cưu mang, nuôi nấng câu chuyện, là vứt đi.
-Trận động đất tại Kobé, cuộc tấn công bằng
hơi độc tại đường xe điện ngầm ở Tokyo, là nguồn cơn đưa đến “t́nh
cảm” của ông: trở lại Nhật Bản?
Vâng. Vào lúc viết xong Kư sự về chim lên dây thiều, tôi tính nghỉ
xả hơi ít lâu. Viết nó mất ba năm, từ 1991 tới 1993, đây là cuốn
sách dầy và đầy tham vọng của tôi. Chưa được một năm, hai biến cố kể
trên liên tiếp xẩy ra trong thời gian chưa đầy hai tháng. Tôi bị cú
sốc nặng. Tôi rời Nhật Bản từ nhiều năm trước, v́ thấy nó làm tôi
bực bội, phiền nhiễu, khiến tôi không có được đủ sự thanh thản, để
viết. Cứ kể như tôi là một tên lưu vong, khi nh́n thấy những h́nh
ảnh trên ở trên màn truyền h́nh, ở Mỹ. Thế là trong tôi nảy ra ư
nghĩ, ḿnh phải trở về, và làm “một cái ǵ đó” cho xứ sở, những độc
giả, đồng bào của ḿnh. Trở về lại quê hương, gặp gỡ, tiếp xúc, nói
chuyện với những nạn nhân của vụ tấn công bằng hơi độc sarin. Chừng
chục, chục người. Nghe những câu chuyện mà họ chỉ kể giữa hai cá
nhân, mặt nh́n mặt, theo kiểu tâm sự giữa hai kẻ thật thân thiết, và
cũng thật tin cậy. Tôi quá xúc động, không chỉ một lần mà nhiều lần,
không chỉ một cách mà là nhiều cách. Đây là những con người b́nh
thường, họ làm việc thật cực nhọc, ngày ngày xúm xít, chật cứng ở
trong những toa xe điện ngầm từ nhà tới chỗ làm... Và khi nghe kể
những câu chuyện của họ, tôi thật cảm động. Như vậy đó, họ thuộc vào
cái xă hội mà tôi phỉ nhổ, khinh khi. Tính đồng phục, đồng dạng,
người ta sao ḿnh vậy, làm đến ói máu, làm tới chết... Tôi luôn luôn
ghê tởm, chán ghét, khinh khi cái kiểu sống như thế đó. Nhưng những
câu chuyện của tất cả những người này th́ thật là cảm động, và tôi
nghĩ rằng, chúng đă thay đổi tôi: như là một con người, và như là
một nhà văn. Sau đó, tôi có ư định sẽ viết về trận động đất. Tôi gốc
gác ở Kobé. Đấy là thành phố quê hương của tôi. Căn nhà của cha mẹ
tôi bị tiêu hủy bởi trận động đất. Tôi không muốn viết một cuốn sách
người thực việc thực (non-ficrion), mà là một tập truyện ngắn. Sau
khi nghe những nạn nhân vụ hơi độc, tôi đă thu thập được biết bao là
câu chuyện, biết bao là giọng nói ở trong tôi, cho nên thật dễ dàng
viết Sau trận động đất, một tập truyện ngắn không nhắm thẳng vào
chính tai họa, mà là những hậu quả của nó, tiếng vọng của thảm họa
đó lên cuộc sống của một số nhân vật khác nhau. Viết những câu
chuyện đó là một kinh nghiệm có tính nền tảng đối với tôi, có thể
nói, đây là một bổn phận, và một sự cần thiết.
-Khi ông ở Nhật Bản, có vẻ như ông “tránh né”
văn hóa pop, những cuộc du lịch Âu Châu, và Mỹ. Một lần tại Hoa Kỳ
ông có nói tới nhu cầu “về nguồn”...
Đây không phải là vấn đề liên quan tới căn cước (identité) của một
cá nhân, nhưng mà là một trách nhiệm, như là một tiểu thuyết gia và
như một người. Như là một nhà văn, tôi cảm thấy cần phải làm một
điều ǵ đó.
-Có phải âu lo về một trách nhiệm như thế đó mà ông đă đề cập tới
những tội ác và những điều ghê gớm, tởm lợm của Cuộc Đệ Nhị Chiến
tại Trung Hoa trong Kư sự về chim lên dây thiều?
Tôi sinh năm 1949, sau cuộc chiến. Một số người nói: “Chúng tôi
không có trách nhiệm về nó. Chúng tôi sinh ra sau cuộc chiến.” Đây
không phải là quan điểm của tôi. Bởi v́ Lịch Sử là một kư ức mang
tính tập thể. Chúng tôi cảm thấy trách nhiệm về thế hệ những ông bố
của chúng tôi, bởi v́ chúng tôi chia sẻ cái kư ức, về những ǵ mà
những ông bố của chúng tôi đă làm. Chúng tôi trách nhiệm về những ǵ
mà bố ḿnh đă làm trong cuộc chiến. Chính v́ lư do đó mà tôi đă viết
về tất cả những điều ghê gớm tởm lợm đó. Chúng tôi phải suy nghĩ lại
về chúng, khư khư giữ chúng ở trong chúng tôi.
-Và bây giờ, sống tại Nhật Bản, ông có nghĩ sẽ có ngày, lại ra đi?
Trong nhiều năm tôi luôn sống ở bên ngoài Nhật Bản, tại Ư, tại Hy
Lạp, và nhất là tại Hoa Kỳ, bởi v́ tôi được rất nhiều đại học ở đó
mời tới [nhất là Harvard và Princeton]. Nhưng nói thực, tôi chẳng
cảm thấy rất ư là thoải mái với những đại học. Họ có những nhóm
riêng của họ, những ngôi sao, cũng riêng của họ. Tôi không cảm thấy
dễ chịu với họ. Vào lúc này, thế là, tôi bèn ở Nhật Bản. Tôi trở nên
vững vàng, mạnh dạn hơn trước đây, và tôi tính giữ cho ḿnh cái thế
giới riêng của tôi, cho dù sống ở Tokyo. Tôi tạo lập một cung cách
của tôi, một lối sống của tôi. Thành thử, đối với tôi, nơi sống
thoải mái, dễ dàng, hóa ra lại là Tokyo, so với những nơi khác, mặc
dù tôi vẫn tiếp tục đi du lịch.
-Trong những cuốn sách của ông có một mô típ
trở đi trở lại: những con mèo. Trong Chạy theo cừu hoang, nhân vật
kể chuyện chấp nhận cuộc điều tra, với điều kiện người ta phải lo
lắng cho con mèo của ḿnh, nhân vật chính trong Kư sự chim dây thiều
mất con mèo trước khi mất bà vợ, hai nhân vật chính trong Biên giới
phía nam, mặt trời phía tây cùng có một t́nh yêu chung, với những
con mèo...
Như Hajime [người kể chuyện trong Mặt trời phía nam...], tôi là đứa
con một [độc nhất], trong gia đ́nh. Tôi sống một ḿnh với cha mẹ,
tôi có thế giới của riêng tôi, ở trong nhà. Ba “nhân vật” [éléments:
phần tử] thiết yếu tạo nên cái thế giới của riêng tôi đó là âm nhạc,
những cuốn sách và những con mèo. Đó là những cây cột trụ chống trời
của cái thế giới của tôi. Tôi mê [adorer] chúng, và tôi tiếp tục mê
chúng. Tôi luôn có một thứ t́nh cảm tŕu mến đặc biệt dành cho những
con mèo. Tôi không nuôi chúng, bởi v́ bà xă và tôi luôn đi du lịch
thành thử không có ai lo cho chúng. Nhưng mỗi lần ở một công viên,
hay trên đường phố, t́nh cờ nh́n thấy một chú mèo, là tôi tới gần
con vật. Chúng th́ êm ả, trầm lặng, kỳ bí. Chắc là do đó mà tôi hay
viết về chúng.
-Tất cả những cuốn sách của ông vay mượn rất
nhiều từ con người, cuộc sống riêng tư của ông: những thú thưởng
ngoạn, những sở thích, những sự vật mà ông yêu mến. Có phải v́ thế
mà ông hay sử dụng ngôi thứ nhất, nhân vật xưng tôi?
Vâng. Nhưng tôi đă thay đổi văn phong của ḿnh. Trong những năm đầu,
tôi viết tất cả những cuốn sách của tôi bằng ngôn thứ nhất, tôi c̣n
không thể đặt tên cho những nhân vật của ḿnh....Chuyện này kéo dài
sáu năm. Rồi th́ tôi... phát triển, nẩy nở ra; Trong Sau trận động
đất, lần đầu tiên, không một truyện nào trong đó có nhân vật chính ở
ngôi thứ nhất. Và rồi tới cuốn Kafka on the shore [Kafka ở bờ biển,
bản tiếng Pháp sẽ do nhà xb Belfond phát hành vào năm 2005], tức
cuốn mới nhất của tôi, cả nửa cuốn được kể bằng nhân vật ngôi thứ ba
[anh ta, cô ta, nó...]. Độc giả sẽ gặp một ông già hơi mất trí...
ông già có thể nói chuyện với mấy con mèo [Cười].
-Ông có thể nói sơ qua vế tác phẩm này...
Đây là câu chuyện một đứa trẻ mười lăm tuổi – đúng là một thách đố,
đối với tôi. Phần lớn những nhân vật của tôi đều ở quăng tuổi từ hai
chục tới ba chục. Tôi nghĩ, bây giờ sao? Chẳng lẽ cứ thế măi? Năm
chục hay tuổi thiếu niên, vừa mới lớn? Tôi chọn khả năng sau. Thật
tuyệt vời khi viết về một cậu nhỏ. Tôi có thể trở lại với những ngày
mà chính tôi là một đứa trẻ mười lăm tuổi. Tôi có một kỷ niệm thật
sống động, thật tươi mát về cậu nhỏ là tôi đó, và tôi có thể nh́n
thế giới qua cặp mắt của một thiếu niên. Đây chính là phép lạ tuyệt
vời: là một nhà văn. Nếu bạn thực sự muốn là “một ai đó”, thế là bạn
trở thành “người ấy”! Tuyệt vời hơn nữa là, nếu tôi thực sự sống
kinh nghiệm là một đứa trẻ mười lăm tuổi, độc giả của tôi cũng thực
sự sống nó, chia sẻ nó với tôi. Đây là món quà đẹp nhất mà một cuốn
tiểu thuyết, hoặc một truyện ngắn đem tới cho bạn. Chính điều này
giúp tôi sống. Cuộc sống của chúng thực là lẻ loi, cách biệt, nhưng
với những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn, chúng ta không cô độc nữa.
Chúng ta có thể giao cảm với nhau, từ trái tim tới trái tim, từ tinh
thần tới tinh thần. Không phải luôn luôn, nhưng chuyện như thế có
thể xẩy ra, và đây là một quyền năng số một, độc nhất vô nhị
[unique].
-Điều ông vừa nói làm nhớ tới Những người t́nh
Spoutnik, khi một trong những nhân vật giải thích, rằng “spoutnik”
có nghĩa là “bạn đường” (companon de voyage), Le Spoutnik bị kết án
phải quay ṿng quanh trái đất và không bao giờ được tới gần...
Con người luôn cận kề bên nhau, vậy mà vẫn luôn luôn có khoảng cách
giữa họ, cho dù chúng ta có thể hiểu nhau. Gặp gỡ nhau làm chi, rồi
xa nhau tức th́, rồi làm sao quên được lần gặp gỡ đó, những kỷ niệm
quí báu về nó. Như hai cái spoutnik đi theo quĩ đạo của chúng ở
trong không gian. Chúng ta thoáng thấy nhau, gặp nhau, rồi chia tay,
với kỷ niệm cùng chia sẻ, nó làm cho chúng ta ấm áp, tin tưởng thêm
lên. Đó là điều đáng kể. Những câu chuyện hay, những cuốn sách tốt,
chúng có đó là v́ như vậy. Sau cuốn Kafka trên bờ biển, tôi
mở một trang web trên internet, và nhận được 6.000 emails, tôi đọc
hết tất cả, và tôi gửi trả 1000. Tôi làm việc mọi ngày để trả lời.
Thật là hấp dẫn, và mệt, tất nhiên, nhưng cũng thật quan trọng, bởi
v́ tôi muốn trao đổi ư kiến trực tiếp với những độc giả của ḿnh. Và
cũng thật là kỳ (fanfastique). Tôi có thể có một ư nghĩ về họ, họ là
những ai, họ nghĩ ǵ. Tôi không đọc những nhà phê b́nh, tôi không
tin tưởng họ, nhưng tôi tin tưởng những độc giả của tôi. Kafka trên
bờ biển bán được 300 ngàn ấn bản, nhưng ở Nhật Bản, con số không có
nghĩa ǵ cả. Điều đáng nói, là biết được có cái ǵ ở đằng sau những
con số như thế. Trang web đó thật là quan trọng, thiết yếu đối với
tôi. Tôi như được độc giả nâng đỡ. Một số người chỉ trích sách của
tôi, họ nói chúng làm họ thất vọng, nhưng quan trọng chi chuyện đó.
Tôi biết, làm sao làm hài ḷng tất cả mọi người, nhưng điều tuyệt
vời, là bạn có thể với tay tới tất cả, sờ được tay họ. Internet quả
là một phương tiện thông tin đại chúng (media) lư tưởng cho tôi.
Đúng là một thứ dân chủ trực tiếp, như vào thời kỳ Hy Lạp cổ đại.
Người ta có thể nói chuyện trực tiếp, mặt nh́n mặt, ngay lập tức, và
chẳng khó khăn ǵ hết. Ngay cả cái đó cũng đ̣i hỏi th́ giờ, đến nỗi
sau cùng, tôi phải đóng trang web.
-Những người t́nh của spoutnik có vẻ như là
cuộc gặp gỡ của hai ảnh huởng chính ở trong ông, chuyện t́nh và
chiều kỳ quái (la dimension fantastique)?
Tôi đă không suy nghĩ theo những từ như thế. Tôi muốn viết một tam
giác t́nh bằng cách thay đổi (détourner) cái khung cổ điển, nói rơ
ra là cái tam giác t́nh ở trong cuốn sách của tôi gồm có một liên hệ
đồng tính nữ (relation lesbienne). Người kể chuyện là điểm yếu của
chuyện. Anh ta kể câu chuyện của hai người đàn bà, và hài ḷng nh́n
chuyện xẩy ra như thế đó. Tôi chẳng biết ǵ về những người đồng tính
nữ, mà chỉ dùng trí tưởng tượng của ḿnh. Tôi có cảm tưởng, rằng
ḿnh biết chuyện ǵ xẩy ra giữa hai người đàn bà. “Những người t́nh
spoutnik" kể về những mối t́nh chết yểu, bị kết án ngay từ khởi đầu.
Đây là câu chuyện mà tôi thích nhất, tôi cũng chẳng hiểu tại sao..
-Và bây giờ, ông đang làm về một cái ǵ thế?
Chẳng làm về một cái ǵ. Tôi làm chuyện ngưng, nghỉ. Hôm qua, tôi
gặp Kazuo Ishiguro [nhà văn gốc Nhật, ở Anh, viết văn bằng tiếng Anh,
được giải thưởng The Booker với cuốn Tàn Ngày, The remains of the
day]. Ông ta bảo tôi, ông ta mất ba năm mới viết xong một cuốn sách,
và sau đó dành ra một năm để làm những “tua” (tours) tŕnh diễn,
giới thiệu sách, gặp gỡ báo chí, đi ra nước ngoài – đây là cái điều
mà tuần này tôi làm. Mùa thu này, tôi ngồi vào bàn. Viết đ̣i hỏi rất
nhiều sức lực và nghị lực. Để làm việc, tôi dậy vào lúc bốn giờ sáng,
và viết tới chín giờ. Tôi tập trung hết mực vào việc làm, và hoàn
toàn kiệt lực sau năm giờ đồng hồ. Thời gian c̣n lại, tôi chơi thể
thao hết ḿnh, bơi lội, chạy... Đây là nhịp thường ngày, một kỷ luật
mà tôi nghiêm khắc đặt ra cho chính ḿnh. Để viết, người ta nghĩ ra
những luật lệ cho chính ḿnh, và phải tôn trọng chúng. Cuối cuốn
sách, tôi trống trơn, cạn láng, chẳng c̣n ǵ hết.
-Liền sau đây, ông đi Luân Đôn, gặp gỡ báo chí?
Vâng, mệt thật đấy, nhưng một cách nào đó... Tôi vốn không ưa những
cuộc phỏng vấn, tôi cảm thấy khớp, không thoải mái, Nghề của tôi là
viết, không nói. Đôi khi thật không dễ, cái chuyện giải thích những
t́nh cảm của ḿnh, viết như thế nào, muốn viết cái ǵ, tại sao làm,
cái chuyện viết đó. Bằng trực giác, tôi biết, nhưng bảo giải thích,
hoặc khi t́m cách giải thích, thế là tôi nói ẩu, nghĩa là nói những
điều mà người ta không thể nói.
Jennifer Tran * chuyển ngữ
_________________
* a2a: Jennifer Tran, một bút hiệu khác của
Nguyễn Quốc Trụ
(Source : Tin Van
www.tanvien.net )
trang nguyễn quốc trụ
art2all.net |