Nguyễn Quốc Trụ

 

MẸ CÓ ĐAU KHỔ KHÔNG MẸ ƠI

NHƯ MẸ ĐĂ TỪNG ĐAU KHỔ ...

 

Paul Celan
 

Tại sao thi sĩ, trong một thời đại khốn khổ như thế này?
(Pourquoi des poètes en temps de détresse? Holderlin) 

Theodor Adorno, triết gia Đức gốc Do thái, cho rằng sau cuộc chiến, chẳng những không thể, mà c̣n chẳng nên viết. Rằng, làm thơ ca trữ t́nh sau kinh nghiệm Auschwitzlà một hành động dă man. Một hành động thậm vô t́nh, ngu si đần độn, mà một thi sĩ thực sự chỉ c̣n một cách là tháo lui, chào thua. Hăy hiện hữu trong vắng bóng, trong im hơi lặng tiếng.

Celan cho thấy là Adorno đă lầm. Ông, có lẽ, là thi sĩ duy nhất làm được điều đó.

Đă có nhiều thơ ca viết về Ḷ Thiêu Người, đọc lên nghe cũng cảm động, nhưng chúng không thể trở thành điều khủng khiếp: Ḷ Thiêu Người. Chúng không thể thực hiện được điều này bằng giọng độc nhất của thi ca. Celan, chỉ ḿnh ông, đă làm thế giới đó trở thành của riêng ông, như một nhà thơ.

Ông sinh ra với tên Paul Antschel, đôi khi viết là Ancel, trong một cộng đồng Do thái định cư tại Bukovina, phía bắc Romania. Celan, một tṛ chơi đảo tự, là bút hiệu được ông sử dụng từ năm 1947, và trở thành tên thật. Điều này cũng đặc biệt đối với một thi sĩ từng gọi một trong những thi tập của ḿnh là "Bông Hồng của Không Ai", Die Niemandrose, một từ tiếng Đức, đẹp, không thể dịch được, ôm h́nh ảnh ma quái của một thi sĩ biết anh ta không hiện hữu, ngoại trừ trong những từ mà anh ta tạo nên.

Bao t́nh cảm đối với bậc sinh thành, Celan dồn hết cho bà mẹ. Bà đă từng thủ thỉ với cậu con những vần thơ và cổ văn Đức. Ông viết về bà thật cảm động:

Và mẹ có đau khổ không, mẹ ơi,

như mẹ đă từng đau khổ, ôi chao, một lần ở quê nhà,

Sự dịu dàng, tiếng nói Đức, điệu ru đau buồn đó. 

 

Celan không làm sao quên nổi cái chết của bà mẹ. Vào năm 1942, một năm sau khi Đức xâm lăng, cha mẹ ông bị đưa đi trại tập trung ở Ukraine, nơi người cha chết v́ bệnh bang đỏ, bà mẹ bị giết, h́nh như bị bắn vào sau cổ bởi tụi Đức, sau khi bà ngă bịnh và không thể làm việc. Trong một trại cưỡng bức lao động khác tại Romania, người con sống sót, t́m được cách qua Vienna từ Bucharest, hai năm sau khi chiến tranh chấm dứt, và sau đó, tới Paris vào năm 1948, nhưng thực ra hồn ông vẫn quanh quất ở Ukraine, nơi bà mẹ ngă xuống. Ông đă viết về cái chết của mẹ, trong những vần thơ đầu, bằng những từ giản dị không thể chịu được: 

Cây Bạch Dương

 

Bạch Dương lá trắng trong đêm

Tóc mẹ tôi chẳng bao giờ bạc...

Ṿng sao, cây cuộn ṿng vàng

Trái tim mẹ tôi bị cắt bằng dây ch́.

Cửa sồi kia, ai ép mi kẽo kẹt

Mẹ dịu hiền của tôi chẳng thể trở về. 

 

Đối với Celan, ngôn ngữ độc nhất có thể diễn tả nỗi mất mát lớn lao đó là tiếng Đức, tiếng được nói bởi những người đă gây nên điều đó. Tuy có thể nói được tiếng Romanian, tiếng Yiddish, bà thực t́nh cảm nhận tiếng Đức mới là tiếng mẹ đẻ của bà, như người con sau này đă từng khẳng định: "Chỉ trong tiếng mẹ đẻ, một người mới nói lên sự thực của riêng người đó. Trong tiếng nước người, thi sĩ nói dối." Ông đă nói lên sự thực của riêng ông, bằng tiếng mẹ đẻ và cũng là tiếng của đám người đă giết bà.

Thực sự, vào thời gian chấm dứt cuộc chiến, Celan chưa từng suy nghĩ, ông sẽ là một thi sĩ. Và nếu như vậy, ông sẽ sử dụng ngôn ngữ nào. Ông "ở nhà", trong tiếng Romanian, và bị quyến rũ bởi những tính chất riêng của nó, cảm thấy thích hợp với ḍng thơ siêu thực mà nhiều thi sĩ Romanian thời đó thường làm. Ông hầu như cũng "ở nhà", với tiếng Pháp, và tiếng Nga - ông đă từng viếng thăm Paris trước chiến tranh và có ư định trở nên một sinh viên y khoa - và ngay cả trong thời gian chiến tranh ông đă dịch những thi sĩ được ông yêu thích như Esenin, và Mandelstam. Suốt cuộc đời, ông dịch đủ loại thi sĩ - Marvell, Housman, Emily Dickinson... và rất nhiều thi sĩ khác nữa - nhưng sự thực của riêng ông chỉ có thể thốt lên bằng tiếng mẹ đẻ, tiếng của bọn đao phủ.

Như Mandelstam mà ông ngưỡng mộ, theo đó, thi ca giản dị chỉ là "văn hóa thế giới", Celan cho cảm tưởng, ông có thể đem vào thi ca mọi điều Âu châu và Mỹ châu có thể dâng hiến, trong khi cùng lúc, vẫn là chính ḿnh, một cách trọn vẹn, một cách đau thương, tức tưởi. Nghịch lư này cũng thật hiển nhiên, ở Kafka - Celan đă dịch một số truyện của Kafka qua tiếng Romanian, vào lúc cuối cuộc chiến. Kafka đă làm những độc giả nước ngoài say mê ông ngạc nhiên, khi tỏ ra là một người tin tưởng mạnh mẽ, và ái quốc, đối với Đế Quốc Hapsburg cổ xưa. Cũng vậy, Celan coi Vienna, một trong những thành phố bài-Do thái nhất Âu châu, như Thánh địa thiên nhiên của bất kỳ một dân tộc Trung-Âu có văn hóa: Những dân tộc ngoại vi Đế quốc Áo-Hung đă nh́n Vienna như ngôi nhà tinh thần của họ.

Ở đó, Vienna, vào năm 1947, Celan đă tạo dựng con đường của ông một cách gian khổ, khó khăn. Ông tự tŕnh diện, cùng những bài thơ của ḿnh trước một tạp chí. Một người quen biết hồi đó, sau này viết, về mặt văn chương, không biết ông ở đâu chui ra, một nhận định "cha chú" làm bực ḿnh những đồng hương của Celan, ở Bucharest. Một nhà xuất bản Thuỵ sĩ c̣n hùa theo, khi ca ngợi một cách ngây thơ, Celan đă "vượt mọi khó khăn" làm chủ được tiếng Đức để có thể làm thơ bằng tiếng đó. Làm sao một anh chàng Do thái-Romanian trẻ tuổi từ một vùng đất nhà quê hủ lậu lại có thể làm được điều này? Nhà xuất bản nói trên đă xuất bản một số thơ của Celan vào năm 1948, bài Cây Bạch Dương được xuất bản ba lần trong cùng năm. Như chúng ta đă biết, bà mẹ đă từng thủ thỉ đọc cho cậu con nghe Goethe và Schiller, đă nuôi dưỡng cậu ngay từ khi c̣n nhỏ trong thế giới của Holderlin và Rilke, mặc dù bà đă đôi khi nghi ngờ tài thi phú cùng là tương lai của cậu. Và tuy hai mẹ con thân thiết như vậy, bà chẳng bao giờ để mắt tới những vần thơ Đức của ông, thi sĩ đă có lần chua xót ghi nhận.

Lư do chính của danh vọng tức thời - một điều sau này Celan ân hận và gần như loại ra khỏi cuộc đời của ông - đó là từ một bài thơ "lạ thường" mà ông làm liền sau khi chiến tranh chấm dứt, "Todesfugue", "Tẩu Khúc của Thần Chết". Thực ra bài thơ lần đầu xuất hiện trên báo Romanian, do một người bạn của Celan dịch, mặc dù bản thân ông có thể làm điều này. Tên của bài thơ khi được dịch là "Tangoul Mortii", "Điệu Tango của Thần Chết". Không phải Celan là người đầu tiên đặt tên bài thơ của ông là "Tango của Thần Chết", một tên sĩ quan SS cũng mơ mộng, và đă từng ra lệnh cho một dàn nhạc Do thái ở một trong những trại tập trung soạn và chơi bản nhạc có tên như vậy. Cũng vẫn điệu Tango đă từng được chơi tại Paris khi Celan ở đó vào đầu năm 1939. Ban nhạc sau đó đă phục vụ Hitler và Goebbels, cả hai đều thích điệu Tango, thay v́ Jazz của New York, bị coi là thoái hóa.

Cho dù Tango (văn minh Mỹ châu La tinh) hay Fugue (văn hóa âm nhạc Đức), bài thơ khác thường của Celan không như bất kỳ một "cái ǵ khác" - một nghệ phẩm thực sự, nguyên sơ nào cũng bắt buộc phải như vậy - không giống ngay cả những điều ghê tởm mà nó đă diễn tả, hoặc nó từ đó mà ra. Không phải bài thơ đă "chuyên chở" những điều ghê tởm "bầy ra đấy", nhưng nó tạo nên một viễn ảnh tuyệt đối, của riêng nó, về chúng: Bắt buộc phải như vậy, thi ca vĩ đại "đẻ ra" thế giới của riêng nó.

Chúng ta có quyền nghi ngờ, có một nghịch lư ở đây. Có một điều đáng nghi ngờ về sự "thành công mang tính đại chúng" của bài thơ "Tẩu Khúc của Thần Chết" ở Đức, sau khi chiến tranh chấm dứt, đặc biệt trong giới trẻ, trở thành tṛ thờ phụng, sùng bái. Auden đă từng nói: "Không một thi sĩ nào có thể ngăn cấm chuyện thơ của người đó được sử dụng như là tṛ phù thuỷ." "Tẩu Khúc của Thần Chết" đă đem đến cho người Đức một niềm khuây khỏa "lớn lao, kỳ diệu", ngang xứng với khôi hài đen, một nghệ thuật lớn vốn thịnh hành cùng thời: "Người Đức sẽ chẳng bao giờ có thể tha thứ cho người Do thái về Auschwitz." Nhưng bài thơ, chính bài thơ, trong sự thăng hoa tuyệt vời, hoàn toàn dửng dưng trước tất cả những phản ứng "ngoắt ngoéo", và luôn cả những đáp ứng của trái tim con người.

Tác giả của nó không được may mắn như vậy.

Trong những lần nói chuyện sau đó ở Đức, về thơ ca của ông, Celan đă kết hợp mọi tṛ lịch sự, nhũn nhặn qua một lời nhắc nhở "sắc bén" rằng, tính "hài âm", thuận tai, của thi ca truyền thống Đức, trong những năm chiến tranh đă có thể, "nhiều hay ít không bị bực bội, gây rối, để rong ruổi cùng với những điều ghê tởm nhất." Tính hài âm trong thơ của riêng ông không như vậy. Nó "đă là" sự bực bội, điều gây rối. Và tuy nhiên, bằng một sự khôi hài khủng khiếp, cao độ, có cũng có thể để cho sự bực bội nằm an nghỉ ở trong trái tim, trong tâm hồn người Đức, những người có thể "suy cảm" tội lỗi của họ một cách tuyệt vời, chẳng đau đớn một chút nào, thông qua môi trường đại chúng của bài thơ.

Chẳng có ǵ là ngạc nhiên, nếu sau đó Celan từ chối, không cho phép sử dụng bài thơ trong những bài đọc, hay được in lại trong trong tuyển tập thi ca phổ thông. Cũng chẳng có ǵ là ngạc nhiên, khi ông cảm thấy khốn khổ khốn nạn, mỗi lần thăm viếng nước Đức, và được đón rước rộn ràng, được ca tụng và trao bằng khen, giải thưởng. Ông tự cảm thấy ông là một người Do thái đă được "thuần hóa", một người mà thơ ca nổi tiếng làm cho người Đức cảm thấy thoải mái hơn: tệ hại hơn thế nữa, thơ ca của ông đă được "hạ cấp hóa", trở thành một loại nhạc pop. Thế hệ trẻ có thể nghe, vừa mua vui, vừa chọc quê, vừa dễ dàng kết án đám đàn anh của họ.

Chẳng có ǵ, trong số những điều vừa kể, ảnh hưởng tới hiệu năng, sức mạnh lạc hồn lạc phách, không có chi để bàn căi nữa - của "Tẩu Khúc của Thần Chết". Bài thơ đă được John Felstiner, tác giả cuốn "Paul Celan: Thi sĩ, Kẻ Sống Sót, Một người Do thái" (Yale University Press, 344 trang, 1996), dịch qua Anh ngữ một cách tuyệt vời, và nói về từng chi tiết của bài thơ, từ khúc mở đầu, lừng danh:

Black milk of daybreak we drink it at evening

we drink it at midday and morning we drink it at night

we drink and we drink

we shovel a grave in the air there you won't lie too cramped

A man lives in the house he plays with his vipers he writes

he writes when it grows dark to Deutschland your golden hair Margareta

he writes it and steps out of doors and the stars are all sparkling 

he whistles his hounds to come close

he whistles his Jew into rows has them shovel a grave in the ground

he command us play up for the dance

Black milk of daybreak we drink you at night

we drink you at morning and midday we drink you at evening

we drink and we drink

A man lives in the house he plays with vipers he writes

he writes when it grows dark to Deutschland your golden hair Margareta

Your ashen hair Shulamith we shovel a grave in the air there you won't lie too
cramped...

 

(Tạm dịch:
Sữa đen hừng đông chúng ta uống buổi chiều
chúng ta uống trưa, sáng, chúng ta uống đêm
chúng ta uống và chúng ta uống
chúng ta đào huyệt trên không như vậy bạn sẽ không bị nhồi nhét
Một người đàn ông sống trong căn nhà anh ta chơi với rắn anh ta viết
anh ta viết
anh ta viết khi bóng tối tới Đức, tóc vàng của bạn Margareta
anh ta viết nó và ra ngoài cửa
và muôn sao lấp lánh
anh ta huưt chó săn tới gần
anh ta huưt đám Do thái đứng thành hàng đào huyệt dưới đất
anh ra lệnh chúng ta hăy cố mà vui chơi nhẩy nhót
Sữa đen hừng đông chúng ta uống bạn lúc đêm
chúng ta uống bạn lúc sáng, trưa, chúng ta uống bạn lúc chiều
chúng ta uống và chúng ta uống
Một người đàn ông sống trong căn nhà anh ta chơi với rắn anh ta viết
Anh ta viết khi bóng tối tới Deutschland tóc vàng của bạn Margareta
Tóc tro của bạn Shulamith chúng ta đào huyệt trên không bạn sẽ không bị nhồi
nhét...) - 

cho đến khúc cuối, như điện giật. Khúc này đă xuất hiện trong bài thơ ở những nốt khác nhau, khi được lập lại. Tác giả cuốn sách đă không chuyển ngữ (trong những đoạn lập lại, ông đă cho thấy nghĩa của nó, Death is a Master from Germany / Your golden hair Margareta / Your ashen Shulamith), cho nên, những từ tiếng Đức xuất hiện giống như sự trở về của những hồn ma trong bản dịch của ông:

...der Tod ist ein Meister aus Deustchland

dein goldenes Haar Margarete

dein aschenes Haar Shulamith 

 

Một số bài thơ của Celan nổi tiếng là cực kỳ khó hiểu, nhưng chúng và ngôn ngữ của chúng có cùng phẩm chất tuyệt đối: luôn luôn là chính nó và không là ǵ khác. Bởi vậy độc giả cũng đừng quá đ̣i hỏi "hiểu" chúng một cách trọn vẹn.

Về vấn đề ngôn ngữ, Celan quan tâm tới Heidegger, triết gia hiện sinh, ông vua bí mật của tư tưởng, như Hannah Arendt đă gọi ông. Một bài thơ kỳ lạ và cảm động của Celan có tên "Todtnauberg", nơi Heidegger sống ẩn dật, ở đó nhà thơ đă gặp gỡ triết gia, một người cho đến khi chết vẫn im lặng về số phận của những người Do thái, cũng như về quá khứ chính trị của ông. Có người nói Heidegger luôn tự coi ḿnh là kẻ vắng mặt, và chẳng bao giờ tiếp Celan, nhưng liên hệ giữa hai người, gặp gỡ hay thư từ, cho thấy thái độ thân mật và có ích cho Celan.

Trong những năm tháng muộn màng cuối đời, Celan rất cô đơn, và suy sụp. Khi được trao tặng giải thưởng Bremen Prize cho thơ của ông vào năm 1958, ông tỏ ra thực t́nh biết ơn, nhưng bài cảm tạ của ông cho thính giả thấy Denken và Danken- suy nghĩ và cám ơn, vốn từ cùng một nguồn- hai tiếng này nhắc nhở chúng ta tới "những kẻ khác" cũng nói cùng "ngôn ngữ của chúng ta", một mỉa mai cay đắng của một người Do thái thời kỳ hậu-chiến tại Đức.

Mặc dù nhiều bạn, sự cô đơn đă ăn ruỗng mọi ngơ ngách tâm hồn, cuộc đời ông, như "một người của không ai". Ông luôn đau nỗi đau mà nhà văn, triết gia Do thái Emmanuel Levinas đă từng gọi là "cơn mất ngủ trên chiếc giường đời". Trong một đêm tối trời, vào năm 1970 ông đi xuống một cây cầu trên sông Seine. Chẳng ai thấy ông trầm ḿnh. Thi hài ông măi sau mới t́m thấy ở cuối sông. Trên bàn viết của ông tại một căn pḥng Tả Ngạn, Paris, là tiểu sử Holderlin, có một câu Celan gạch dưới: "Đôi khi thiên tài này trở nên âm u, và ch́m vào cái giếng chua cay là trái tim của ḿnh."

"Paul Celan est mort", "Paul Celan đă chết", một tuần báo hàng đầu của nước Pháp loan tin nóng hổi trên trang nhất. Nhưng bài viết kể thêm, ông thuộc loại nhà thơ "vô danh" tại Pháp, xứ sở mà ông đă từng chọn lựa, mặc dù bao lần được Israel mời gọi. Nhưng bài thơ cuối cùng của ông, viết trước khi chết không lâu, mang tên "Gửi về Sabbath." 

 

Jennifer Tran 

(Theo bài viết của John Bayley, The New York Review of Books, Nov 14, 1996)

 

(Nguồn : Tin Văn

www.tanvien.net )

 

 

art2all.net