Khi
về già, Giambologna thường kể cho bạn bè nghe,
lần đầu ông tới gặp Michelangelo với tác phẩm
đầu tay, hoàn thành với "tất cả hơi thở" của
ḿnh. Michelangelo cầm lên coi, rồi đập bỏ, và
nặn lại. Tác phẩm sau đó hoàn toàn khác hẳn với
cái đă bị huỷ bỏ. Ông thầy nói: Hăy đi đi, và
học nghệ thuật nắn tượng, trước khi học nghệ
thuật hoàn thành.
Ngoài chuyện học nắn tượng trước khi học hoàn
tất, c̣n một bài học cay đắng hơn, tàn nhẫn hơn
nhiều: Hăy coi ta huỷ diệt tham vọng, và luôn cả
khát vọng của mi. Ta cho mi thấy tác phẩm của mi
non nớt như thế nào, so với của ta, để coi mi có
dám "bước qua bực thềm", có dám vượt ta hay
không. Thus I destroy you!
Có dám vượt thầy hay không, liệu có khác thầy
được chút nào không, cá nhân người viết cũng đă
có những băn khoăn tương tự như vậy, những ngày
đầu mơ tưởng viết.
Năm đó học Đệ Nhị. Chung với Nguyễn Hải Hà, Ngô
Khánh Lăng... Cùng một đám vừa thi đậu Trung Học
Đệ Nhất Cấp, học ba tháng hè chương tŕnh lớp Đệ
Tam, rồi vào niên học nhẩy lên Đệ Nhất với thầy
Đoàn Viết Lưu, khi thầy vừa mở trường Hồng Lạc ở
đường Sương Nguyệt Anh. Việt văn, thầy Vũ Hoàng
Chương. Pháp văn, thầy Roch Cường, và cuốn đắc ư
nhất của thầy, Le Petit Chose, của A. Daudet. Hà
và tôi cùng có chung đam mê Toán. Có điều tôi
không biết là bạn ḿnh c̣n mê văn chương, và sau
này khi đi cải tạo về, chỉ c̣n một đam mê, vẫn
từ thuở c̣n đi học, nghe đâu, nhờ nó mà anh vượt
qua được những ngày tháng khó khăn sau đó: sưu
tập tem.
Một bữa anh đưa tôi tờ báo Sáng Tạo, h́nh như bộ
cũ, lâu quá tôi không c̣n nhớ rơ. Và đột nhiên
tờ báo làm sống lại nỗi đam mê thầm kín từ ngày
c̣n nhỏ, bấy lâu bị nỗi đam mê Toán nhận ch́m.
Trong đám bạn học chung, có lẽ tôi là đứa cực
nhất. Ngày đi học, tối làm bồi bàn tại tiệm chả
cá Thăng Long, chỗ quen biết, "gởi gấm" của ông
anh, Nguyễn Hoạt.
"Chả là" ông anh quen, và c̣n là "đồng chí" của
Như Phong. Tiệm chả cá Thăng Long lại là chỗ bà
con của "Cô Thần" (bút hiệu của Như Phong khi
viết mục Tin Miền Bắc, trên nhật báo Tự Do,
những ngày đầu di cư), tức gia đ́nh Thạch Lam.
Một lần, tôi đang lúi húi đổ xoong mỡ sôi lên
dĩa chả cá, đang "say mê" nghe tiếng mỡ reo "xèo
xèo", bỗng ông khách vỗ vai tôi, nói: "Hừ...".
Hoảng quá, tôi ngẩng lên nh́n, th́ ra là thầy
Đoàn Viết Lưu, cùng đi với bà xă. Từ đó, thầy
không lấy học phí của tôi nữa. Đó là kỷ niệm êm
đềm nhất mà tôi c̣n giữ được, của một thuở bồi
bàn.
Rồi thi đậu Tú Tài phần một. Khi đó trường tư
chưa có Đệ Nhất. Tôi được vào Chu Văn An, hiệu
trưởng là thầy Trần Văn Việt, khi nhà trường c̣n
nằm nhờ phía sau trường Pétrus Kư. Học chung với
đám dân trường tư, trong có Chất, em anh T. Qua
Chất, tôi có thêm một số bạn, Cẩn, Quốc, Sủng,
Luận, Tín. Đúng 7 đứa. Nhà bà cụ Chất là nơi
chúng tôi thường tụ họp. Ngay từ những ngày đầu
tới chơi, thấy anh T. ngồi co cả hai chân lên
ghế, trước một cái bàn nhỏ ở góc nhà, tôi đă
tưởng tượng, phải nói là đă mơ ước, tương lai
của ḿnh sau này rồi sẽ y hệt như vậy.
Tôi đă đọc Bếp Lửa, khi cuốn sách "xuống đường".
Tôi vẫn nghĩ, nếu cuốn sách không được nhà xuất
bản Nguyễn Đ́nh Vượng quyết định đem ra bán "xôn",
liệu nó có t́m ra những độc giả của nó hay không.
Tôi muốn nói, tôi đă đọc cuốn sách vào đúng lúc
mà, như Paul Nizan đă nói giùm: Tôi năm nay hai
mươi tuổi và không cho phép ai được nói, đó là
tuổi đẹp nhất trong một đời người. Tam Ích có
lần than thở, tuổi trẻ của ông thật không may,
v́ đúng vào lúc mơ mộng nhất, ông lại vớ phải
những cuốn sách viết về những ḷ thiêu người của
Đức Quốc Xă. Có lẽ tôi chỉ may mắn hơn ông một
chút xíu.
Sau Bếp Lửa là Kẻ Xa Lạ, của Camus, rồi Bức
Tường, Buồn Nôn, của Sartre.
Bếp Lửa làm tôi nhớ Hà-nội, cùng nỗi đam mê viết
về tuổi thơ, về đất Bắc. Trên hết, và sau hết
vẫn là câu hỏi, nhức nhối đến tận bây giờ: Tại
sao bỏ vào Nam.
Kẻ Xa Lạ là cơn choáng váng về phận người, cho
dù không có cuộc chiến đang chờ đợi: Suy nghĩ
coi cuộc đời có đáng sống hay không.
Năm đó, cả bọn thi rớt khóa một. Chất, Quốc và
tôi được bà cụ thương t́nh cho đi Nha Trang tắm
biển. Cuộc đi chơi do sở Hỏa Xa tổ chức cho con
em, gia đ́nh nhân viên. Tụi tôi được đi ké, nhờ
bà Thừa là bạn bà cụ Chất, đứng ra tổ chức.
"Villa trông ra biển. Tường phía trước thấp...",
truyện ngắn "Những con dă tràng", truyện đầu tay
của tôi được viết ra từ cát, biển Nha Trang,
nhưng thực ra là từ cái không khí "chết người"
của Kẻ Xa Lạ, của Buồn Nôn: Tôi tự hỏi cớ sao
lại sợ hăi một thế giới b́nh thường như vậy...(Sartre.
La Nausée).
Khi đó Dương Nghiễm Mậu, với truyện ngắn "Rượu
chưa đủ", đăng trên Sáng Tạo bộ mới đang là một
xôn xao trong đám chúng tôi, những đứa trẻ vẫn
mơ hồ hy vọng, con đường độc nhất để thoát ra
khỏi cuộc chiến, để đừng bị nó huỷ diệt một cách
tức tưởi, chỉ là con đường văn chương. Khi tôi
viết "Những con dă tràng", chủ yếu là để giải
tỏa cơn đau do Kẻ Xa Lạ gây nên, và tuy hứa với
ḷng ḿnh, đó là con đường phải chọn, nhưng chưa
phải lúc này. Tôi vẫn nghĩ, phải học đă, rồi
muốn ǵ th́ muốn. Vả lại khi đó đam mê đọc mạnh
hơn nhiều. Đọc hối hả, đọc ngày, đọc đêm, đọc
bất cứ cái ǵ vướng vào mắt. Đọc như để chạy đua
với chiến tranh. Hơn nữa, sách tiếng Pháp loại
bỏ túi, chương tŕnh Thông tin & Văn hóa, IC
(Information & Culture), được chính phủ Pháp tài
trợ cho nên giá rất rẻ, để "cạnh tranh" với văn
hóa Mỹ, theo suy nghĩ của A. Malraux: người Pháp
đă ra đi, nhưng nước Pháp vẫn ở lại (Anti-mémoires).
Viết xong, tôi gửi thẳng tới ṭa soạn, h́nh như
ở đường Cô Bắc, hay Cô Giang [đúng ra là đường
Kư Con]. Vài hôm sau, một buổi tối, bà cụ Chất
hỏi tôi: "Mày viết truyện hả?. Tôi ngớ người. Bà
cụ cho biết, anh T. có nói tôi viết "được" và
tiên đoán, tôi có thể "đi xa".
Anh đọc truyện đoán ra được tác giả, cũng dễ v́
chuyện đi Nha Trang mới đó. Và trong truyện thấp
thoáng bóng cô Hà, "Hà cóc khụ" như bà cụ vẫn
thường gọi đùa, cô gái út của bà Thừa. Bây giờ
tôi vẫn nghĩ, đă có thời tôi say mê cô Hà, như
một cái ǵ không thể vươn tới được. Tôi vốn có
mặc cảm con nhà nghèo, và qua đó, tôi vẫn nghĩ
những cô gái nhà giầu không thuộc về ḿnh, lư do
là ḿnh không thể chấp nhận. Yêu là một chuyện
khác, lấy nhau lại là một chuyện khác. Tôi không
thể tưởng tượng, một thằng con trai nhà nghèo,
cố ăn học, rồi từ bỏ giai cấp của ḿnh. Ấu trĩ
phải không các bạn. Có người quen c̣n đổ diệt,
bản chất tôi là một VC thâm căn cố đế, c̣n hơn
chất Bắc kỳ di cư rất nhiều!
Trở lại chuyện cô Hà. Có lần tôi viết cho cô một
lá thư, đại để: Đây là lá thư thứ nh́, bởi v́ lá
thư thứ nhất kể như không có. Kể như là chuyện
anh yêu em, em đă biết rồi, và đă được em chấp
nhận. Sau bức thư, một buổi sáng tôi cuốc bộ đến
trường Thánh Mẫu ở khu Hoà Hưng chờ đón cô tan
học về. Ngày trọng đại, hút đâu cỡ chừng cũng cả
gói thuốc lá. Khi tan trường ra, trông thấy tôi,
chắc cô cũng có chút bối rối, nhưng thản nhiên
kêu xích lô đi một mách, ra ư, ngay cả một bức
thư tỏ t́nh mà anh cũng không viết nổi, nói chi
đến chuyện yêu thương, khoan nói chuyện ăn đời ở
kiếp.
Cát, biển, Nha Trang làm nên truyện ngắn, nhưng
cử chỉ đi không thèm nh́n lại có thể ảnh hưởng
tới số phận tác phẩm, và luôn cả tác giả. Sáng
Tạo, qua bà cụ Chất cho biết, tính đăng, nhưng
liền sau đó đóng cửa. Rồi t́nh cờ tôi thấy tên
tôi trong mục hộp thư của báo Văn Nghệ. Tôi nghĩ
chuyện của tôi đă được anh T. chuyển qua. Không
thấy được đăng, tôi cũng bỏ luôn chuyện viết
lách, lo học hành, thi đậu Tú tài hai, vô Đại
học Khoa học, rồi v́ không có tiền theo đuổi,
nhân trường Bưu Điện vừa mới mở, tôi thi vô. Rồi
ra trường, đi làm. Thời gian Huỳnh Phan Anh học
Đại Học Sư Phạm Đà Lạt, làm tuyển tập văn nghệ,
lấy đăng.
Bài học anh T. dạy tôi không xuất phát từ chuyện
tôi viết "được", c̣n có thể "đi xa", điều này
chỉ cho tôi thêm an tâm trong việc lựa chọn một
cuộc đời "trăm năm rách nát", nhưng từ một kinh
nghiệm, chắc là của riêng anh: Hăy đọc thật
nhiều, rồi một ngày nào đó, sẽ t́m ra ḍng văn
chương thích hợp. Truyện đầu tay của tôi được
viết ra chỉ để giải tỏa một ẩn ức nhất thời hơn
là một ám ảnh văn chương. Sau này tôi học ở
Faulkner cách sử dụng mạch ngầm, mạch rẽ. Đây là
một phá thể, phá văn mạch cũ của văn chương Việt
Nam, vốn trọng cách viết câu ngắn, sáng sủa,
rành mạch, kiểu "Tự Lực Văn Đoàn". Một cách chủ
quan, tôi vẫn nghĩ cách viết đó quá tù túng,
không thể diễn tả nổi tâm trạng phức tạp của ư
thức, của tiềm thức. Hơn nữa theo tôi, cái dấu
chấm rất nguy hiểm, nhiều khi cho người đọc hơn
là cho người viết. Các cụ ngày xưa không chấm
câu, cũng không khen văn chương rành mạch, sáng
sủa, mà chỉ nói, hơi văn mạnh hay yếu. Có khi
hơi văn, khi đọc, bị chặn lại, chỉ v́ một dấu
chấm, khi viết. Bởi v́ người đọc là một đồng-tác
giả, đối với tác phẩm.
Phải t́m một cách viết mới và từ đó, văn chương
sẽ đổi khác. Chỉ măi sau này, vào năm 1965, khi
tôi bị tai nạn phải nằm trong nhà thương Grall,
đúng lúc đó tôi đọc một bài thơ của một người
bạn, Cao Thoại Châu, trên tuần báo Nghệ Thuật.
Bài thơ như tạo hứng cho tôi, thế là tôi lôi mớ
bản thảo cũ, sửa lại, gửi đi. Đó là truyện "Những
ngày ở Sài-g̣n" đăng trên Nghệ Thuật số 9, cùng
với truyện ngắn cũng đầu tay, chắc vậy, của Cung
Tích Biền: Ngoại ô Dĩ An Và Linh Hồn tôi. Lần đó
tôi nhờ Quốc, khi anh tới thăm tôi tại nhà
thương, đưa cho anh T. Tên truyện ḷng tḥng: "Những
ngày JL và SR ở Sài-g̣n". JL và SR là tên tắt,
dùng trong nghề nghiệp khi phải liên lạc trên
mạch viễn kư, của hai chuyên viên Phi Luật Tân,
Limchoc và Soriano, tới Sài-g̣n giúp Bưu Điện
thành lập mạch viễn kư dành cho báo chí, thông
tấn ngoại quốc, sau chết tại nhà hàng nổi Mỹ
Cảnh. Anh T. rút ngắn tên truyện và sửa giùm tôi
một lỗi nặng: khi đọc Faulkner, tôi đă lầm lẫn
hai từ "climatique" (khí hậu) và "climatérique"
(khổ đau). Truyện ngắn kết thúc bằng những ḍng
chữ: "Tôi mơ ước khi đứng trước cổng nhà thương
Grall nh́n ra ngoài đời và lúc đó chiến tranh đă
hết." Khi viết câu đó, trí tưởng tôi hoàn toàn
bị chế ngự bởi hai câu thơ của Cao Đ́nh Vưu, tức
Cao Thoại Châu: "Xin lấy máu làm dầu thắp sáng.
Cho con cháu ḿnh soi tỏ mặt nhau".
Sau khi ra nhà thương, anh T. nhắn tôi xuống ṭa
soạn lấy tiền nhuận bút. Tôi xuống, gặp Mai Thảo,
Thanh Nam, và Viên Linh. Rồi sau đó, khi Viên
Linh thế Thanh Nam làm Tổng Thư Kư ṭa soạn, anh
đề nghị tôi viết thường trực cho Nghệ Thuật. Tôi
áp dụng một bài học khác của anh T. dạy tôi, qua
kinh nghiệm của Nguyễn Đ́nh Thi khi viết Triết
Học Nhập Môn: Học, đọc tới đâu, viết giới thiệu
với độc giả tới đó. Tôi giới thiệu Beckett, nhóm
tiểu thuyết mới, bàn về thế nào là văn chương
dấn thân... Sau này khi viết Tạp Ghi cho Vấn Đề,
tôi tiếp tục giới thiệu những "ông thầy" của tôi
như Lévi-Strauss, Roland Barthes...
Cuốn "Độ không của cách viết" (Le Degré Zéro de
l'Écriture) của R. Barthes và những bài viết
Essais Critiques của ông đă cho tôi thấy rơ lằn
ranh phân biệt văn chương và cuộc đời, giữa thực
tại văn chương (réalité littéraire), hay thực
tại giả tưởng (fictional reality) và thực tại
đời sống (réalité vécue). Nó là một nhưng không
phải là một. Ai đă học qua Toán Đại Cương, hoặc
có nghiên cứu về ngành Tân Toán Học, chắc biết ư
niệm isomorphisme. Tôi xin tŕnh bày sơ qua đây,
để bạn đọc có thể nhân đó phân biệt hai thực tại
trên.
Chúng ta đều biết con số vô tỷ, hay căn số
(root). Thời Pythagore, con người chỉ có thể
giải thích nổi sự hiện hữu của các số chẵn, lẻ,
thập phân. Theo truyền thuyết, khi có người cắc
cớ hỏi, làm sao giải thích nổi chiều dài đường
huyền một tam giác vuông cân có cạnh bằng 1, các
đệ tử của Pythagore đêm đến được lệnh thầy cho
người đó đi ṃ tôm, bởi v́ nếu bí mật về một con
số vừa chẵn lại vừa lẻ, tức căn số (Muốn chứng
minh, đặt a/b= căn của 2), lọt ra ngoài th́ tan
tành học thuyết Pythagore, theo đó, thế giới
được tạo dựng từ những con số.
Măi đến cuối thế kỷ 19, Toán Cổ điển mới giải
thích nổi bài toán nhức đầu này khi đưa ra ư
niệm về sự chia cắt (notion de coupure), chia
đoạn thẳng ra từng lớp (classe) những con số.
Tân Toán học lại giải thích bằng ư niệm về sự
trương nở (extension) của các thể (corps). Thành
thử có ba con số căn: Một có thực, ở ngoài đời,
một, trong Toán Cổ điển, và một trong Tân Toán.
Chúng là những isomorphismes. Trong thế giới của
ngôn ngữ, một sự thực ngoài đời, khi đem vào
trong văn chương, phải được hiểu như là một giả
tưởng. Căn số theo Toán Cổ điển, được "bịa đặt"
ra nhằm giải thích sự hiện hữu của một con số, "giống
hệt như nó", ở ngoài đời, nhưng quan trọng hơn,
nhờ ư niệm về sự chia cắt, toán học nhận ra sự
uyển chuyển của những con số, mở đường cho toán
vi tích phân. Như vậy nó đáp ứng một nhu cầu trí
tuệ, vừa cấp thiết, vừa lâu dài, của con người.
Cũng vậy văn chương chỉ là dối trá, bịa đặt,
nhưng qua đó, nó biểu lộ một sự thực, "thực" hơn
cả đời sống.
Sở dĩ mượn toán học như một cái cớ, để đưa ra
một giải đáp cho một câu hỏi mang tính nhị
nguyên, văn chương là thực hay là ảo, chỉ v́ nỗi
đam mê từ hồi c̣n cắp sách đến trường, và cũng
để tạ lỗi cùng nàng tiên toán học, cơi tưởng
tượng của mọi cơi tưởng tượng, nỗi đam mê ngoài
đam mê.
Sau này, khi đọc Michel Foucault, tôi cũng thấy
ông nói tới "déchirememt entre la vie et
l'oeuvre", "la grande coupure épistémologique"
(1) và nhận ra isomorphismes giữa những cơn điên
khùng và những ḍng thơ của Holderlin.
Qua đây, đọc "Tổng quan Văn học" của Vơ Phiến,
thấy ông phàn nàn, Miền Nam không có những nhà
phê b́nh như Vũ Ngọc Phan của thời tiền chiến.
Riêng tôi, khi đi vào phê b́nh, lúc đầu thực sự
chỉ nghĩ, như là một cách giới thiệu với độc giả
Việt Nam những khuynh hướng, trào lưu văn học
mới, làm sao đưa quan niệm thưởng ngoạn của độc
giả lên ngang tầm với thời đại, xoá bỏ mặc cảm
chậm tiến, thân phận da vàng, nhược tiểu trong
văn chương, trong cuộc đời và trong cả cuộc
chiến, giúp người đọc và luôn cả người viết có
một số dữ kiện qua đó có thể thẩm định sức đọc,
tiềm năng văn chương, và nhận ra vóc dáng của
đứa con tương lai. Tôi vẫn nghĩ, văn học Việt
Nam lúc đó cần sáng tác hơn là phê b́nh. Và nếu
cần, th́ là một thứ phê b́nh khác, không như
quan niệm cũ về nó, kiểu đánh giá, khen chê, ngự
sử văn đàn. Hiểu như vậy, Miền Nam cũng có những
phê b́nh gia "nhà nghề" nhưng không như Vũ Ngọc
Phan, thí dụ Đỗ Long Vân. Phê b́nh đối với Đỗ
quân, là sáng tác. Là sáng tác của sáng tác. Là
thơ. Và trên cả thơ, đó c̣n là con đường t́m lại
một nền văn minh, thí dụ như "con đường tơ lụa"
mà Đỗ Long Vân đă nhận ra khi đọc (hoặc ngắm)
Kiều. Bạn đọc vài trang viết về Truyện Kiều, về
Nguồn nước ẩn trong thơ Hồ Xuân Hương, sẽ thấy
tham vọng của họ Đỗ, muốn t́m dấu chân của con
người qua dấu ấn ngôn ngữ. Quan niệm phê b́nh
của ông có vẻ như muốn tin rằng có văn chương
rồi mới có con người! Sau này, những nhà phê
b́nh thuộc trường phái cơ cấu đă chủ trương khai
tử tác giả, chỉ giữ lại văn bản, là vậy. Tương
lai chúng ta cũng sẽ vẫn có những nhà phê b́nh,
những người bỏ công sức, thời giờ, tiền bạc và
luôn cả tài năng, làm công việc vô vị mang nhiều
phiền toái là công việc sắp xếp khuynh hướng,
thời đại, tác giả, tác phẩm... nhưng có được một
Đỗ Long Vân, thấy c̣n nhờ may mắn.
Bao nhiêu năm nh́n lại, tôi nh́n ra thất bại của
bản thân, khi t́m cách thay đổi văn mạch cũ của
văn chương Việt Nam. Sự thất bại không phải v́
ḍng văn chương mới mẻ đó không thích hợp với
quan niệm thưởng ngoạn của đa số độc giả, mà là:
Tôi quá bị ám ảnh bởi vấn đề kỹ thuật. Một cách
nào đó, tôi đă không lănh hội được bài học của
Kafka, khi ông cho rằng, kỹ thuật chính là hữu
thể (être) của văn chương. Rơ ràng, câu văn bị
kỹ thuật non nớt, sự vụng về, tham vọng làm mới
văn chương... tàn phá, trở thành vụn nát. Nhưng
lối viết đó không phải là một thất bại. Theo tôi,
trong cuốn "Cây gậy làm mưa", Đỗ KH. cũng đă thử
nghiệm một lối viết mới "na ná" như vậy, và hơn
thế nữa, tác giả đưa luôn những mạch văn "ngoại
lai", những ngôn ngữ " quốc tế"... vào trong văn
mạch Việt Nam.
Bao nhiêu năm nh́n lại, tôi vẫn thèm không khí
gia đ́nh, những ngày quây quần dưới gối bà cụ
của Chất. Cụ tiên đoán về tôi, rồi mày sẽ y hệt
ông S. thôi. Cụ đă tiên đoán đúng, nhưng có một
chút sai về cuối đời tôi. Có thể v́ tôi may mắn
được anh T. xem như là đứa em ruột, hơn là một
đàn em văn nghệ. Chẳng bao giờ anh phê b́nh
chuyện viết lách hay dở của tôi, ngoài những lời
tôi nghe qua bà cụ, về truyện ngắn đầu tay. Anh
thường nói chung chung, đại khái, nhà văn Việt
Nam thường "chết non", cứ viết xong thời thanh
xuân là hết. Tôi nghĩ, anh muốn khuyên tôi, hăy
cố gắng viết, từ những ḍng chữ cuối cùng của
cuộc đời, khi mà những hào quang rơm, hoặc rởm
đă tắt lịm. Hay như bài học của Michelangelo,
hăy lo viết chứ đừng lo kết thúc nó.
Bài học của Michelangelo theo tôi c̣n liên quan
tới khoảng cách giữa người viết và người đọc.
Viết là phần của tác giả. Kết thúc là thuộc về
độc giả. Hiểu như vậy, nhà văn chỉ viết cho
chính ḿnh. Khi viết xong, tác phẩm hết c̣n là
của người đó. Khi bị tra vấn, nếu cần, người đó
lại viết một cuốn sách khác.
NQT
Ư niệm "coupure épistémologique" (đứt đoạn
tri thức luận), được Gaston Bachelard đưa vào
nghiên cứu "triết học của khoa học", sau được
Althusser sử dụng khi đọc Marx. (Chú thích của
John Johnston, khi dịch sang Anh ngữ bài phỏng
vấn M. Foucault, "The discourse of History", in
trong tập "Foucault Live" nhà xb Semiotext(e)
Foreign Agents Series, Columbia University,
1989).