những ngày ở Sài Gòn
Tặng Phạm Năng Cẩn
Gấu đứng chống nạnh. Người ngồi quay lưng lại,
là Trần Bảo Thạch, Nơi tôi làm việc là tầng lầu trên cùng một building, bất động sản của người Pháp; tôi là chuyên viên kỹ thuật lo sửa chữa máy móc, trông coi đường dây liên lạc vô tuyến điện thoại, viễn ký, viễn ảnh từ Sài Gòn tới những thành phố lớn, thủ đô các quốc gia trên thế giới. Do hoàn cảnh địa dư, buổi sáng tôi có thể chào buổi chiều, "Good Evening", với một đồng nghiệp ở California; nếu rảnh rang, tôi có thể hỏi thăm hoặc bông đùa đôi câu với một nữ điện thoại viên ở Hongkong, hoặc Tokyo… Buổi chiều, tôi có thể biết thời tiết một Paris buổi sáng; tôi hỏi thăm những đồng nghiệp không bao giờ gặp mặt, có phải tuyết bắt đầu rơi, mùa đông ở nơi xa xôi đó có gì tương tự với những ngày giá lạnh của miền quê hương cũ… Chiến tranh ngăn chặn quá khứ một quê hương phải rời bỏ, ngăn chặn tương lai, và cùng với nó, tất cả những ước mơ khiến chúng tôi nhìn rõ nỗi thất vọng của nhau, cùng cách thức mà từng đứa lựa chọn để biểu lộ nỗi phiền muộn của mình… Lãng tìm cách tự cứu, tập Yoga, ăn cơm gạo lức muối mè, xa lánh bạn bè, những bức thư của anh thường tận cùng bằng câu, "Bao giờ thì hoà bường?" Không bao giờ anh dùng từ "hoà bình", như sợ hãi, ghê tởm… hoà bường, hoà bường, trong trí tưởng tượng của tôi, người bạn những năm trung học trở thành Rip Van Winkle, nhân vật của Koestler, gã tù nhân khốn khổ suốt ngày lảm nhảm khẩu hiệu ghê gớm nhất thời đại, "Bebout les Damnés de la terre!"; "bebout" thay vì "debout", "Vùng lên hỡi những kẻ trầm luân…" biến thành "Tùng lên, tùng lên…". Còn Vưu đọc đi đọc lại một cuốn sách cũ nát bấy, khi tôi hỏi tìm gì, anh trả lời, "Les pages érotiques" (Những trang khiêu dâm). Tường tự tạo cho mình những cơn khoái lạc, tưởng tượng trên thế gian không còn đàn bà… Chúng tôi không chết vì đã chót sinh ra, đã chót già, nhưng chết vì cuộc chiến không phải do chúng tôi gây nên, và không phải chúng tôi muốn tiếp tục, "Tôi năm nay hai mươi tuổi và không cho phép bất cứ một ai được nói, đó là tuổi đẹp nhất trong đời một người" (1).
Chiến tranh, đó không phải thứ khổ đau mà có khi
con người phải tạo ra như một cái cớ để đương
đầu, để tìm kiếm một thứ hạnh phúc biết đâu ở
phía sau, ở phía bên kia niềm khổ đau. Chiến
tranh đó là một thứ khổ đau được nhân lên không
biết bao nhiêu lần, không xây dựng mà là hủy
diệt, ngăn cỏ mọc, huỷ những lời nói yêu thương,
hạnh phúc, những tình tự… Mai nói bằng một giọng
đều đều, "Anh Tam vẫn tỏ vẻ ghét chiếc mũ sắt
nặng nề. Người ốm nhom, mắt cận thị, anh mặc áo
thung, đội chiếc mũ sắt đứng trước gương ngắm
nghía, một lát sau anh quay nhìn Mai, nói đùa,
"Chết như thế này không ổn, nặng quá… không phải
ý nghĩa của cái chết, mà là cái chết trở thành
một đồ vật nặng nề…", hôm đó anh dẫn mấy người
lính đi tuần tra quanh vùng đóng quân, một người
lính giẫm phải mìn… Mai lật từng tấm vải trắng
phủ mặt những xác chết nhưng không thể nhận ra
một trong những tử thi đó, là anh Tam của Mai
ngày xưa. Thần Chết như chơi trò đố tìm với Mai,
và đã xóa hết những dấu vết quen thuộc, như muốn
đánh lừa, hoặc muốn che giấu Mai một ý nghĩa nào
đó, hoặc một lời dặn dò của người đã chết… Phải
tưởng tượng xác chết giá lạnh kia, là người thân
thương ngày xưa, phải tưởng tượng khoảng trống
kia là cái miệng vẫn tươi cười, khoảng sâu hoắm
cao hơn chút nữa là đôi mắt long lanh nhìn Mai
tuần trước… Phải hiểu rằng chết là như thế đó,
và đời sống lúc này phải kết thúc như vậy, không
có cách nào khác. Anh Thụ, người con trai độc
nhất của bác Mai, anh Tam và Mai là bạn từ hồi
nhỏ, cả hai người con trai đều luôn luôn chiều
chuộng săn sóc Mai, đứa con gái ốm yếu, gầy còm,
vừa cất tiếng khóc chào đời, mẹ đau nặng, phải
tập sống bằng nước cơm, suốt đời không biết mùi
sữa mẹ, thay vào đó là mùi vị căn bệnh phong
thấp quái ác, mỗi lần thời tiết thay đổi, hai
chân tê cứng không làm sao cất bước… Anh Thụ đi
lính, anh Tam bắt chước, anh Thụ chết trước độ
một năm, anh Tâm theo luôn, hai nấm mồ, cái hàng
trước, cái hàng sau, cùng một hàng dọc… Ngày Mai
đậu Tú Tài, anh Tam được tin liền bảo Mai, "Anh
sẽ tặng Mai một món quà thật đặc biệt", món quà
đặc biệt của anh Tam là chiếc nhẫn… Lần đầu tiên
anh làm Mai sợ. Mai yêu anh Tam nhưng không hiểu
tình yêu là gì. Mai, đứa con gái biết ý nghĩa
của cái chết trước khi biết ý nghĩa của sự sống,
biết mọi người đều phải chết trước khi biết mọi
người có thể sống, có thể yêu thương nhau. Mai
có người yêu trước khi có tình yêu. Bây giờ,
những lần đọc tiểu thuyết, đi coi chiếu bóng,
thấy người ta yêu nhau, người ta tình tự, vuốt
ve, hôn nhau… Mai chưa hề có diễm phúc hưởng
chúng, chưa hề có tình yêu đó. Mai có một tình
yêu khác, một người yêu khác. Mai thôi làm việc. Những dòng chữ cuối cùng nàng viết cho tôi trước khi từ biệt, là trên mẩu giấy ghi điện đàm mạch Sài Gòn – Hoa Kỳ: một người lính Mỹ đang nói chuyện với người yêu: "I love you" – "Don’t say anything. Let’s me think good about you before leaving" (Đừng nói gì hết. Để Mai nghĩ tốt về anh trước khi từ biệt). Tiếng nói người lính đầy những lệ, người yêu của anh đang nói những lời vĩnh biệt…
***
Niên học cuối của Lan Hương ở bậc trung học bắt
đầu bằng những buổi sáng sớm giá lạnh xô đẩy trí
nhớ tôi tìm lại Hà Nội, tôi thức giấc sớm, thân
thể rét run, bàng hoàng tưởng như đang run rẩy
trong một buổi sáng nào đó trong Hà Nội, tưởng
như chiến tranh đã hết. Những địa danh như Hà
Nội, Việt Trì, Sơn Tây, Ba Vì, Yên Bái, Đồn
Vàng… chẳng gây ở nơi Mai một xúc động nhỏ nhặt,
nhưng đã trở thành một phần của thân thể tôi, và
tiết trời giá lạnh đã đốt cháy nén hương làm tất
cả sống dậy. Những buổi học trong rừng, trên
những căn nhà sàn miền thượng du Bắc Việt, xen
lẫn tiếng thầy giáo giảng bài có tiếng chim kêu
kỳ lạ, tiếng người hú gọi nhau vang âm khắp
thung lũng, ngày nào tản cư rời xóm làng miền
quê nội ngoại ven sông Hồng, đi sâu mãi vào vùng
núi Tản Viên Ba Vì, đi bộ suốt đêm, một chiếc
chiếu gấp đôi choàng qua vai làm ấm ngực, đứa
trẻ vừa đi vừa ngủ gật, một lần đi qua một khu
rừng thông, tiếng thông reo, và còn reo mãi cho
tới bây giờ. Những buổi chiều một mình lang
thang trên những ngọn đồi vùng Phú Thọ, những
khóm sim mọc hỗn độn trên những ngọn đồi chập
chùng chạy dài mãi phía xa, lẫn dần vào bóng
chiều đã xẫm, (bây giờ, đôi lần tình cờ đọc câu,
"qua những đồi hoa sim, mầu tím hoa sim tím cả
những chiều hoang biền biệt", toàn thân bị dĩ
vãng ấu thời chiếm đoạt, run đến nổi gai ốc…).
Những buổi sáng thơ thẩn trong rừng lần theo một
tiếng chim lạ, hoặc loay hoay dò theo một vết
nứt tìm giò măng dưới mặt đất… những năm tản cư
trở thành những năm du lịch miền núi đồi thượng
du Bắc Việt. Những giếng nước do những viên đá
sắp xếp, buổi sáng hơi nước bốc lên nghi ngút,
nhúng tay sâu, hơi ấm theo bàn tay thấm vào hết
người. Mùa hè chợt tới, những dòng suối trong
vắt, nước lạnh buốt, những viên sỏi dưới dòng
suối long lanh như những viên ngọc, đàn gà rừng
mầu sắc rực rỡ bay tán loạn khi thấy bóng người,
sườn núi phía trước sương mù che phủ trắng xoá,
lấy hai tay để lên miệng làm loa, cất tiếng hú,
âm thanh vang rền, đập đi đập lại, một hồi lâu
sự yên tĩnh mới trở lại, tuổi thơ của tôi không
có gì đáng phàn nàn…
***
Gấu và
Phạm Năng Cẩn tại nhà PNC tại cư xá Thanh Đa,
Sài Gòn.
Hà Nội những năm đầu bậc trung học. Hình bóng
một đứa bé vừa đi vừa cúi nhặt những trái sấu
vàng rụng rải rác trên đường từ nhà đến trường.
Một bà cô lấy chồng ngoại quốc. Đứa cháu buổi
sáng đi học sớm, bà cô ló đầu ra ngoài khung cửa
sổ trên tầng lầu, vo tròn tờ giấy bạc ném xuống
cùng câu dặn dò thường lệ, "Tan học về đúng giờ,
không được la cà dọc đường, nhớ coi chừng xe cộ,
không được ra bờ sông tắm…". Càng về già nụ cười
của bà cô càng thêm đằm thắm. Đất nước chia đôi,
bà theo chồng về Pháp, và ôm chặt đứa cháu vào
lòng, mắt đẫm lệ, "Bây giờ cháu phải về quê với
họ hàng nhà mình, các chú các bác đều theo kháng
chiến, cháu sẽ không phải khổ…". Đứa nhỏ rời Hà
Nội, xách chiếc va li nhỏ về tới gần làng, đứng
cuối bờ đê, nhìn về phía có hai cây cau cao vút,
nhìn thật lâu, khi đêm xuống xóa nhòa cảnh vật,
bất giác cất tiếng hú, âm thanh đập xuống mặt
sông, phụ thêm tiếng sóng vỗ vào bờ đê làm ù
tai, rồi dội đi thật xa, đó là những lời từ biệt
cuối cùng.
Hà Nội. Những buổi sáng mùa đông đứng co ro ở
một góc đường, miệng mở tròn, nhìn một cách
thích thú làn hơi nóng từ trong người tỏa ra như
những đợt khói tròn, rồi trở thành trắng xóa.
Những buổi tối lén bà cô đi xem phim, một lần
trở về muộn, bị mấy đứa trẻ đánh giầy lột hết
tiền bạc. Một lần bị Tây say rượu rượt đuổi,
tiếng la hét của gã ngoại nhân phảng phất điều
chi thật thê lương, ngậm ngùi. Tiếng khóc nức nở
của một cô gái đi chợ bán rau muống sớm, bị Tây
hiếp ở một ngõ hẻm, buổi sáng đi học nhìn thấy
một thân hình rũ rượi, một dòng nước nhờn lẫn
máu chảy dọc theo ống quần, hai tay quờ quạng
tìm cách che bộ ngực, chiếc áo nâu bị xé toạc.
Tiếng rên rỉ của một người đàn ông ăn mặc khác
thường bị trúng đạn ở bụng, nằm quằn quại giữa
đường phố, đứa bé bật khóc nức nở, không phải sợ
hãi, không phải… thỉnh thoảng trong giấc mơ, nó
gặp lại người đàn ông đã chết, cả hai đều không
thể quên con phố cũ…
Mai, Mai, để anh kể cho em nghe về một thành phố
mà anh vừa biết yêu nó thì phải rời bỏ, một
quãng đời của anh, bây giờ nhớ lại thấy đâu đó
trong quá khứ những trái sấu vàng vương vãi,
tiếng lá vàng xào xạc, tiếng còi mười giờ chạy
dọc theo con phố Tràng Tiền. Mùa Thu, màu thu Hà
Nội, những lá cây vàng úa, hàng cây hai bên
đường hình như cao thêm, thành phố trang nghiêm
và buồn rầu như đang trầm ngâm suy nghĩ, buổi
sáng trong suốt không vẩn một hạt bụi, tiết trời
lành lạnh người ta quên đi, rồi đột nhiên nhớ
lại, và chút giá lạnh đã len vào tâm hồn; buổi
chiều sẽ bất chợt trở về, những con đường sẽ im
lìm và trầm lặng hơn như giấu giếm một tiếng thở
dài; chúng như bị bỏ quên, trừ một hai cặp tình
nhân đi lại, hoặc một hai đứa nhỏ tha thẩn… Để
anh kể cho em nghe về một thành phố mùa thu có
những hạt mưa nhỏ như những hạt bụi bay trong
gió, mùa hè vàng nắng đã qua đi từ lâu cùng
những buổi tắm sông, nằm trên cát nóng bỏng,
nhìn thẳng vào mặt trời.
Hà Nội, thành phố có hương thơm và mặt trời ve
vuốt, thành phố mà Cẩn nói, được dựng lên cho
những nhớ nhung và mơ tưởng của một thời trẻ
dại, "con đường Trường Thi, hai hàng me bên
đường vào khoảng tháng sáu, tháng bẩy như thế
này, lá me bắt đầu rụng để lộ những nhánh cây
nhỏ, những đứa trẻ háu ăn đã vô ý tưởng là những
quả me, và ngó lên bằng cặp mắt thèm thuồng. Mùa
hè vàng nắng không còn, nhưng những ngày cuối
mùa nóng, người dân Hà Nội có thói quen trước
khi ngủ mở tất cả những cánh cửa sổ để đón gió
mát, đột nhiên trong đêm khuya, có những cơn gió
lạ từ đâu chợt tới, thổi thốc những chiếc lá khô
bay phấp phới, và người lớn vội vàng trở dậy
đóng bớt cửa sổ, "đó là những dấu hiệu đầu tiên
báo hiệu mùa thu trở về."
Mùa Thu, những đứa trẻ xâu những đôi guốc, dép vào một mẩu dây, rồi một tay cầm cặp, một tay xách xâu guốc dép, chúng đi thành từng đàn, tranh nhau cười nói, vung tay múa chân, khi đi qua nhà một đứa trong bọn, bọn trẻ đứng từ phía ngoài, lăng xâu guốc dép, ném chiếc cặp thật mạnh vào tận trong nhà, rồi sau đó thảnh thơi, hớn hở chạy theo bè bạn, mùa hè: những xe phun nước chạy chầm chậm, những tia nước bắn tung toé lên mặt đường nóng bỏng, lũ trẻ chạy theo sau ngửa mặt hứng; mùa lạnh: những người cảnh binh mặc áo dạ tím, những đứa trẻ không còn dám tháo bỏ giầy dép ra khỏi chân, sợ những lần vô ý vấp ngã, những ngón chân sẽ tê điếng có khi cả giờ đồng hồ. Hoặc là tôi phải quên, hoặc bắt buộc phải nhớ: sống tức là sống trong nỗi nhớ Hà Nội. Chúng tôi: những đứa trẻ rời bỏ Hà Nội và trở thành những con bệnh, mỗi lần thời tiết thay đổi, trở nên lạnh, hoặc những đêm đi chơi về muộn trong một Sài Gòn đã thuộc về chúng tôi, lúc bấy giờ gió nhiều, những hơi thuốc nhỏ nhoi chẳng đủ ấm, thế là tiếng lá cây xôn xao, không gian, thời gian, cảnh vật… tất cả biến thành những sợi dây trói, kéo lũ chúng tôi trở lại Hà Nội, chúng tôi trở thành những kẻ mộng du, đêm đêm trở dậy đi đi lại lại trong Hà Nội…
Mười một năm đã qua, những đứa trẻ đã lớn, chiến
tranh tiếp tục và ngày càng khủng khiếp, ghê
rợn, có những đứa trẻ đã chết (đã trở về Hà
Nội). Trong tập Notes của Tuấn, xen lẫn những
ghi chú về Sartre và Heidegger, Cẩn tình cờ đọc
thấy câu: Hà Nội, pole positif de la douleur (Hà
Nội: cực dương của nỗi đau): Lãng sống đời khổ
hạnh, tập không yêu không ghét đời sống, thật
vậy không, hả Lãng: Ta là kẻ đã đạt…? Có phải
mày đã đạt, và nhìn bạn bè bằng cặp mắt bao
dung, hiền từ pha chút thương hại. Những đứa bạn
lúc nào làm ra vẻ sắp sửa ra đi, sắp sửa lên
đường, lưng còng xuống vì gánh nặng lịch sử,
lịch sử: nơi chốn tự nhiên của sự hung bạo (lieu
naturel de la violence). Vưu làm thơ, tôi còn
nhớ được hai câu: Xin lấy máu làm dầu soi
sáng/Cho con cháu mình soi tỏ mặt nhau. Vưu, kẻ
phóng đãng… còn tôi kẻ mơ ước viết một cuốn sách
nối liền hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn… Mai, Mai… để anh kể cho em nghe về một thành phố thỉnh thoảng buổi sáng có sương mù… Mai thôi làm việc. Khi chúng tôi chia tay nhau tại cầu thang, trong khi chờ thang máy, đột nhiên nàng nói: "Tôi sợ, tôi sợ lắm", nàng nói câu đó bằng tiếng Pháp. Tôi mở cửa thang máy cho nàng và bỗng chợt nhớ câu tôi hỏi vị bác sĩ người Pháp chữa trị cho tôi, khi còn nằm trong nhà thương Grall: Như vậy là chiến tranh đã chấm dứt đối với tôi? (Est-ce que la guerre est finie pour moi?).
Tôi chờ đợi khi ra khỏi nhà thương, khi đứng ở
trước cổng nhà thương Grall nhìn ra ngoài đời
và khi đó chiến tranh đã hết.
Nguyễn Quốc Trụ. (1) Paul Nizan. ___________________________ Ghi chú 1: Năm 1965, sau khi quân đội Mỹ đổ bộ xuống bãi biển Đà Nẵng, biệt động thành cho nổ hai trái mìn claymore tại nhà hàng nổi Mỹ Cảnh, ở bờ sông Sài Gòn. Theo tin tức báo chí hồi đó, con số chết và bị thương là trên hai trăm người, trong đó có tác giả truyện ngắn trên đây .
Truyện được viết tại nhà thương Grall, Sài Gòn
trong khi chờ đợi, hoặc sống hoặc chết.
Nay đăng lại, như một kỷ niệm những ngày ở Sài
Gòn.
Ghi chú 2: Mới đây, sau khi truyện ngắn trên đây
xuất hiện, tác giả có sưu tập thêm được một số
dữ kiện liên quan tới vụ Mỹ Cảnh, trên
Soc.culture.vietnamese. Xin "dán" vô đây để tiện
đường dư luận:
hi all!
Tra^.n nha` ha`ng My~ Ca?nh xa?y ra va`o nga`y Qua'ch Ti?nh ta^n tho+`i...xin kie^'u!
(Trận nhà hàng Mỹ
Cảnh xảy ra vào ngày 26-06-1965. Có 17 Việt
thiệt mạng, Mỹ bị giết 18 người.Thêm 30 người bị
thương trong đó có 5 cảnh sát Việt Nam bị thương.
Chất nổ của 2 trái mìn do công binh xưởng VC tự
tạo (không phải mìn Claymore của Mỹ. Mìn
Claymore của Mỹ không có đồng hồ hẹn giờ) là
loại nitroglycerine (không phải C4 -là loại chất
dẻo trắng-thuốc nổ của VNCH và Mỹ xài). Vụ án Hồ
Con Rùa do Huỳnh Bá Thành (tức họa sĩ Ớt) và
Trương Thìn (đại úy bác sĩ y khoa-nằm vùng trong
QLVNCH-lúc đó làm phó sở Văn Hóa Thông Tin-TP)
chủ trương. Kết quả là Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Hà
Triều-Hoa Phượng, Duyên Anh, Dê Húc Càn (Dương
Hùng Cường), Duyên Anh, Hoàng Hải Thủy,...etc...
đều bị bắt. Các vị này thì không có đặt bom phá
rùa gì hết. Các vị này chỉ viết bài rồi gởi lén
ra nước ngoài. Con rùa đồng này nặng 199 Kílô.
Tại sao chọn 199 kilô ? Đó là tại vì 99 là "cửu
trùng". Còn chọn làm 99 kílô thì con rùa quá nhỏ!;-)))
Theo lời bàn của thầy địa lý Tả Ao và 1 ông thầy
Hong Kong thì đầu rồng ở Dinh Độc Lập. Đuôi rồng
tại hồ con Rùa. Con rồng đang vẫy làm nước Việt
Nam sắp mất! Quy Long rất hợp nhau nên đặt con
Rùa tại hồ này hy vọng là con rồng bớt vẫy vùng.
Đầu con rùa thì hướng vô Viện Đại Học; ý nghĩa
là con rùa này rất tôn sư, trọng đạo, trọng trí
thức. Dây cột xi măng đâm thẳng xuống hồ tượng
trưng cho thanh kiếm cắm vào đuôi của con rồng
cho nó khỏi vẫy vùng. Thật sự mấy tên thầy tào
lao này đếch biết gì cả về phong thủy. Chỉ vẽ
chuyện kiếm tiền với chính phủ VNCH. Nước Việt
Nam CH bị mất (theo cái nhìn của phong thủy) là
do Dinh Độc Lập làm quá dở về phong thủy. Ngay
trước mặt Dinh Độc Lập là sở thú. Mặt tiền mà
đầy thú vật chạy rong thì làm sao mà khá nổi.
Lúc đó, chẳng ai biết gì cả nên không để ý đến
Minh Đường của Dinh Độc Lập. Ngày nay, khi bị
Liên Sô cúp viện trợ "Asia crisis", bọn VC liền
ra lịnh đem dẹp sở thú đi chổ khác để may ra mà
khá lên.
(Source : Tin Van
|